Câu Hò Trên Công Trường Nam Thạch Hãn

Cùng với hàng vạn người dân Quảng Nam - Đà Nẵng đi xây hồ Phú Ninh sau giải phóng, ngày 8/3/1977, nhân dân Bình Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế) cũng vai gánh, tay cuốc tiến về huyện Triệu Hải (huyện Triệu Phong và Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị bây giờ) phá đồi, ngăn đập xây dựng công trình đại thủy nông Nam Thạch Hãn.

>> Người “khai sinh” hồ Phú Ninh lần hai >> Những người xây hồ đập miền Trung

Nhạc trưởng trên thân đập

Lần theo những thông tin ít ỏi, chúng tôi tìm gặp được vị “nhạc trưởng” trên công trình đại thủy nông Nam Thạch Hãn năm xưa; đó là ông Nguyễn Đức Hoan, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, nguyên Phó ban Bảo vệ Chính trị nội bộ Trung ương.

Ông Hoan chậm rãi kể: Thời gian khảo sát, thiết kế, thi công đập rơi vào đúng giai đoạn khó khăn nhất vì dân tình đói khổ, tỉnh mới nhập sau giải phóng nên áp lực vô cùng. Yêu cầu xây đập đặt ra hết sức bức xúc vì Triệu Hải là vùng trọng điểm của toàn tỉnh, sẽ là vựa lúa của Bình Trị Thiên khi đập hoàn thành. Thời điểm ấy, Nam Thạch Hãn là công trình lớn nhất tỉnh về tất cả mọi mặt.

Khi công trình đại thủy nông Nam Thạch Hãn được khởi công, ông Hoan là Phó Ban chỉ huy Thường trực. Thời điểm ấy, Trưởng ban đang ở TP Huế bận rộn với hàng ngàn công việc sau giải phóng nên ông Hoan cầm trịch chỉ huy công trường luôn.

Ông Nguyễn Đức Hoan, vị “nhạc trưởng” trên đại công trường Nam Thạch Hãn năm xưa

“Tôi phải nằm lại trên công trường chỉ huy thi công ngày này qua tháng khác. Tôi là một kỹ sư thủy lợi nên hầu như mọi việc đều phải tự tổ chức thực hiện, làm việc tính toán từng li. Vùng đất có nhiều bom đạn chiến tranh còn sót lại rất nhiều, chúng tôi phải dàn người thành hàng, dùng gậy chọc xuống đất. Chọc thấy mìn thì cắm cờ báo hiệu, chờ công binh đến xử lý”, ông Hoan nhớ lại.

Lúc này, dân công, thanh niên xung phong đào xới dưới lòng hồ rồi gánh lên đắp đập, kênh mương. Bộ đội tận dụng bom mìn, tháo ngòi, lấy thuốc nổ đánh sập đồi, xẻ núi. Phần sắt thép thì chế thành dụng cụ đào đất.

Khí thế xây hồ đập ngút trời. Lúc huy động thanh niên lớn nhất lên đến 2 vạn người. Khi đó thanh niên đồng bào dân tộc ở các huyện Hướng Hóa, A Lưới, Nam Đông, Minh Hóa, Tuyên Hóa… cũng theo từng đoàn xe với cuốc xẻng trên vai vượt rừng núi xuống Triệu Hải để góp sức xây dựng công trình Nam Thạch Hãn.

“Khi làm xong công trình thì có đến trên 150 người chết và bị thương. Trong đó nhiều cô gái tuổi mới đôi mươi dẫm phải mìn nổ đứt lìa bàn chân”, ông Hoan buồn bã nhớ lại.

GIỮ CHÂN NGƯỜI RA ĐI

Sau khi đập được xây xong, nguồn nước mát chảy thẳng về những cánh đồng. Vụ mùa đầu tiên nhân dân Quảng Trị trúng đậm. Một vùng cát trắng, sỏi đá rộng lớn được phủ một màu xanh bạt ngàn của lúa và hoa màu. Người dân Quảng Trị truyền tai nhau câu vè khi công trình thủy lợi thành công: “Thôi hết cạn rồi chợ Cạn ơi”. Vùng chợ Cạn trước đây quanh năm thiếu nước, người dân phải đi chắt nước uống vô cùng cực khổ. Sau khi nước từ Nam Thạch Hãn về, người dân sống trong ngất ngây sung sướng.

Đến tận bây giờ chất lượng công trình vẫn vô cùng tốt, chưa có một hạng mục nào làm vào thời gian ấy bị hư hỏng. Sau đó, Nam Thạch Hãn còn được công nhận là công trình thủy lợi tốt nhất của châu Á.

Cũng theo ông Hoan, công trình đại thủy nông Nam Thạch Hãn ngoài việc tưới tiêu cho hàng chục ngàn héc ta lúa của tỉnh Quảng Trị và huyện Phong Điền (Thừa Thiên - Huế), nó còn có ý nghĩa về chính trị đặc biệt quan trọng. Bởi vùng Hải Lăng, Triệu Phong toàn cát trắng, sỏi đá lổm ngổm chẳng cây gì sống nổi. Dân tình đói kém, khốn khổ trăm bề.

Lúc này có rất nhiều người theo nhau di dân vào Nam khiến làng mạc tiêu điều. Sau khi có đập, dân không còn bỏ làng đi nữa mà còn quay về làm ăn. “Đó còn là công trình thể hiện sự đoàn kết, là biểu tượng của sự đoàn kết của nhân dân Bình Trị Thiên sau ngày hòa bình”, ông Hoan nhấn mạnh.

CẢM HỨNG CHO VĂN NGHỆ SĨ

Từ QL1A, chúng tôi theo dấu chân của hàng vạn người đi xây đập năm xưa, tìm lên vùng Trấm - Đá Đứng. Trước mắt chúng tôi, đập Nam Thạch Hãn sừng sững giữa mênh mang núi rừng.

Ông Võ Xuân Tân (cán bộ vận hành đập) vồn vã kể chuyện về bài hát “Câu hò trên công trường Nam Thạch Hãn” của nhạc sĩ Trần Hoàn sáng tác sau khi chứng kiến hàng vạn người dân Bình Trị Thiên hồ hởi “chân đồng, vai sắt” đi xây đập.

Ông Tân nguyên là bộ đội 186, tham gia trực tiếp xây dựng đập. Đập hoàn thành, ông xin ở lại bảo vệ và vận hành đập. “Hồi đó thanh niên cả 3 tỉnh hăng hái theo lời hiệu triệu: Đập Trấm là cơm no áo ấm. Nó trở thành động lực thôi thúc và thách thức cả một thế hệ trẻ. Lúc đó, những ai không khăn gói lên đường đi xây đập nếu như không có nhiệm vụ khác thì cũng xem như là hèn nhát, thiếu chí khí”, ông kể lại.

Tiễn tôi ra về, ông Tân cất lại lời bài hát “Câu hò trên công trường Nam Thạch Hãn”: Khoan ơi dô khoan xin mời các bạn, hò là khoan/ Ta nắn dòng mương bắc qua sông qua suối/ Ta cho dòng nước biếc đó chảy xuống đồng xa/ Anh em ta ơi, ới chị em ơi/ Ta bắt tay vào nhanh ta đào thật sâu/ Khoan ơi dô khoan xin mời các bạn/ Khoan ơi dô khoan ơi hò là dố khoan/ Chừ đượm mồ hôi để ngày mai say mùa/ Cho đồng hoang hóa lên xanh lúa xanh mầu…

Một khu vận hành của đập Nam Thạch Hãn để điều tiết đưa nước về xuôi

Bài hát ấy từng truyền tai một thế hệ thanh niên Bình Trị Thiên qua loa phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam. Sau đó lại được chép trao tay nhau hát dậy cả công trường những lúc mệt nhọc.

Cũng theo “nhạc trưởng” Nguyễn Đức Hoan, lúc công trường đang sôi sục thi công thì có một đoàn nhà văn, nhạc sĩ ghé thăm xin đi thực tế để lấy cảm hứng. “Tôi là chỉ huy nên trực tiếp ra tiếp đoàn. Lúc đó tôi có biết anh Tường (nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường), thấy anh ca ngợi Trịnh Công Sơn lắm. Nào là tay viết tài hoa, nhạc sĩ rất có tài. Khi đó tôi cũng không để ý lắm vì không phải trong giới nghệ sĩ. Vả lại, chẳng mấy khi được nghe nhạc của ông Sơn. Nhưng tôi đồng ý và dẫn các anh ấy đi thực tế. Sau đó thì ông Sơn viết bài về công trường thật”, ông Hoan hồi tưởng.

Sau chuyến đi thực tế trên công trường đại thủy nông Nam Thạch Hãn, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết bút ký "Nam Thạch Hãn những ngày đầu tháng Ba". Bút ký này được các thế hệ nhà văn đánh giá cao, đồng thời là một tư liệu quý giá về một thời rần rật khí thế đi xây hồ, đắp đập của thanh niên Việt Nam.

“Chúng tôi là những người kế thừa, vận hành công trình nhưng chưa bao giờ thấy lòng hồ cạn nước. Dù hạn hán khô hết sông hồ thì Nam Thạch Hãn vẫn đầy ắp nước phục vụ tưới tiêu cho hàng chục ngàn héc ta lúa và cả nước sinh hoạt cho nhân dân”, GĐ Xí nghiệp Thủy nông Nam Thạch Hãn Hồ Trọng Long. 

Từ khóa » Xí Nghiệp Thủy Nông Nam Thạch Hãn