Chí Làm Trai – Wikisource Tiếng Việt

Chí làm trai của Nguyễn Công Trứ 6338Chí làm traiNguyễn Công Trứ

Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc; Nợ tang bồng vay trả, trả vay. Chí làm trai nam, bắc, đông, tây, Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể. 5Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, 人 生 自 古 誰 無 死 Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh[1]. 留 取 丹 心 照 汗 青 Đã hẳn rằng ai nhục, ai vinh, Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ[2]. Cũng có lúc mua dồn sóng vỗ 10Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong[3]. Chí những toan xẻ núi, lấp sông, Làm nên tiếng phi thường đâu đấy tỏ, Đường mây[4] rộng thênh thênh cử bộ[5], Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo. 15Thảnh thơi thơ túi, rượu bầu.

   

Chú thích

  1. Nguyên là hai câu thơ của Văn Thiên-Tường trong bài Chính khí ca, nghĩa là: Người ta sống ở đời tự xưa ai là không chết [miễn là] để lại tấm lòng son soi sáng trong sử sách (Hãn: mồ hôi; thanh: xanh; hãn thanh là tre xanh, hơ lửa cho chảy nước ra, đời xưa chưa có giấy dùng để viết. Bởi vậy dùng hai chữ ấy để nói sử sách. Chữ nho có chữ "thanh sử 青史", ta dịch là "sử xanh", cũng do chữ ấy mà ra).
  2. Vị ngộ 未遇: chưa gặp vận, chưa làm nên.
  3. Cuồng phong 狂風: (cuồng: điên; phong: gió); gió thổi mạnh trong khi có bão táp.
  4. Đường mây: dịch chữ "vân trình 雲程" đường lên mây, lên chỗ cao; nghĩa bóng là đường khoa cử, công danh.
  5. Cử bộ: cất bước đi.

Từ khóa » Bài Thơ Chí Làm Trai