Cha Mẹ Có Thể Làm Người đại Diện Hay Người Giám Hộ Cho Con Chưa ...

Giám hộ và đại diện theo pháp luật là hai chế định khác nhau cùng bảo vệ quyền lợi cho cùng một đối tượng (đương sự) là người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật dân sự. Tuy Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) và Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS) đã có hiệu lực thi hành thống nhất kể từ ngày 01/01/2017 nhưng qua thực tiễn áp dụng chế định “giám hộ” và “đại diện theo pháp luật” cho đương sự là người chưa thành niên vẫn thực hiện chưa được thống nhất, có cách hiểu khác nhau, nên trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và các việc khác theo quy định của pháp luật (gọi chung là vụ việc dân sự) vẫn còn có trường hợp người tiến hành tố tụng xác định tư cách cha mẹ của người chưa thành niên tham gia tố tụng khác nhau như: có trường hợp người tiến hành tố tụng xác định cha mẹ là người “đại diện theo pháp luật” cho con chưa thành niên nhưng cũng có trường hợp người tiến hành tố tụng xác định cha mẹ là người “giám hộ” cho con chưa thành niên, do đó cần phân tích để làm rõ nhằm xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của cha mẹ đối với con chưa thành niên khi tham gia tố tụng để giải quyết vụ việc dân sự.

Đối với việc giám hộ và đại diện theo pháp luật được BLTTDS và BLDS điều chỉnh đối với nhiều đối tượng (đương sự) được giám hộ, được đại diện theo pháp luật như người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi… và nhiều cá nhân, pháp nhân làm người giám hộ, làm người đại diện theo pháp luật trong vụ việc dân sự nhưng trong phạm vi bài viết này chỉ đi sâu nghiên cứu, phân tích để làm rõ mọi giao dịch dân sự và việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên tại Tòa án thì cha mẹ có thể làm người giám hộ hay làm người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật dân sự?

Để làm rõ vấn đề nêu trên, cần căn cứ khái niệm quy định tại Điều 46 và Điều 134 BLDS:

- Giám hộ: là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của BLDS (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ).

- Đại diện: là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

Theo đó, Điều 69 BLTTDS quy định năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự là người chưa đủ 18 tuổi (người chưa thành niên) như sau:

- Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.

- Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.

- Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.

Và Điều 21 BLDS quy định về người chưa thành niên như sau:

- Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.

- Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.

- Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.

- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.

Để thực hiện các quy định nêu trên, Điều 52 BLDS quy định người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên như sau:

Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 47 của BLDS: “a) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; b) Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ” được xác định theo thứ tự sau đây:

- Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ.

- Trường hợp không có người giám hộ như đã nêu trên thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ.

-Trường hợp không có người giám hộ là anh chị, ông bà nội, ông bà ngoại như đã nêu trên thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.

Và Điều 136 BLDS quy định người đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau:

- Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

- Người giám hộ đối với người được giám hộ.

Qua đó cho thấy, BLTTDS và BLDS chỉ quy định mọi giao dịch dân sự và việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên tại Tòa án do người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện (kể cả người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên theo Điều 52 BLDS được quy định làm người đại diện theo khoản 2 Điều 136 BLDS), chứ không có quy định thông qua người giám hộ (trừ trường hợp quy định theo Điều 52 BLDS).

Mặt khác, khoản 1 Điều 47 BLDS quy định người được giám hộ bao gồm:

“Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ”.

Thế nhưng, khoản 2 Điều 47 BLDS quy định: “Một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu”. Như vậy, trong trường hợp này, nếu cha mẹ cùng làm giám hộ cho con thì có thể áp dụng cho trường hợp con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hay có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và có yêu cầu người giám hộ hoặc được Tòa án chỉ định, chứ “con” trong trường hợp này không phải là “con chưa thành niên” được quy định tại khoản 1 Điều 47 BLDS như đã nêu trên.

Để lý giải tại sao “cha mẹ” và “người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên theo Điều 52 BLDS” được làm “người đại diện theo pháp luật”của người chưa thành niên mà cha mẹ không làm người giám hộ của con chưa thành niên; bởi vì người đại diện theo pháp luật của cá nhân được quy định tại khoản 1 Điều 136 BLDS gồm: “Cha, mẹ đối với con chưa thành niên”, nên cha mẹ làm người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, còn người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được quy định tại Điều 52 BLDS làm người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên được quy định tại khoản 2 Điều 136 BLDS: “Người giám hộ đối với người được giám hộ”, nên người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được làm người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên. Do đó, cha mẹ và người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên làm người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên để thực hiện theo quy định tại Điều 69 BLTTDS và Điều 21 BLDS đối với người chưa thành niên.

Qua đó cho thấy, mọi giao dịch dân sự và việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên tại Tòa án, nếu cha mẹ của người chưa thành niên còn sống, không mất năng lực hành vi dân sự, không có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; không bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con khi tham gia tố tụng để giải quyết vụ việc dân sự đối với con chưa thành niên thì cha mẹ không làm người “giám hộ” của con chưa thành niên mà cha mẹ làm người “đại diện theo pháp luật” của con chưa thành niên.

Mặt khác, nếu người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ hoặc người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ thì người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên làm người “đại diện theo pháp luật” của người chưa thành niên.

Từ những phân tích, đối chiếu nêu trên cho thấy, BLTTDS và BLDS chỉ quy định mọi giao dịch dân sự và việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên tại Tòa án thì cha mẹ làm người đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên theo quy định tại khoản 1 Điều 136 BLDS, chứ BLTTDS và BLDS không quy định cha mẹ làm người giám hộ cho con chưa thành niên. Nếu trường hợp người chưa thành niên được người giám hộ đương nhiên theo quy định tại Điều 52 BLDS thì người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên trở thành người đại diện theo pháp luật đối với người chưa thành niên theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLDS.

Do đó, trong quá trình kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực giải quyết vụ việc dân sự, nếu Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phát hiện trường hợp bản án, quyết định của Tòa án xác định cha mẹ “giám hộ” cho con chưa thành niên thì kịp thời báo cáo lãnh đạo Viện ban hành kiến nghị để BLTTDS, BLDS được tuân thủ thống nhất.

Thanh Nghị

Từ khóa » Bố Mấy Con điên