| Được tin Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi đã từ trần vào lúc 7:30 chiều ngày 23/6/2007, gia đình chúng tôi xin thành thực chia buồn cùng bà Nguyễn Chánh Thi và tang quyến. Xin cầu mong linh hồn ông đươc siêu thoát về cõi Phật. Nguyễn Mạnh Quang và gia đình Ngày 25/6/2007 Tưởng nhớ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi (23/2/1923 – 23/6/2007) là một vị tướng lãnh thẳng thắn bộc trực, lại có tính rộng lượng, hào sảng, bình dị, nên được toàn thể quân dân miền Nam vô cùng kính mến. Ông đã thích ai, thì dù không mời ông vẫn đến. Không thích ai, thì dù yến tiệc tiếp đón linh đình ông vẫn không màng. Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi là một nhân vật lịch sử cận đại của Việt Nam . Trong cuộc đời binh nghiệp, ông đã hai lần cầm quân chống lại những hành động phản dân hại nước của gia đình chế độ Ngô Đình Diệm (chế độ độc tài, đạo phiệt Da-tô, và gia đình trị) và Nguyễn Văn Thiệu (chế độ quân phiệt Da-tô). Lần thứ nhất: với chức vụ đại tá nắm giữ chức vụ tư lệnh binh chủng Nhẩy Dù, ông và một số anh em sĩ quan thân tình chỉ huy một số các đơn vị Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đồn trú tại các vụ phụ cận Sàigòn tổ chức đánh thẳng vào Dinh Độc Lập. Biến cố này được gọi là chính biến 11/1/1960. Cuộc chính biến này được toàn thể quân dân miền Nam nhiệt liệt ủng hộ. Đã có rất nhiều chính khách và nhân sĩ hăng hái tham gia, trong đó có những nhân vật tiếng tăm như nhà văn Nguyễn Tường Tam, Bác-sĩ Phan Quang Đán, cụ Phan Khắc Sửu, Hoàng Cơ Thụy, và nhiều nhân sĩ khác như các ông Nguyễn Bảo Toàn, Phan Bá Cầm, Trần Tương, Võ Hòa Khanh, Nguyễn Liệu, Phan Bá Phụng, Trần Văn Ngay, Đinh Xuân Quảng, Trần Thị Kim Dung (bà Đinh Xuân Quảng), Phạm Lợi, Lương Ngọc Hải (Tống Ngọc),(1) v.v….Vì chưa có kinh nghiệm, và thiếu thống nhất hành động trong tổ chức nên việc dấy binh này bị thất bại. Cũng vì thế mà ông và một số sĩ quan cùng chí hướng và thân cận phải chạy trốn sang Cao Mên tỵ nạn vào chiều ngày 13/9/1960. Ngay sau khi quân dân miền Nam thành công trong công việc đạp đổ chế độ Ngô Đình Diệm vào ngày 1/11/1963, ông được trở về nước ngày 5/11/1963. Lần thứ nhì: Tháng 8 năm 1964, ông được thăng cấp bậc Thiếu Tướng và được đề cử ra Huế nắm giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và Vùng 1. Tại đây, ông tích cực ủng hộ Phong Trào Phật Giáo đấu tranh cho quyền lợi tối thượng của dân tộc. Cũng vì thế mà ngày 31/7/1966, Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge và chính quyền quân phiệt Nguyễn văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ bắt ông đưa đi sống biệt xứ ở Hoa Kỳ. Kể từ đó ông sống cuộc đời lưu vong cho đến cuối cuộc đời. Trong những lần tâm sự với chúng tôi, ông than rằng miền Nam Việt Nam vốn đã không có chính nghĩa và cũng không tạo được chính nghĩa, lại không có những người yêu nước tài giỏi nắm quyền lãnh đạo.. Với tình trạng như vậy, tất nhiên là một khi Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam, thì làm sao miền Nam không sụp đổ trước sức tấn công của miền Bắc cả về chính trị lẫn quân sự. Cho dù chính quyền miền Nam không sụp đổ, với vấn nạn Giáo Hội La Mã, không sớm thì muộn chắc chắn là nhân dân miền Nam cũng sẽ rơi vào tình trạng của Croatia trong những năm 1941-1945 hay Rwanda trong năm 1994 (những người thuộc các tôn giáo khác sẽ bị chụp mũ là kẻ thù để rồi bị bách hại và tiêu diệt.) (2) Mỗi lần tâm sự về vận nước, ông đều thở dài ngao ngán. Thương cho ông, gần nửa cuộc đời lưu vong, trong tâm trạng não nề, không biết ngày nào bước về được lên mảnh đất quê hương, những tiếng thở dài của ông mỗi ngày một thêm mòn mỏi. Hôm nay, nhân trong những giây phút tưởng niệm về ông, chúng tôi xin thắp lên một nén hương lòng để tiễn đưa ông đến nơi an nghỉ, ngàn thu vĩnh biệt. Nguyễn Mạnh Quang Ngày 25/6/2007 Chú thích: (1) Trần Tương, Biến Cố Mười Một -quyển một - (Sài Gòn: tự xuất bản, 1971) (2) Những người cầm quyền ở miền Nam đều là: - những tín đồ Da-tô, vốn đã có thành tích phản quốc bán nước cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trong thời trước 1945 và thời Kháng Chiến 1945-1954 - đều được Hoa Kỳ và Vatican đưa lên cầm quyền để tiếp tục cái nghề bán nước cho hai thế lực này, và - đều có Giáo Hội La Mã ở hậu trường lèo lái và thao túng. Những dữ kiện đó đã làm sáng tỏ lời khẳng định nêu trên. |