Chỉ Số Về Mức độ Chênh Lệch Giàu Nghèo (hệ Số GINI) Thành Phố ...
Có thể bạn quan tâm
Tạp chí Kinh tế - Tài chính (Bộ Tài chính) - eISSN 2734-9144; ISSN 2734-9136 - HOẠT ĐỘNG TRONG NGÀNH
- Tin tức - sự kiện
- Thống kê tập trung
- Thống kê Bộ, ngành
- KINH TẾ - XÃ HỘI
- Thời sự - Chính trị
- Kinh tế
- Văn hóa - Xã hội - Môi trường
- TƯ LIỆU ĐỊA PHƯƠNG
- Số liệu thống kê
- Kinh tế - Xã hội
- Chuyên đề cơ sở
- NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
- SÁCH HAY THỐNG KÊ
- QUỐC TẾ
- Thống kê nước ngoài
- Hội nhập quốc tế
- LIÊN HỆ
- THƯ VIỆN
- Thư viện ảnh
- Thư viện video
- Thư viện tài liệu
- GIỚI THIỆU
Thực trạng bất bình đẳng thu nhập của thành phố Hải Phòng
Hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (hệ số GINI) của cả nước biến động không nhiều, giảm từ 0,430 năm 2016 xuống 0,375 năm 2020; Vùng Đồng bằng sông Hồng giảm từ 0,407 xuống 0,375 nằm trong ngưỡng an toàn và hiệu quả, phù hợp với mục tiêu tăng trưởng cao. Qua bảng số liệu hệ số GINI giai đoạn 2016-2020 cho thấy, bất bình đẳng thu nhập của Hải Phòng có sự thay đổi lớn giảm từ 0,398 năm 2016 xuống 0,268 năm 2020, cho thấy người dân của thành phố Hải Phòng bình đẳng và dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các cơ hội phát triển về trình độ học vấn, kỹ năng làm việc thông qua giáo dục. Hệ số GINI năm 2020 cả nước, vùng đồng bằng Sông Hồng và thành phố Hải Phòng tương ứng: 0,375, 0,327 và 0,268. Như vậy, bất bình đẳng về thu nhập của người dân Hải Phòng luôn luôn thấp hơn cả nước và Vùng Đồng bằng Sông Hồng. Các vùng miền, tỉnh/thành phố có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, trình độ văn hóa, trình độ sản xuất, kết cấu hạ tầng và trình độ dân trí, lợi thế so sánh…, Những đặc điểm đó dẫn đến sự phát triển của các vùng miền, tỉnh/thành phố có sự khác biệt làm cho sự chênh lệch về thu nhập cũng như bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư cũng có sự khác nhau rõ rệt. Hệ số GINI của cả nước, vùng đồng bằng Sông Hồng và của thành phố Hải Phòng có xu hướng giảm dần qua các năm, khoảng cách bất bình đẳng ngày càng được thu hẹp. Vùng Đồng bằng sông Hồng và thành phố Hải Phòng hệ số GINI có tốc độ giảm mạnh và thấp hơn so với cả nước và các tỉnh/thành khác. Xem xét trên mức thu nhập của các nhóm: Mức độ bất bình đẳng thu nhập còn được thể hiện ở chênh lệch giữa thu nhập của nhóm 1 và nhóm 5. Thu nhập 20% của nhóm người có thu nhập thấp nhất và 20% của nhóm người có thu nhập cao nhất đều tăng trong giai đoạn 2016-2020.
Từ bảng 2 cho thấy, thu nhập bình quân đầu người/tháng tăng qua các năm, trong đó thu nhập bình quân đầu người/tháng năm 2020 cao gấp gần 1,2 lần so với năm 2016, tuy nhiên lại giảm 6,7% so với năm 2019. Thu nhập bình quân đầu người nhóm thu nhập thấp nhất của người dân Hải Phòng năm 2019 là 2.404 nghìn đồng, tăng bình quân 1,6% giai đoạn 2016-2019; nhóm thu nhập cao nhất năm 2019 là 12.152 nghìn đồng, tăng bình quân 4,0%. Tốc độ tăng trưởng về thu nhập của nhóm thu nhập thấp chậm hơn nhóm thu nhập cao, làm cho khoảng cách giàu nghèo càng tăng trong giai đoạn 2016-2019. Năm 2016 thu nhập của nhóm cao nhất gấp 7,8 lần nhóm thu nhập thấp, đến năm 2019 đã gấp 8,4 lần. Tuy nhiên, đến năm 2020, do tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19 và hiệu quả của các chính sách an sinh xã hội tới các đối tượng là người nghèo, gia đình chính sách nên nhóm thu nhập thấp tăng 13,9% trong giai đoạn 2016-2020, nhưng ở nhóm thu nhập cao nhất lại giảm -3,4%, điều này đã kéo theo sự chênh lệch thu nhập giữa 2 nhóm nghèo nhất và giàu nhất chỉ còn 3,9 lần, cho thấy khoảng cách thu nhập giữa các nhóm ngày càng gần, bất bình đẳng thu nhập giai đoạn này có xu hướng giảm. So sánh thu nhập năm 2020 và năm 2016 cho thấy, nhóm 1 có mức tăng nhanh nhất so với các nhóm còn lại. Tốc độ tăng ở nhóm 1 cao hơn ở nhóm 5 (tương ứng 1,74 lần nhóm 1 và 0,87 lần ở nhóm 5) đã khiến cho khoảng cách thu nhập của người dân của Hải Phòng ngày càng được thu hẹp. Tuy nhiên nếu so sánh chênh lệch số tuyệt đối về thu nhập giữa những người giàu nhất và những người nghèo nhất cũng đang là một thách thức của mục tiêu phát triển theo hướng đảm bảo công bằng xã hội.Tỷ lệ nghèo
Số liệu bảng 3 cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo của thành phố Hải Phòng giảm nhanh qua các năm. Năm 2016 toàn thành phố có 2,81% số hộ nghèo, tương ứng với 15.525 hộ, đến năm 2020 giảm xuống còn 0,2% hộ nghèo, tương ứng 1.268 hộ. Khu vực thành thị có tỷ lệ nghèo giảm nhiều hơn khu vực nông thôn, chúng tỏ bất bình đẳng thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị là khá lớn. Ảnh hưởng của dịch bệnh đến cơ hội việc làm của người lao động hiện nay
Năm 2020 đại dịch Covid -19 đã tác động đến kinh tế toàn cầu cũng như kinh tế Việt Nam, trong bối cảnh đó, kinh tế Thành phố vẫn duy trì ổn định và phát triển, được đánh giá là điểm sáng trong phát triển kinh tế -xã hội của cả nước. Tuy nhiên, không nằm ngoài ảnh hưởng chung, đại dịch cũng đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động SXKD của các doanh nghiệp (DN) trên địa bàn thành phố, nhiều ngành, lĩnh vực đã phải thu hẹp sản xuất, cắt giảm lao động, có mức tăng trưởng âm so cùng kỳ. Để ứng phó với tác động của dịch Covid-19, DN đã phải áp dụng nhiều giải pháp như: Điều chỉnh nguồn nhân lực, cắt giảm chi phí hoạt động SXKD, thay đổi phương thức cũng như chiến lược SXKD... những giải pháp này phần nào tác động tích cực đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Tuy nhiên, những khó khăn về thị trường, nguồn thu, dòng tiền đã khiến nhiều DN buộc phải sử dụng các biện pháp cắt giảm tiền lương và lao động… đây là những giải pháp tiêu cực nhưng DN buộc phải áp dụng để duy trì sự tồn tại trong thời kỳ dịch bệnh này, nhiều DN đã phải áp dụng các giải pháp tạm thời như cắt giảm lao động, cho lao động nghỉ việc không lương, giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm lương lao động, thu hẹp quy mô SXKD hoặc tạm ngừng hoạt động. Do tác động của dịch Covid-19, trong năm 2020 có tới 74,4% số DN phải áp dụng các giải pháp liên quan đến lao động. Giải pháp cho lao động giãn việc/nghỉ luân phiên có 41% DN lựa chọn, cao nhất trong các giải pháp về lao động; có 25,37% DN áp dụng giải pháp cắt giảm lao động; 22,18% DN cho lao động nghỉ không lương và 21,03% DN giảm lương lao động. Theo quy mô, DN có quy mô nhỏ và vừa có tỷ lệ áp dụng các giải pháp về lao động nhiều nhất, lên tới gần 81,8%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm DN quy mô lớn là 76,3%, quy mô siêu nhỏ là thấp nhất với 66,6%. Cho lao động giãn việc/nghỉ luân phiên là giải pháp được DN ở tất cả các nhóm ưu tiên lựa chọn, trong đó các DN quy mô vừa và lớn áp dụng giải pháp này lên tới trên 51%. Tiếp theo là giải pháp cắt giảm lao động được các DN quy mô nhỏ và vừa áp dụng nhiều nhất so với các nhóm DN còn lại, lần lượt là 27,05% và 25,31%. Giải pháp cho lao động nghỉ không lương và giảm lương cũng được một bộ phận DN áp dụng và tỷ lệ áp dụng giữa các nhóm DN chênh lệch không nhiều. Nền kinh tế bị đình trệ kéo theo nhu cầu về lao động của các DN sụt giảm đã dẫn đến tình trạng cắt giảm lao động ở tất cả các khu vực doanh nghiệp. Tỷ lệ DN cho lao động nghỉ việc nhiều nhất là khối DN ngoài nhà nước với tỷ lệ lên tới 25,9%; khu vực DN FDI với 21,3% và khu vực DN nhà nước với 21,05%. Lao động làm việc trong khu vực DN FDI có mức lương ổn định nhất so với các khu vực DN còn lại, chỉ 11,9% DN FDI áp dụng giải pháp cho lao động nghỉ không lương và 7,7% DN áp dụng giải pháp giảm lương nhân viên; trong khi tỷ lệ DN cho lao động nghỉ không lương và giảm lương khu vực DN Nhà nước lần lượt là 19,3% và 29,82%; khu vực DN ngoài nhà nước lần lượt là 23,3% và 22,7%. Theo khu vực kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (số lượng DN ít) có tỷ lệ DN áp dụng giải pháp cắt giảm lao động và cho lao động giãn việc/nghỉ luân phiên cao nhất, với tỷ lệ lần lượt là 32,4% và 48,6%; khu vực công nghiệp và xây dựng có tỷ lệ DN áp dụng hai giải pháp trên ở mức 26,4% và 43,6%; khu vực dịch vụ ở mức 24,5% và 39%. Có thể thấy, các giải pháp điều chỉnh nguồn nhân lực của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong mùa dịch khiến cho thu nhập của mỗi lao động bị ảnh hưởng nghiêm trọng.Khuyến nghị nhằm hạn chế bất bình đẳng thu nhập tại Hải Phòng trong giai đoạn 2021-2025
Bất bình đẳng thu nhập sẽ dẫn đến bất bình đẳng xã hội, gây ra các vấn đề như tỷ lệ thất nghiệp tăng, tỷ lệ tội phạm tăng, năng suất lao động bình quân giảm, do đó, đây là vấn đề giải quyết của quốc gia nói chung và của thành phố Hải Phòng nói riêng. Trong bối cảnh các tỉnh, thành phố phải xử lý những hậu quả của đại dịch Covid-19, Thành phố cần có những biện pháp để khắc phục những khó khăn hiện nay, giảm bớt thiệt hại về thu nhập cho người lao động. Về phía chính quyền thành phố: Đã ban hành nhiều chính sách giúp ngăn ngừa, kiểm soát bệnh dịch, hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động tháo gỡ khó khăn, đảm bảo an sinh xã hội, đưa ra các gói hỗ trợ để giúp người lao động có thêm thu nhập trong giai đoạn nghỉ việc, giãn việc do dịch Covid-19. Tuy nhiên, để các chính sách này phát huy được hiệu quả, cần có sự kết phối hợp chặt chẽ từ các Bộ, ngành, các địa phương nhằm thúc đẩy nhanh các thủ tục hướng dẫn, cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm các gói hỗ trợ được triển khai kịp thời, hiệu quả và đúng đối tượng. Về phía các doanh nghiệp: Cần phải nghiên cứu đổi mới, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, kinh doanh; tìm thị trường mới cho nguyên liệu đầu vào, nghiên cứu mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ngoài các thị trường tiêu thụ truyền thống; sử dụng công nghệ thông tin để đa dạng hóa từ kinh doanh trực tiếp đến kinh doanh trực tuyến; tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội đào tạo nâng cao trình độ và kỹ năng. Về phía người lao động: Cần nỗ lực nghiên cứu, học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tự trang bị các kỹ năng mềm để đảm bảo khả năng thích nghi với sự thay đổi không ngừng của thị trường lao động. Người lao động cũng nên hiểu và chia sẻ với doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn này. Trong quá trình thực hiện triển khai các gói hỗ trợ của Chính phủ, người lao động cần thực hiện nghiêm túc, khai báo trung thực theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền; đảm bảo các gói hỗ trợ đến được đúng đủ và đủ đối tượng. Trong dài hạn, Thành phố cần thực hiện giảm bất bình đẳng thu nhập qua việc giúp người dân ở các khu vực tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục và y tế. Đặc biệt quan tâm đến những địa phương có khó khăn về điều kiện tự nhiên, hạ tầng cơ sở, trình độ dân trí, trình độ sản xuất,… Theo đó, Thành phố cần có chính sách ưu tiên, đầu tư cho giáo dục ở khu vực khó khăn; cần có chính sách hỗ trợ về tài chính cho hộ gia đình nghèo, giảm bớt các chi phí cho giáo dục để đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo dục cho lao động nghèo, thực hiện cải cách giáo dục nhằm cân bằng cơ hội và phát triển kỹ năng cho người lao động là vô cùng quan trọng. Thành phố cần xây dựng được chiến lược đầu tư nguồn lực con người, khuyến khích tạo việc làm, khuyến khích hình thành một tầng lớp trung lưu rộng lớn trong xã hội; thiết kế hệ thống thuế sao cho không triệt tiêu động lực làm giàu của những người giàu; tăng đầu tư công vào những địa phương kém phát triển; đồng thời, nâng cao chất lượng quản lý đầu tư công cũng như cải thiện chất lượng dịch vụ công, để các kết quả đầu tư đến với người dân, đặc biệt là nhóm người dân nghèo. Về chính sách hỗ trợ y tế: Thành phố tiếp tục thực hiện chính sách mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo; hỗ trợ bảo hiểm y tế cho người cận nghèo và học sinh, sinh viên; hỗ trợ cho khám, chữa bệnh cho các địa phương kinh tế còn khó khăn. Đồng thời, tăng đầu tư công cho cơ sở hạ tầng y tế, đây cũng là cơ chế chính sách cần thiết, quan trọng trong nâng cao chất lượng sống và bảo vệ sức khỏe cho người dân. Để giải quyết bất bình đẳng thu nhập của địa phương, Thành phố cần xây dựng được một chiến lược tăng trưởng kinh tế mới cùng các chính sách phân phối thu nhập phù hợp, tập trung cải cách thể chế pháp luật, thị trường cạnh tranh, công bằng và mở, tạo “sân chơi” bình đẳng cho cả các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ; đồng thời đặt ra vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư dựa trên cơ sở phát triển các loại hình kinh tế, khuyến khích người dân làm giàu và thực hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp của các nguồn lực./.Phạm Thị Lý
Trưởng phòng Phòng Thống kê Xã hội, Cục Thống kê TP Hải Phòng Về trang trước In trang Các bài viết khác
Điểm xuất phát của cả nước khi bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam 30/07/2025
Đánh giá đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng kinh tế tỉnh Thái Bình giai đoạn 2021-2025 24/06/2025
Đẩy mạnh liên kết vùng trong phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Hà Nội 13/03/2025
Phát triển kinh tế vùng: Kinh nghiệm của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam 12/03/2025
Đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam 26/02/2025
Đánh giá các yếu tố tác động đến ý định khởi nghiệp kinh doanh trong kỷ nguyên số 26/02/2025
Trách nhiệm xã hội và cơ sở lý thuyết về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 24/02/2025
Phát triển ngành Dệt may Việt Nam: Bài học kinh nghiệm từ biến động kinh tế-chính trị-xã hội tại Bangladesh 21/02/2025
Đào tạo nguồn chất lượng nhân lực cao ưu tiên của các nước có thu nhập trung bình 21/02/2025
Nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy sự phát triển khu phố chuyên doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội 18/02/2025
Đo lường quá trình chọn lựa ngân hàng để thực hiện giao dịch của nhóm khách hàng cá nhân tại Thành phố Hà Nội 17/02/2025
Đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ tại các tập đoàn kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội 16/01/2025
Thẻ tín dụng nội địa - Nhân tố tác động và hàm ý chính sách 08/01/2025
Quy trình vận hành thị trường carbon khi hoạt động thí điểm vào năm 2025 tại Việt Nam 07/01/2025
Mối quan hệ giữa năng lực nội tại và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Hải Dương 07/01/2025
Quy định về định danh khách hàng điện tử trong hoạt động ngân hàng của Liên minh Châu Âu và gợi ý giải pháp cho Việt Nam 06/01/2025
Thống kê kết hợp với dữ liệu tạo ra lực lượng sản xuất mới trong thời đại số 31/12/2024
Đóng góp của hoạt động du lịch trong tăng trưởng kinh tế tỉnh Quảng Ninh 18/12/2024
Bằng chứng thực nghiệm về tác động lan tỏa của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới và ngụ ý cho Việt Nam 16/12/2024
Các nước thu nhập trung bình cần trải qua 2 quá trình chuyển đổi liên tiếp để gia nhập nhóm thu nhập cao 11/12/2024
Xuất khẩu nông sản Việt Nam sang Trung Quốc trong bối cảnh hậu Covid-19 11/12/2024
Quản trị an ninh kinh tế trên địa bàn tỉnh An Giang 11/12/2024
Nghiên cứu thay đổi tổ chức, quản lý điều tra chăn nuôi hằng năm 28/11/2024
Phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến biến động năng suất lao động tổng hợp chung toàn nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023 26/11/2024
Xu hướng phát triển hoạt động tự sản tự tiêu của hộ gia đình giai đoạn 2020-2022 tương đối ổn định 22/11/2024
Sự cần thiết Sửa đổi Bộ Chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững của Việt Nam - Đề xuất và kiến nghị 20/11/2024
Triển khai chỉ tiêu 6.5 về thu nhập của huyện nông thôn mới đặc thù không có đơn vị hành chính cấp xã thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 18/11/2024
Quy trình xác nhận tiêu chí 10 Thu nhập thuộc Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 15/11/2024
Sử dụng số liệu để phân tích, đánh giá nâng cao năng suất các nhân tố tổng hợp 14/11/2024
Thực trạng quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu của các trường đại học thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội 13/11/2024
Sự cần thiết xây dựng Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch 28/10/2024
Khoa học dữ liệu - công cụ đảm bảo thành công cho tiến trình chuyển đổi số của Việt Nam 18/10/2024
Đánh giá khả năng an toàn tài chính theo khía cạnh dòng tiền của các doanh nghiệp logistics niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam 15/10/2024
Quy trình tính toán tỷ trọng đóng góp của hoạt động du lịch trong tăng trưởng kinh tế tỉnh Quảng Ninh 09/10/2024
Nghiên cứu áp dụng Chuẩn trao đổi dữ liệu và dữ liệu đặc tả thống kê trong công tác phổ biến số liệu thống kê nước ngoài tại Việt Nam 08/10/2024
Kết hợp giữa Học máy (Machine Learning) và Thống kê: Kết nối giữa hai thế giới 08/10/2024
Tin tức nổi bật
Phát triển kinh tế vùng: Kinh nghiệm của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam
Việt Nam nâng cao vị thế hướng tới trở thành nền kinh tế thu nhập cao
Chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực dẫn dắt tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp
Bộ Tài chính tính giảm thuế thu nhập cho nhân lực công nghệ cao Giới thiệu Tạp Chí IN
Kỳ I+II tháng 01 năm 2025 (685+686)
Kỳ II tháng 12 năm 2024 (684)
Kỳ I tháng 12 năm 2024 (683)
Kỳ II tháng 11 năm 2024 (682)
Infographic
Tình hình kinh tế - xã hội cả nước tháng Mười và 10 tháng năm 2023 Tin qua ảnh Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!
Tôi đánh giá cao Tôi rất hài lòng Bình thường Không có gì nổi bật Đánh giá Xem kết quả Kết quả Đánh giá của đọc giả về thông tin chúng tôi cung cấp Tổng cộng: phiếuTẠP CHÍ CON SỐ & SỰ KIỆN
Đơn vị chủ quản: Tạp chí Kinh tế - Tài chính (Bộ Tài chính) Giấy phép xuất bản số: 340/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 09 tháng 6 năm 2021 Tổng biên tập: TS. Phạm Thu Phong Trụ sở chính: 162 Nguyễn Văn Cừ, Long Biên, Hà Nội Email: [email protected] Website: consosukien.vn
© 2018 Thuộc về Tổng cục thống kê. All rights reserved. Đang online: 240 Tổng truy cập: 72.254.555 Top Từ khóa » Hệ Số Gini Của Việt Nam 2019
-
Định Vị Việt Nam Trong Lộ Trình Tăng Trưởng Toàn Diện - Chi Tiết Tin
-
Xu Hướng Bất Bình đẳng Trong Phân Phối Thu Nhập ở Việt Nam Giai ...
-
Gini Index - Vietnam - World Bank Data
-
Nghiên Cứu Thực Trạng Bất Bình đẳng Về Thu Nhập Tại Việt Nam Giai ...
-
Xu Hướng Bất Bình đẳng Thu Nhập Tại Việt Nam Nằm Trong Ngưỡng ...
-
Chỉ Số Về Mức độ Chênh Lệch Giàu Nghèo (hệ Số GINI) TP Hải Phòng ...
-
Chính Sách Tiền Tệ Hướng Tới Giảm Thu Nhập Bất Bình đẳng ở Việt Nam
-
KẾT QUẢ KHẢO SÁT MỨC SỐNG DÂN CƯ NĂM 2020 - Kinh Tế Xã Hội
-
Xã Hội Quý II Và 6 Tháng Năm 2020 (phần 3) - Detail
-
Việt Nam Vào Nhóm Các Nước Có Chỉ Số Phát Triển Con Người Cao
-
Phát Triển Vì Con Người, Hướng Tới Các Giá Trị Tiến Bộ Và Nhân Văn
-
[PDF] Báo Cáo Phát Triển Con Người 2019
-
Phương Pháp Biên Soạn Chỉ Số đánh Giá Trình độ Phát Triển Kinh Tế

