Câu Bị động Tiếng Việt - 123doc

luận văn về Câu bị động tiếng Việt

Trang 1

Câu bị động tiếng Việt

Vấn đề câu bị động trong tiếng Việt đã được bàn đến khá nhiều nhưng cho

đến nay các ý kiến vẫn còn phân tán, thậm chí ngay cả đối với việc câu bị động có

tồn tại hay không, Có thể nói vấn đề câu bị động nằm trong một hiện tượng rộng

hơn là cách dùng của các từ bị, được nói chung trong câu tiếng Việt và sự có mặt

của kết cấu cú pháp có danh từ chỉ thực thể làm đối tượng đứng trước động từ chỉ

hành động tác động lên thực thể là đối tượng

Bài viết này tôi không cố gắng đi thuyết phục mọi người rằng trong tiếng

Việt tồn tại câu bị động Ở đây tôi chỉ đề cập đến quan niệm của GS Diệp Quang

Ban về câu bị động tiếng Việt và những suy nghĩ, đánh giá của cá nhân xung quanh

vấn đề mà tác giả đã trình bày trong cuốn “ Ngữ pháp tiếng Việt ”

1 Quan niệm về câu bị động tiếng Việt

1.1 Cấu trúc cú pháp chung của câu bị động

 Điều kiện cần và đủ cho một kiến trúc bị động:

Chủ ngữ bị động, về mặt nghĩa chịu ảnh hưởng của động từ chuyển tác

trong câu bị động

Có mặt của trợ động từ bị động( hay tác tố bị động) bị hoặc được

Vị tố là một câu bị bao( giáng cấp), trong đó có chủ ngữ chủ động( có

thể vắng mặt) và vị tố là động từ chuyển tác; thực thể nếu ở chủ ngữ chủ động của

câu bị bao không trùng với thực thể nêu ở chủ ngữ bị động của câu Điều kiện hai

thực thể này không trùng nhau là điều kiện cần để phân biệt bị, được là trợ động từ

bị động với bị, được là động từ tình thái.

Như vậy, câu bị động chứa một kiến trúc cú pháp, không phải là dạng thức

biến hình từ cho nên những câu nào thoả mãn ba điều kiện trên thì đều là câu bị

động

Trang 2

 Các từ bị, được trong câu bị động vẫn là yếu tố tình thái nhưng chúng được

chuyên môn hoá trong chức năng tạo câu bị động nên chúng có tư cách của trợ

động từ với tính chất hư cao nhất Vậy theo quan điểm của tác giả, bị và được

không phải là động từ thực hay động từ tình thái mà phải được hiểu là hư từ.

 Cấu trúc cú pháp chung của câu bị động:

CN1 (bị

động)

Trợ động từ bị

động: Bị, được

Vị tố1 (Câu bị bao)

Tác tố tạo câu bị

động

CN2

(Chủ động)

Vị tố (động từ

chuyển tác)

Bổ ngữ

(và tân ngữ)

Ví dụ:

Giáp bị thầy chê

Tường được chủ nhà treo đầy tranh

1.2 Chủ ngữ bị động và các vai nghĩa

Theo giáo sư Diệp Quang Ban, trong tiếng Việt với các sự việc thuộc về vật

chất, chức năng cú pháp chủ ngữ trong câu bị động thường do các thực thể sau đây

đảm nhiệm:

Đích thể:

Nó bị ( cảnh sát) phạt

Thuyền được người lái đẩy ra xa

Tiếp thể:

Giáp được ( nhà trường) tặng bằng khen

Thuyền được( thợ) lắp máy điện

Điểm đến:

Xe bị ( kẻ xấu) ném đá

Dù bị ( người ta) chất lên đầy hàng

Đắc lợi thể:

Trang 3

Em bé được mẹ rửa chân cho

Giáp được ( các bạn) chép bài giùm cho

Bị hại thể:

Đứa trẻ bị ( chúng nó) xé rách áo

Nhà bị ( bão) tốc mái

Vị trí:

Tường được ( chủ nhà) treo đầy tranh

Phòng ngủ được (người ta) kê hai cái giường.

1.3 Phân biệt động từ bị động với động từ thực và động từ tình thái

Chức năng cú pháp và các chu cảnh cú pháp khác nhau của bị, được phản

ánh phạm vi hoạt động của chúng trong 3 tiểu phạm trù khác nhau: hoạt động như

động từ thực và làm vị tố trong câu, hoặc như động từ tình thái và không làm vị tố

trong câu, mà cũng có thể hoạt động như trợ động từ bị động( tác tố bị động) tạo

câu bị động và cũng không làm tham gia vào vị tố trong câu Điều này được tổng

kết qua bảng sau:

Tiểu phạm

trù của bị,

được

Chức năng và chu cảnh cú pháp Ví dụ

Động từ thực Làm vị tố; đứng trước bổ ngữ do

danh từ ( cụm dạnh từ) đảm nhiệm

Là vị tố; đứng trước bổ ngữ do một

câu bị bao đảm nhiệm, với điều kiện:

- Chủ ngữ của toàn câu không chịu

tác động của vị tố trong câu bị bao

- Thực thể ở chủ ngữ của toàn câu

không trùng với thực thể ở chủ ngữ

của câu bị bao

Con thỏ bị đạn

Cậu bé được cái bút

Em này bị bố mẹ mất

sớm(Trong cú bị bao,

động từ không chuyển

tác)

Bà ấy được hai đứa con

Trang 4

học toán rất giỏi.(Trong

cú bị bao, động từ

chuyển tác)

Động từ tình

thái

Làm yếu tố tình thái, không tham gia

vào vị tố; đứng trước vị tố là động từ

không chuyển tác, động từ chuyển

tác, tính từ hay một vài quan hệ từ;

các từ này có chủ ngữ trùng với chủ

ngữ của bị, được

Nó được đi

Họ được để xe ở đây

Bạn ấy bị ốm và bị học

lại một năm

Anh có được khoẻ

không?

Trợ động từ

bị động (tính

chất hư từ

cao nhất)

Làm tác tố bị động, không tham gia

vào vị tố; đứng trước vị tố là câu bị

bao (câu này có thể vắng chủ ngữ), vị

tố của câu bị bao là động từ chuyển

tác tác động lên thực thể nêu ở chủ

ngữ của toàn câu; chủ ngữ của câu bị

bao và của bị, được không trùng

nhau

Thuyền được người lái

đẩy ra xa

Đá được( người ta)

chuyển lên xe

Họ bị( kẻ gian ) lấy mất

tiền

Xe bị( kẻ xấu ) ném đá

Tường được treo tranh

Chính từ cách dùng này rất phức tạp của bị, được như bảng trên nên dẫn tới

cấu trúc cú pháp và cấu trúc nghĩa biểu hiện của những câu chứa chúng rất khác

nhau Ví dụ:

Nó được đi xem kịch

Tượng này mà được bằng đồng nhỉ!

1.4 Trường hợp sử dụng bị, được gây lẫn lộn

Ví dụ:

(A) Cầu thủ X bị phạm lỗi

Trang 5

(A’) Em này bị phạm lỗi chính tả trong bài viết

Ở câu (A), chủ ngữ của câu khác chủ ngữ chủ ngữ của “ phạm lỗi” ở câu

( A’), chủ ngữ là một: Em này Theo đó, câu ( A) là câu bị động có bị là trợ động từ

bị động( tác tố bị động) Nếu bỏ đi, nghĩa của câu thay đổi

Ở câu ( A’) là câu có bị là động từ tình thái, không giữ chức năng vị tố của

câu, có thể bỏ đi mà không làm thay đổi nghĩa sự việc của câu

(B) Các nhà báo được chất vấn

(B’) Ông cố vấn bị chất vấn

Ở câu ( B), chủ ngữ của toàn câu và của “ chất vấn” là một: Các nhà báo

Ở câu ( B’), chủ ngữ của câu là ông cố vấn Do đó, được trong câu (B’) là

động từ tình thái, nó không tham gia vào vị tố của câu Bị ở trong câu ( B’) là trợ

động từ bị động, nó không tham gia vào vị tố của câu nên ( B’) là câu bị động

1.5 Câu bị động khác với câu trung tính

Điểm khác biệt của câu trung tính với câu bị động và câu có đề ngữ:

 Câu trung tính là câu có vị tố là động từ chuyển tác, nhưng chủ ngữ không

phải là yếu tố tạo ra hành động chuyển tác ở động từ, mà là chịu tác động của động

từ( như chủ ngữ ở câu bị động)

 Trong câu trung tính không có mặt trợ động từ bị, được (khác với câu bị

động)

 Trước vị tố- động từ chuyển tác ở câu trung tính không thể có một chủ ngữ

tác động Nếu chủ ngữ này xuất hiện thì câu đó sẽ là câu có đề ngữ

Ví dụ:

Vải này bán rất chạy ( Câu trung tính )

Vải này họ bán rất chạy.( Câu có đề ngữ là phần được in đậm )

2 Bàn luận và đánh giá

 Trong tiếng Việt, câu bị động là một vấn đề ngữ pháp đã gây nhiều tranh

cãi Coocđiê viết: “ Tiếng Việt ghét lối nói đó, đáng lẽ nói: “Học trò bị thày phạt”,

Trang 6

tiếng Việt thường hay đổi thành câu chủ động Khi lối nói bị động không thể tránh

được, người ta cấu tạo thành động từ với những từ bị, được, mắc, phải…

 Một số nhà ngôn ngữ học hoài nghi về sự tồn tại của loại câu bị động thậm

chí có những tác giả phản đối gay gắt, kịch liệt rằng nhất thiết phải xoá bỏ vấn đề “

câu bị động” trong tiếng Việt Với tình hình phức tạp như thế, việc chấp nhận trong

tiếng Việt có tồn tại câu bị động là một quan điểm rất tích cực và rất đáng khen

ngợi của giáo sư Diệp Quan Ban Trong bài viết này, tôi đánh giá khá cao quan

niệm này của giáo sư Bởi lẽ trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu

đã viết:

Trịnh Hâm bị cá nuốt rày

Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng

Phải chăng câu thơ trên sử dụng cấu trúc: “Bị SP” Như thế ngay từ tác phẩm

văn học cổ điển ta đã thấy sự tồn tại của câu bị động

 Còn đáp lại quan niệm của một số nhà Việt ngữ học cho rằng tiếng Việt

không có dạng bị động hay câu bị động vì tiếng Việt là loại ngôn ngữ không có

biến đổi hình thái, giáo sư Diệp Quang Ban đã đưa ra một cách hiểu đơn giản là:

Động từ trong tiếng Việt không có biến hình từ , mà phạm trù thái bị động theo

cách hiểu của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ ấn- Âu thì gắn liền với dạng thức biến

hình của động từ trong các ngôn ngữ có biến hình từ Vậy nên một kết luận hiển

nhiên là động từ tiếng Việt theo cách nhìn hình thái học đó, thì không thể có thái bị

động

Nhưng điều quan trọng đấy là kết luận về hình thái động từ chứ không phải

nói về phạm trù ý nghĩa của thái bị động và cách biểu hiện ngữ pháp tính của nó

trong tiếng Việt.Thiết nghĩ rằng, khi phiên dịch một lối nói, có một kết cấu ngữ

pháp nhất định của một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác, ta cũng có thể dùng

những kết cấu ngữ pháp tương đương nhưng rất có thể là những phương tiện từ

vựng học Do đó bị + V, được + V không phải là hình thức của dạng bị động tương

đương với dạng bị động của tiếng Pháp mà chính là sự kết hợp của những phương

Trang 7

tiện từ vựng học gồm có: Bị/ được- Động từ biểu thị ý nghĩa chịu đựng/ thụ hưởng;

V- biểu thị hành động và trạng thái mà chủ thể phải chịu đựng/ được thụ hưởng

 Một bộ phận khác đã gắn một cái tên cho quan niệm này của tác giả là “

Thói sao phỏng ngữ pháp Âu châu” Nếu đánh giá như vậy thì chưa thật thoả đáng

Đúng là “ bị/ được” có gốc rễ là ở tiếng Hán, bị ( ) và được (đắc) Nhưng ai cũng

biết là một ngôn ngữ phát triển bằng một số cách trong đó có cách vay mượn từ

vựng và ngữ pháp của tiếng nước ngoài Thực tế cho thấy, tất cả những người Việt

Nam nghiên cứu một cách nghiêm túc tiếng Việt từ trước đến nay đều tự nhận thức

được cái gọi là “ thói sao phỏng ngữ pháp Âu châu” Có thể nói không ai có một

trình độ nhất định để làm nghiên cứu mà lại cố tình nhìn tiếng Việt như tiếng Âu

châu Đồng thời cũng không ai tránh được vay mượn các phương pháp và các khái

niệm của nền ngôn ngữ Âu- Mĩ để nghiên cứu tiếng Việt Do đó nếu cứ cho là

người Việt vay mượn ngữ pháp Âu châu thì đó cũng chẳng phải là điều đáng trách

Tuy nhiên, cách hiểu của giáo sư Diệp Quang Ban về vấn đề câu bị động như

tác giả đã trình bày trong “ Ngữ pháp tiếng Việt” có rất nhiều điều cần phải được

đem ra bàn luận và nhìn nhận lại để có thể tạo ra một cái nhìn toàn diện hơn, sâu

sắc hơn về vấn đề này:

Trước hết, tác giả đã mặc công nhận rằng bị/ được trong câu bị động là một

hư từ như đã viết: Các từ bị, được trong câu bị động vẫn là yếu tố tình thái nhưng

chúng được chuyên môn hoá trong chức năng tạo câu bị động nên chúng có tư

cách của trợ động từ với tính chất hư cao nhất Có lẽ cách hiểu này của tác giả có

là do ảnh hưởng của kết cấu bị V, được V trong tiếng Hán Dù là vay mượn của

tiếng Hán nhưng không nên đưa ra kết luận rằng hai kết cấu này tương đồng Một

từ ngoại lai khi du nhập vào từ vựng của một ngôn ngữ khác, có thể giữ những đặc

trưng ngữ pháp của từ gốc, nhưng lại có thể biến đổi về những đặc trưng ấy theo

quá trình phát triển của lịch sử ngôn ngữ, kết quả là làm cho một từ cùng gốc mà có

những đặc điểm ngữ pháp khác nhau Tình hình của bị chính là một ví dụ:Trong

tiếng Hán, bị hiện nayđược nhiều người coi là một hư từ biểu thị dạng bị động cụ

Trang 8

thể là: người Hán không thể nói: “ tha bị liễu” để diễn đạt ý nó bị rồi, cũng không

thể nói “ tha bị nhất phát tử đạn” để diễn đạt ý nó bị một phát đạn… Nhưng khác

với bị tiếng Hán, bị trong tiếng Việt vẫn là một thực từ chân chính và cũng có khả

năng kết hợp rất đa dạng, phong phú

Một số ví dụ sau về cách sử dụng của bị được cho thấy nếu hiểu bị, được là

hư từ e rằng chưa thật hợp lí:

Bị có thể là động từ nội động:

Trần Cừ bị rồi à?

Kỳ thực là nó bị vớí người ta rồi à?

Nếu đặt hai ví dụ này trong ngữ cảnh, chúng ta thấy rõ ràng đây không có sự

lược bỏ của bất kì thành phần nào, mà là một động từ độc lập, biểu thị ý nghĩa chịu

đựng một sự không may( chết, thất bại ) hay cũng có thể nói rằng biểu thị trạng

thái rủi ro của chủ thể Ví dụ khác:

Chính mình(…) đã bị một mẻ chết dở

Chồng chị vẫn bị đánh bị trói suốt đêm

Bà mẹ vợ nó bị xe hơi cán

Qua những cấu trúc có bị V như bị đánh, bị trói, bị đốt… cải biến thành bị ai

đánh, bị ai trói, bị ai đốt…

Trường hợp của được giống như bị:

Chán vạn đứa cũng được chức tước

Tôi được làm chủ tịch

Quân ta được, quân Pháp thua

Do vậy, cả bị và được đều luôn là một động từ độc lập, đóng vai trò chính

trong bộ phận vị ngữ của câu

Về vấn đề này, giáo sư Nguyễn Minh Thuyết cũng đã trình bày một vài suy

nghĩ của mình:

Nếu coi bị, được trong những câu như: “ Nó bị cảnh sát phạt” hay “Giáp

được nhà trường khen” là hư từ thì phải chứng minh chúng là những từ đồng âm

Trang 9

với bị, được trong những câu mà bị, được hiển nhiên là động từ “Nó bị đòn” hay “

Nó được nghỉ” Qủa thật khả năng chứng minh là rất khó Chính tác giả Diệp

Quang Ban chưa giải quyết thoả đáng vấn đề này vì trong nhiều câu, các từ đồng

âm ấy kết hợp với nhau thành một kết cấu đẳng lập và ta không thể giải thích một

từ là hư từ cấu tạo dạng thức bị động của động từ còn một là động từ Ví dụ:

Tám Bính không nhanh mắt, không mau trí khôn thì Năm Sài Gòn vừa bị

bắt, vừa bị đòn đau

Nếu coi bị, được là hư từ đi kèm động từ để cấu tạo dạng bị động thì phải

chấp nhận một kiểu cụm động từ có danh từ đứng chen giữa phần đầu và phần

trung tâm Trên thực tế, chính bộ phận sau bị, được mới là thành tố phụ của cụm

động từ này vì:

Chúng được dễ thay thế bằng các từ nghi vấn: Được gì? ( Được thày khen),

bị làm sao? ( bị cảnh sát phạt)

Chúng dễ được đảo lên đầu câu: Thày khen tôi cũng được vài lần rồi, còn

chê thì chưa hề bị.

Khi đằng sau bị, được xuất hiện một chuỗi động từ quan hệ bình đẳng với

nhau, trong đó có những động từ không có ý nghĩa bị động và không quan hệ trực

tiếp với bị, được Nếu giải thích bị, được là hư từ cấu tạo dạng bị động của một

động từ trong chuỗi thì ta sẽ lúng túng khi giải thích quan hệ giữa hư từ ấy với

những động từ còn lại Ví dụ:

Nhà vua bị họ Mạc sai người vào ngục giết chết

Điểm thứ hai tôi muốn nói đến là tính chất thực và hư của bị, được nói cách

khác là chức năng khác nhau của bị, được với tư cách là động từ thực, động từ tình

thái, trợ động từ bị động mà tác giả đã trình bày Thực ra vấn đề bị, được là động từ

hư hay động từ thực có liên quan đến phần cú pháp Việc xem xét một động từ nào

đó là có tính chất hư hay thực là một việc không giản đơn chung cho nhiều ngôn

ngữ, không chỉ riêng đối với các ngôn ngữ không biến hình từ như tiếng Việt Và

việc phân biệt động từ thực hay hư còn ảnh hưởng đến việc xác định tính thực hay

Trang 10

hư của động từ tình thái Khi đề cập tới việc phân biệt bị, được ở những tư cách

hoạt động khác nhau, tác giả không đưa ra một tiêu chí nào hay một căn cứ, cơ sở

chung nào

Về vấn đề này, trong những nhà nghiên cứu trước đây, Trương Văn Chình và

Nguyễn Hiến Lê là những người coi trường hợp bị, được đứng trước động từ ngoại

động( như: Giáp bị đánh) là phó từ bị động của động từ( auxiliaries passif des

verbes) và kiểu câu này là câu bị động; đứng trước kết cấu C-V( (như Giáp bị ất

đánh) là phó từ của câu và kiểu câu này là câu chủ động có đề ngữ; cũng tức không

coi chúng trong cả hai trường hợp này là động từ thực, chỉ coi chúng là những từ

nhiều ít đã hư hoá( nhiều ở trường hợp thứ nhất, ít hơn ở trường hợp thứ hai) Theo

quan điểm của cá nhân, chúng ta có thể dùng cách lược bỏ các từ bị, được để chứng

minh tính chất hư của bị, được theo cách hiểu hư từ là từ không mang nghĩa từ

vựng, có chức năng diễn đạt những mối quan hệ ngữ pháp Bởi vì một trong những

cách thể hiện nội dung vừa nêu là sự vắng mặt của chúng với tư cách hư từ không

ảnh hưởng đến nghĩa sự việc của câu Ví dụ:

Giáp được thày khen

So sánh với:

Giáp thày khen, ( còn tôi thì không)

Song có lẽ một thực tế cho thấy không phải mọi trường hợp sự có mặt của hai từ

bị, được cũng dễ dàng chuyển thành cách dùng không có mặt chúng Ví dụ:

Giáp được khen

So sánh với:

Giáp khen

Qua những ví dụ trên chứng tỏ lại một lần nữa một trong những điều kiện để

có kiến trúc bị động là sự có mặt của hai tác tố này

Điểm thứ ba cần được xem xét và bàn luận thêm khi giáo sư viết: Vì là câu

diễn đạt hành động nên động từ trong câu bị động là động từ chỉ hành động và hơn

nữa hành động trong kiểu câu này là hành động ngoại động( tác động) Động từ

Từ khóa » Câu Bị đông Trong Tiếng Việt Là Gì