Chân Lý – Wikipedia Tiếng Việt
Có thể bạn quan tâm
Nội dung
chuyển sang thanh bên ẩn- Đầu
- Bài viết
- Thảo luận
- Đọc
- Xem mã nguồn
- Xem lịch sử
- Đọc
- Xem mã nguồn
- Xem lịch sử
- Các liên kết đến đây
- Thay đổi liên quan
- Liên kết thường trực
- Thông tin trang
- Trích dẫn trang này
- Tạo URL rút gọn
- Tải mã QR
- Tạo một quyển sách
- Tải dưới dạng PDF
- Bản để in ra
- Wikimedia Commons
- Wikiquote
- Khoản mục Wikidata

| Một phần của loạt bài về |
| Tri thức luận |
|---|
|
| Khái niệm chính
|
| Phân biệt
|
| Trường phái tư tưởng
|
| Chủ đề và quan điểm
|
| Chuyên ngành
|
| Nhân vật
|
| Ngành liên quan
|
|
Chân lý (chữ Anh: Truth, verity, nghĩa gốc: Đạo lý chân thật không biến đổi), hay Sự thật, Lẽ thật, là thuộc tính của những gì phù hợp với sự thật hoặc thực tại.[1] Trong ngôn ngữ đời thường, người ta thường gán khái niệm này cho những điều nhằm phản ánh hiện thực hoặc tương ứng với nó, chẳng hạn như niềm tin, mệnh đề hay câu trần thuật.[2] Chân lí thường được xem là đối lập với những phát biểu sai lầm.
Trong các bối cảnh văn hoá, triết học và tôn giáo khác nhau, cách hiểu về chân lí cũng có sự sai biệt. Tuy nhiên, không có một định nghĩa nào về chân lí được giới học giả đồng thuận tuyệt đối. Nhiều định nghĩa về chân lí đã được đưa ra và tranh luận trong thời gian dài, và không ít vấn đề xoay quanh khái niệm này vẫn chưa đạt được sự thống nhất. Hầu hết các hoạt động của con người đều dựa trên khái niệm này, nơi bản chất của nó thường được mặc nhiên thừa nhận chứ không phải là đề tài tranh luận, chẳng hạn trong báo chí và trong đời sống hằng ngày. Một số nhà triết học cho rằng “chân lí” là một khái niệm cơ bản, không thể giải thích bằng những thuật ngữ nào đơn giản hơn chính nó.[3] Cách hiểu phổ biến nhất cho rằng chân lí là sự tương ứng giữa ngôn ngữ hoặc tư tưởng với một thế giới tồn tại độc lập với tư tưởng; quan điểm này thường được gọi là thuyết tương ứng về chân lí.[4]
Nhiều lí luận và cách tiếp cận liên quan đến chân lí vẫn tiếp tục được giới học giả, triết gia và thần học gia tranh luận.[2][5] Có rất nhiều câu hỏi về bản chất của sự thật vẫn là chủ đề được bàn cãi trong học thuật đương đại. Những câu hỏi đó bao gồm: làm thế nào để định nghĩa chân lí; liệu con người có thể đưa ra một định nghĩa thực sự thông tin và hữu ích về chân lí hay không; những thực thể nào có thể được xem là mang chân lí (tức có thể đúng hoặc sai); liệu chân – giả có mang tính nhị trị (chỉ có đúng hoặc sai), hay còn tồn tại những giá trị chân lí khác; tiêu chí nào giúp chúng ta nhận biết sự thật và phân biệt nó với sai lầm; vai trò của chân lí trong việc hình thành tri thức; và liệu chân lí luôn tuyệt đối, hay có thể tương đối tuỳ theo góc nhìn của con người.[6]
Khái niệm chân lí được vận dụng trong nhiều lĩnh vực như triết học, nghệ thuật, thần học, luật học và khoa học. Nền văn minh nhân loại chỉ thực sự thoát li khỏi những khái niệm chân lí mang màu sắc mê tín tôn giáo từ thời Hi Lạp cổ đại – giai đoạn mà trong nền văn minh phương Tây, khoa học tự nhiên và tư tưởng nhân văn cùng phát triển, mở đường cho tư duy lí tính.
Từ “chân lí” trong tiếng Việt, dùng để chỉ sự phản ánh chính xác các sự vật khách quan và quy luật của chúng trong bộ não con người; từ trái nghĩa với nó là sai lầm, lầm lẫn. Khái niệm chân lí có thể được phân loại theo phạm trù triết học và đặc điểm bản tính của nó. “Chân lí khoa học” được xác lập thông qua phương pháp logic và nghiệm chứng thực nghiệm, và phải được thực tiễn kiểm nghiệm. “Chân lí tương đối” nhấn mạnh rằng nhận thức của con người về các quy luật khách quan luôn mang tính có điều kiện và giới hạn lịch sử.
Trong bối cảnh văn hoá phương Đông, ý niệm về “chân lí” có nguồn gốc từ khái niệm “chân tri” trong Trang Tử; đến thời Lục triều, thuật ngữ này được các kinh văn Phật giáo sử dụng như một khái niệm tôn giáo. Sang thời Edo của Nhật Bản, từ này được dung nạp qua phong trào “Rangaku” (nghiên cứu Hà Lan), rồi được chuyển ngữ trở lại Trung Quốc vào cuối thời Thanh. Từ đó, khái niệm “chân lí” trở nên phổ biến trong các lĩnh vực như chính trị và triết học, và được sử dụng rộng rãi trong diễn ngôn hiện đại.
Lịch sử
Thời cổ đại
- Triết học Hi Lạp cổ đại: Các nhà triết học Hi Lạp cổ đại là những người đầu tiên đào sâu tư tưởng về chân lí. Parmenides nêu luận điểm nổi tiếng: “Cái tồn tại thì tồn tại, cái không tồn tại thì không tồn tại”, xem “tồn tại” là đối tượng trung tâm của chân lí và cho rằng chỉ có tri thức về “tồn tại” mới là chân lí đích thực. Socrates, thông qua phương thức đối thoại và truy vấn, tìm kiếm những chân lí phổ quát và xác quyết; ông tin rằng chân lí tồn tại trong tri thức về bản ngã và đạo đức, và đề xuất luận điểm “tri thức là đức hạnh”. Plato kế thừa tư tưởng của Socrates và xây dựng học thuyết “Quan niệm” (en), cho rằng thế giới hiện thực chỉ là bản mô phỏng của thế giới quan niệm, và tri thức về các quan niệm mới là chân lí. Aristotle chú trọng kinh nghiệm và logic hơn, cho rằng chân lí là sự phù hợp giữa tư duy và tồn tại, và con người đạt đến chân lí thông qua quan sát thực tại cùng lập luận logic.
- Triết học Trung Quốc cổ đại: Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại, Nho gia xem các nguyên tắc đạo đức như “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” là biểu hiện của chân lí, nhấn mạnh việc cá nhân tu thân dưỡng tính và tuân thủ các chuẩn mực đạo đức xã hội để đạt đến chân lí. Đạo gia lại chủ trương thuận theo tự nhiên; “Đạo” là chân lí tối hậu. Câu nói: “Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo đạo, đạo thuận theo tự nhiên” thể hiện quan niệm rằng con người phải lĩnh hội quy luật tự nhiên để nắm bắt chân lí.
Thời trung đại
- Phương Tây: Thần học Cơ Đốc giáo chiếm giữ vị trí chủ đạo; chân lí được xem là đến từ sự khải thị của Thượng đế (Đức Chúa Trời). Kinh Thánh và giáo lí Hội Thánh trở thành tiêu chuẩn tuyệt đối của chân lí. Triết học và khoa học thời kì này vận hành trong khuôn khổ thần học, phục vụ cho thần học. Thomas Aquinas tìm cách dùng lí tính để luận chứng cho sự tồn tại của Thượng đế (Đức Chúa Trời) và cho tính chính xác của giáo lí, xem giáo lí thần học là chân lí tối cao.
- Phương Đông: Phật giáo lan rộng khắp châu Á. Các giáo lí của Phật giáo như “Tứ đế” (khổ, tập, diệt, đạo) và “Thập nhị nhân duyên” được xem là chân lí giải thích nguồn gốc khổ nạn nhân sinh và con đường giải thoát. Việc nhận thức chân lí đến từ tu hành và lĩnh ngộ phật pháp.
Thời cận đại
- Bước ngoặt nhận thức luận trong triết học phương Tây: Từ thời Phục hưng văn nghệ và Cách mạng khoa học, nhận thức về chân lí thay đổi sâu sắc. Descartes nêu luận đề “Tôi tư duy nên tôi tồn tại”, đặt lí tính làm nền tảng và xem những quan niệm rõ ràng – minh bạch là tiêu chuẩn của chân lí, mở đầu cho bước ngoặt nhận thức luận của triết học cận đại. Những nhà kinh nghiệm luận như Locke, Berkeley, Hume cho rằng chân lí được rút ra từ kinh nghiệm cảm quan, và tri thức bắt nguồn từ kinh nghiệm cảm quan. Ngược lại, các nhà duy lí như Spinoza và Leibniz chú trọng khả năng diễn dịch của lí tính, cho rằng bằng các lập luận thuần lí, con người có thể đạt tới chân lí về thế giới.
- Sự trỗi dậy của chân lí khoa học: Những lí luận khoa học như thuyết nhật tâm của Copernicus hay cơ học cổ điển của Newton làm thay đổi nhận thức về quy luật tự nhiên, và chân lí khoa học ngày càng trở thành nền tảng trọng yếu để nhận thức thế giới. Phương pháp khoa học – quan sát, thực nghiệm, quy nạp, diễn dịch – trở thành công cụ cốt yếu để khám phá chân lí.
Tham khảo
- ^ Merriam-Webster's Online Dictionary, truth Lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2009 tại Wayback Machine, 2005
- ^ a b "Truth". Stanford Encyclopedia of Philosophy. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2020.
- ^ Asay, Jamin (tháng 10 năm 2013). The Primitivist Theory of Truth. Cambridge University Press. tr. 30-33. ISBN 9781107038974.
- ^ O'Connor, Daniel John (1975). The Correspondence Theory of Truth (bằng tiếng Anh). Hutchinson. ISBN 978-0-09-123200-9.
- ^ Alexis G. Burgess and John P. Burgess (2011). Truth (hardcover) (ấn bản thứ 1). Princeton University Press. ISBN 978-0-691-14401-6. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2014. a concise introduction to current philosophical debates about truth
- ^ Achourioti, Theodora; Galinon, Henri; Fernández, José Martínez; Fujimoto, Kentaro (2015). Unifying the Philosophy of Truth (bằng tiếng Anh). Springer. ISBN 978-94-017-9673-6.
Liên kết ngoài
Trích dẫn liên quan tới Chân lý tại Wikiquote
Định nghĩa của chân lý tại Wiktionary
| Cơ sở dữ liệu tiêu đề chuẩn | |
|---|---|
| Quốc tế |
|
| Quốc gia |
|
| Khác |
|
- Chân lý
- Khái niệm nhận thức luận
- Quan niệm trong siêu hình học
- Khái niệm logic
- Nguyên tắc đạo đức
- Ý nghĩa (triết học ngôn ngữ)
- Thực tế
- Khái niệm triết học
- Logic triết học
- Triết học chính trị
- Logic toán
- Bản thể học
- Đức hạnh
- Bản mẫu webarchive dùng liên kết wayback
- Nguồn CS1 tiếng Anh (en)
- Bài cơ bản
- Bài cơ bản sơ khai
Từ khóa » Khái Niệm Chân Lý Trong Triết Học
-
Chân Lý Là Gì? - Luật Hoàng Phi
-
Chân Lý Là Gì ? Tính Chất, Vai Trò Của Chân Lý đối Với Thực Tiễn
-
Chân Lý Là Gì Theo Triết Học Mác - Lênin? Các Tính Chất Của Chân Lý?
-
Chân Lý Là Gì? Chân Lý Có Những Tính Chất Chung Nào? Thế Nào Là ...
-
Chân Lý Là Gì? Các đặc Tính Cơ Bản Và Tiêu Chuẩn Của Chân Lý?
-
Chân Lý Là Gì? Các Tính Chất Và Vai Trò Của Chân Lý đối Với Thực Tiễn
-
Chân Lý Là Gì? Phân Tích Các Tính Chất Của Chân Lý? Tiêu Chuẩn Của ...
-
Tính Chất Của Chân Lý - Cửu Dương Thần Công . Com
-
Chân Lý Là Gì? Vai Trò Của Chân Lý đối Với Thực Tiễn
-
Quan Niệm Về Chân Lý Trong Triết Học Phương Tây
-
[PDF] Tìm Hiểu Quanđiểm Biện Chứng Về Chân Lý
-
Quan Niệm Của M.Heidegger Về Bản Chất Chân Lý - Viện Triết Học
-
Theo Triết Học Mác - Lênin - Bản Chất Của Nhận Thức Là Gì? - Luật Havip
-
Quan Niệm Về Chân Lý Và Tiêu Chuẩn Của Chân Lý