Chiến Lược Toàn Cầu Của Mỹ - 123doc
Có thể bạn quan tâm
Chiến lược toàn cầu thực chất là chiến lược đối ngoại để bảo vệ lợi ích của Mỹ trên toàn thế giới và xương sống của nó là “Chiến lược quân sự toàn cầu”, tức là dựa vào sức mạnh của nước Mỹ, sử dụng vũ lực khi cần thiết vào bất cứ nơi nào trên thế giới. Khẳng đinh, quyền lợi của Mỹ là quyền lợi toàn cầu. Chiến lược toàn cầu của Mỹ dựa trên sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự, sức mạnh vũ khí, sức mạnh công nghệ vượt trội của nước Mỹ và được thể hiện thông qua việc can thiệp tức thời, đàn áp các phong trào cách mạng, tiêu diệt chủ nghĩa xã hội, tiêu diệt hệ thống XHCN thông qua các hệ thống căn cứ quân sự, mà chủ yếu là không quân và hải quân, bởi vì đó là những phương tiện răn đe hiệu quả nhất, nhanh nhất. Mỹ lập nên nhiều căn cứ quân sự liên hợp (liên hợp tức là kết hợp cả lục quân, hải quân và không quân).
Trang 1CHƯƠNG 1VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA MỸ (1945-1963)
1.1 Sự ra đời của “chiến lược toàn cầu” của Mỹ
1.1.1 Nguyên nhân
Về kinh tế, bước ra khỏi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, những nước thamchiến bị tan hoang, tàn phá nặng nề, riêng nước Mỹ đã giàu lên Mỹ thu đượckhoảng 114 tỉ USD lợi nhuận, các nước Đồng minh châu Âu phải nợ Mỹ về vũ khítới khoảng hơn 41 tỉ đôla, Mỹ trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất thế giới Nước
Mỹ ở xa chiến trường, được hai đại dương là Đại Tây Dương và Thái Bình Dươngche chở, không bị chiến tranh tàn phá Nước Mỹ giàu lên trong chiến tranh do đượcyên ổn phát triển sản xuất và bán vũ khí, hàng hoá cho các nước tham chiến Vì vậy,sau chiến tranh, Mỹ đã vươn lên chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới tưbản
Trong những năm 1945 - 1950, nước Mỹ chiếm hơn một nửa sản lượng côngnghiệp toàn thế giới (56,47 % - 1948); sản lượng nông nghiệp của Mỹ gấp hai lầnsản lượng nông nghiệp của năm nước Anh, Pháp, Tây Đức, I-ta-li-a và Nhật Bảncộng lại; Mỹ nắm trong tay 3/4 trữ lượng vàng của thế giới (24,6 tỉ USD), Mỹ làchủ nợ duy nhất trên thế giới Trong khoảng hai thập niên đầu sau chiến tranh, Mỹ
là trung tâm kinh tế, tài chính duy nhất của thế giới
Về quân sự, vụ ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản ngày 6/8/1945 là “sựkiện quan trọng đánh dấu sự phân chia giai đoạn trước và sau chiến tranh thế giớithứ hai trong chính trị quốc tế Sau một ánh chớp chói lòa, thế giới chuyển từ hệthống “cân bằng quyền lực” sang “cân bằng sợ hãi””[53] Sau chiến tranh thế giớithứ hai, Mỹ tiếp tục nắm thế độc quyền về vũ khí nguyên tử.Mỹ, nước đầu tiên vàtrong nhiều năm có sức mạnh hạt nhân tuyệt đối và đây là một lợi thế rất lớn chomưu đồ bá chủ của Mỹ
Về chính trị, sau chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Dân chủ và Đảng Cộnghòa thay nhau lên cầm quyền ở Mỹ Tuy bề ngoài hai đảng này có vẻ đối lập nhau,
Trang 2nhưng thực chất đều thống nhất trong chính sách đối nội và đối ngoại nhằm phục
vụ lợi ích cho người Mỹ Về đối nội, để phục vụ cho mưu đồ bá chủ thế giới, nhữngnăm đầu tiên sau chiến tranh, Mỹ ban hành hàng loạt đạo luật phản động như cấmĐảng cộng sản Mỹ hoạt động, đàn áp phong trào công nhân và loại bỏ những người
có tư tưởng tiến bộ ra khỏi bộ máy Nhà nước Về đối ngoại, với tiềm lực kinh tế,quân sự to lớn, sau chiến tranh thế giới thứ hai, giới cầm quyền Mỹ đã đề ra “chiếnlược toàn cầu” nhằm chống phá lại các nước XHCN, đẩy lùi phong trào giải phóngdân tộc và thiết lập sự thống trị trên toàn thế giới
Từ những năm 1945-1949, tình hình thế giới bắt đầu có nhiều biến chuyểnphức tạp, cùng với đó là những sự kiện diễn ra Ở khu vực châu Á-Thái BìnhDương, sau khi bị đánh bại bởi quân Đồng minh trong chiến tranh thế giới, nướcNhật bị Mỹ chiếm đóng và dần trở thành một đồng minh quan trọng của Mỹ ở khuvực Tiếp theo đó là sự ủng hộ của Mỹ đối với Trung Hoa Dân Quốc của TưởngGiới Thạch, đồng thời là việc Lý Thừa Vãn thành lập Đại Hàn Dân Quốc (8/1948) ởphía Nam bán đảo Triều Tiên dưới sự hậu thuẫn của Mỹ Về phía các nước ĐôngNam Á, nổi bật nhất là sự “ấm nồng” mối quan hệ giữa Thái Lan và Mỹ, bằngchứng cho mối quan hệ ấy là “từ năm 1946 đến 1947, Mỹ mua của Thái Lan mộtkhối lượng lớn cao su và toàn bộ khối lượng thiết bị ối đọng trong những năm chiếntranh.Vụ giao dịch này đã mang lại cho tư sản Thái Lan số lãi 12 triệu USD Tháng10/1949, Mỹ trả lại cho Thái Lan số vàng trị giá 43,7 triệu USD bị phong toả trongcác ngân hàng của Mỹ trong thời gian chiến tranh”[24, tr.46] Thời gian này, có thểnói nếu bỏ qua những biến động về các phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam
Á, thì nhìn chung tình hình ở khu vực Châu Á vẫn ổn định và chưa có dấu hiệu gìcho thấy một mối đe dọa đối với an ninh của Mỹ
Ở Châu Âu, trong quá trình mở các chiến dịch tấn công quân đội phát xít, Liên
Xô đã giúp đỡ hàng loạt các nước Đông Âu thiết lập các nhà nước dân chủ nhândân, liên tiếp theo đó là cao trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi ở khắp các lụcđịa của Á, Phi, Mỹ Latinh, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân bị tan vỡ từngmảng lớn và đến giữa những năm 60 đã sụp đổ về cơ bản Hơn 100 quốc gia dân tộctrẻ tuổi ra đời, ngày càng tham gia tích cực vào đời sống chính trị thế giới
Trang 3Một biến chuyển lớn sau chiến tranh thế giới thứ hai là sự ra đời của hệ thốngXHCN Một loạt các nước Đông Âu, Châu Á và khu vực Mỹ Latinh sau khi hoànthành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đã tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hộicùng với Liên Xô hợp thành một hệ thống XHCN hùng mạnh Những thành tựu xâydựng chủ nghĩa xã hội trong những năm 50 - 60 đã thu hút sự chú ý của thế giới vàtác động tới chiều hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới Ảnh hưởng củachủ nghĩa xã hội ngày càng lớn, chủ nghĩa xã hội là chỗ dựa tin cậy của phong tràođấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.Chủ nghĩa tư bảnkhông còn là một hệ thống duy nhất chi phối nền chính trị thế giới Tình hình đó đãdẫn tới một vấn đề: trong chiến lược của Mỹ và các nước đồng minh không thểkhông tính đến việc hạn chế sự phát triển của chủ nghĩa xã hội Hai cường quốc Xô– Mỹ từ quan hệ đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sau chiến tranh,quan hệ ấy nhanh chóng chuyển thành quan hệ đối đầu.Từ quan hệ đối đầu giữa hainước chuyển thành quan hệ đối đầu giữa hai phe – XHCN và TBCN.Liên Xô trởthành trung tâm của phong trào cộng sản quốc tế và là lực lượng chủ yếu chống lại
âm mưu bá chủ thế giới của Mỹ Ở châu Âu, với sự giúp đỡ của Liên Xô, hệ thốngcác nước dân chủ nhân dân đã từng bước thiết lập ở các nước Đông Âu và trở thành
“mối đe dọa” đến vị thế của và các nước tư bản Tây Âu
Xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan ấy, Mỹ đã đề ra
“chiến lược toàn cầu” nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới xóa bỏ hệ thống XHCNđang đe dọa mưu đồ toàn cầu của Mỹ
1.1.2 Quá trình triển khai “chiến lược toàn cầu” của Mỹ
Chiến lược toàn cầu thực chất là chiến lược đối ngoại để bảo vệ lợi ích của Mỹtrên toàn thế giới và xương sống của nó là “Chiến lược quân sự toàn cầu”, tức làdựa vào sức mạnh của nước Mỹ, sử dụng vũ lực khi cần thiết vào bất cứ nơi nàotrên thế giới Khẳng đinh, quyền lợi của Mỹ là quyền lợi toàn cầu
Chiến lược toàn cầu của Mỹ dựa trên sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự, sứcmạnh vũ khí, sức mạnh công nghệ vượt trội của nước Mỹ và được thể hiện thôngqua việc can thiệp tức thời, đàn áp các phong trào cách mạng, tiêu diệt chủ nghĩa xãhội, tiêu diệt hệ thống XHCN thông qua các hệ thống căn cứ quân sự, mà chủ yếu là
Trang 4không quân và hải quân, bởi vì đó là những phương tiện răn đe hiệu quả nhất, nhanhnhất Mỹ lập nên nhiều căn cứ quân sự liên hợp (liên hợp tức là kết hợp cả lục quân,hải quân và không quân).
Nội dung cơ bản của chiến lược toàn cầu của Mỹ với ba mục tiêu chủ yếu:Một là, ngăn chặn và tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế giới; hai là, đàn ápphong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, phongtrào chống chiến tranh, vì hoà bình, dân chủ trên thế giới; ba là, khống chế, chi phốicác nước tư bản đồng minh phụ thuộc vào Mỹ Tháng 12/1946, nhà ngoại giaoGeorge Kennan đã gởi cho Tổng thống Harry Truman một bản báo cáo dài 8.000chữ và nêu lên nhiệm vụ của đối với Liên Xô là “phải có một chính sách dài hạn,kiên nhẫn nhưng cương quyết ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô”[31, tr.17].Trên cơ sở đó, tháng 3/1947, trong Thông điệp Liên bang, Tổng thống Truman công
bố “Chủ thuyết Truman” theo đó “sẽ buộc Liên Xô phải lùi bước, sẽ làm tan rã nhànước Liên Xô và xoá bỏ chủ nghĩa cộng sản bất cứ ở nơi đâu trên thế giới” và “…phải ủng hộ những dân tộc tự do chống lại các mưu toan nô dịch, bất kể chúng xuấtphát từ những thiểu số có vũ trang (ám chỉ phong trào giải phóng dân tộc ở cácnước – ND) hay từ sức ép bên ngoài (ám chỉ sự can thiệp của Liên Xô – ND)… Tôi(Truman) nghĩ rằng sự giúp đỡ của chúng ta chủ yếu là ủng hộ về kinh tế và tàichính cần thiết cho tình trạng ổn định về kinh tế và một sinh hoạt chính trị bềnvững”[25, tr.24-25] Từ nay, giới cầm quyền Mỹ dù thuộc đảng Dân chủ hay Cộng
hòa sẽ từ bỏ xu hướng biệt lập (isolationism) và chọn chủ nghĩa toàn cầu (globalism) làm cơ sở cho nền ngoại giao của họ Đây được xem mốc mở đầu cho
quá trình can thiệp trực tiếp của vào các nước Tây Âu
Tháng 6/1947, tại Đại học Harvard, Bộ trưởng Ngoại giao George Marshall
đã công bố “Kế hoạch phục hưng châu Âu” (thường được gọi là Kế hoạchMarshall) Ông giải thích: “Chiến tranh đã để lại sự tàn phá đến mức mà những nhucầu của châu Âu lớn hơn khả năng thanh toán của nó Cần phải tính đến một sự việntrợ thêm, một sự viện trợ không hoàn lại và rất quan trọng; nếu không, sẽ có nguy
cơ tan vỡ về kinh tế, xã hội và chính trị rất quan trọng…”[24, tr.26] Ngày 3/4/1948,Quốc hội Mỹ thông qua Kế hoạch Marshall và bắt đầu chương trình viện trợ 12,7 tỷUSD cho các nước Tây Âu trong vòng 4 năm (90% cho không và 10% cho vay)
Trang 5nhằm giúp đỡ các quốc gia Tây Âu khôi phục lại đất nước sau chiến tranh và cùng
Mỹ hình thành một liên minh chống cộng sản ở châu Âu Ngày 4/4/1949, Mỹ vàmột số nước Tây Âu như Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan…đã ký Hiệp ước thành lập Tổchức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) với mục tiêu bảo vệ, hỗ trợ lẫn nhautránh khỏi các cuộc tấn công từ bên ngoài Khi bất kì một nước hay những nướcthành viên bị nước ngoài tấn công thì các nước thành viên khác phải “ngay lập tức
hỗ trợ với tư cách riêng hoặc có phối hợp với các thành viên khác”[24, tr.36] Sựthành lập NATO cùng Kế hoạch Marshall đã xác lập vai trò lãnh đạo của Mỹ về cảkinh tế lẫn quân sự ở Tây Âu
Như vậy, với Chủ thuyết Truman, kế hoạch Marshall và Tổ chức NATO, đãxác định châu Âu là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ Trongthực tế, Mỹ giữ vai trò lãnh đạo ở Tây Âu để cùng các nước tư bản Tây Âu trởthành đối trọng với phe XHCN gồm Liên Xô và các nước Đông Âu
Tuy nhiên, trong những năm 50-60 của thế kỉ XX, ở châu Á xảy ra nhiều biếnđộng to lớn, buộc chính phủ Mỹ phải điều chỉnh dần chính sách đối ngoại đối vớichâu lục này
Ngày 3/9/1949, Liên Xô thử nghiệm thành công quả bom nguyên tử đầu tiên,phá vỡ thế độc quyền về vũ khí hạt nhân của Mỹ
Một tháng sau đó, cuộc nội chiến Quốc – Cộng ở Trung Quốc kết thúc vớithắng lợi của Đảng Cộng sản Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời(1/10/1949) đã đánh dấu sự thất bại trong “giải pháp Tưởng Giới Thạch” của Mỹ.Đồng thời, nó cũng làm cho vị thế của chủ nghĩa xã hội được nâng cao hơn Đặcbiệt, tháng 2/1950, Hiệp ước hữu nghị, liên minh và tương trợ Xô – Trung được kýkết đã làm cho khối XHCN được nối liền từ châu Âu sang châu Á Sự kiện trên đã
đe dọa đến chính sách chống cộng của Mỹ Do đó, ngày 31/1/1950, Truman đã lệnhcho Bộ ngoại giao và Bộ quốc phòng “duyệt xét và đánh giá lại toàn bộ các chínhsách đối ngoại và quốc phòng của Hoa Kì dưới ánh sáng của các sự biến: TrungQuốc bị mất, Liên Xô làm chủ năng lượng hạt nhân…”[29, tr.49] Trong bối cảnhkhó khăn đó, Hội đồng An ninh Quốc gia phải chấp nhận phương án quân sự hóadựa trên nguyên tắc cơ bản của NSC-68 của Hội đồng An ninh Quốc gia (National
Trang 6Security Council - NSC) để tranh thủ được sự ủng hộ của Quốc hội và tăng cườngchi phí quân sự nhằm tìm cách mở rộng chính sách ngăn chặn cộng sản sang châu
Á Nhưng làm sao thuyết phục được Quốc hội nếu không có một biến cố nào xảy ra.Tháng 6/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ Cuộc chiến tranh Triều Tiên đãgiúp cho Hoa Kì cái cớ để trở lại Triều Tiên thực hiện công việc chống cộng sảnnhư tổng thống Truman tuyên bố: “Sự phòng thủ của Hoa Kì phải vươn tới TriềuTiên, Đài Loan và Đông Dương” Đông Dương là nơi có vị trí rất thuận lợi về mặtchiến lược để Mỹ có thể xâm nhập vào Trung Quốc từ phía Nam.Như vậy, giới quân
sự Mỹ phát hiện được tầm quan trọng về chiến lược của Đông Nam Á Do đó,Washington bắt đầu áp dụng chính sách ngăn chặn cộng sản ở Đông Nam Á bằngquá trình “can thiệp gián tiếp” vào Đông Dương thông qua giúp đỡ cuộc chiến tranh
mà Pháp đang tiến hành trên bán đảo này
Như vậy, từ Truman trở đi, chính sách xuyên suốt của chính phủ Mỹ là ngănchặn chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới Tuy nhiên, giai đoạn 1945 – 1949,Washington dành ưu tiên nhiều hơn trong chính sách cho việc chống cộng ở châu
Âu và chưa có sự quan tâm nhiều cho khu vực châu Á nói chung và Đông Nam Ánói riêng Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời và chiến tranh TriềuTiên bùng nổ thì chính sách của Mỹ bắt đầu điều chỉnh.Mỹ quan tâm nhiều hơn đếnkhu vực châu Á và Đông Dương trở thành một vị trí then chốt trong thuyếtDomino.Từ Eisenhower đến Kennedy, chính phủ Mỹ ngày càng dính líu từng bướcvào chiến tranh Việt Nam Tuy nhiên, sự kiện tổng thống Kennedy bị ám sát làmcho chiến lược “phản ứng linh hoạt” của Mỹ còn đang dang dở và L.B Johnson sẽ
kế tục nhiệm vụ của Kennedy
1.2 Việt Nam trong chính sách của các Tổng thống Mỹ
1.2.1 Thời kỳ Tổng thống H Truman
Từ năm 1949 trở về sau, trên thế giới tồn tại hai khối nước với hai thể chếchính trị khác nhau, xu hướng phát triển kinh tế khác nhau, những đường lối quân
sự khác nhau Với sự cân bằng gần như tuyệt đối về lực lượng quốc phòng, đặc biệt
là sự cân bằng về vũ khí hạt nhân Bằng chiến lược “ngăn chặn và đẩy lùi”, cùngvới ưu thế độc quyền về vũ khí Mỹ đã khống chế được các nước đồng minh ở Tây
Trang 7Âu và Nhậ Bản Tuy nhiên, Mỹ không thể ngăn chặn được sự lớn mạnh và đẩy lùiđược các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới nói chung và khu vực Châu Á- ĐôngNam Á nói riêng
Vào tháng 6 năm 1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ đã tạo điều kiện thuậnlợi để Mỹ có cớ nhằm quay lại Triều Tiên với mục đích chống lại cộng sản ở nơiđây Cùng với đó là Mỹ dễ dàng tiếp cận Trung Quốc, nhằm kiềm hãm đi sự pháttriển XHCN của Trung Quốc và cả một hệ thống XHCN khu vực Đông Bắc Á vàĐông Nam Á Trong một bài phát biểu của H Truman đã tuyên bố “sự phòng thủcủa Hoa Kì phải vươn đến Triều Tiên, Đài Loan và Đông Dương” và cũng chínhvậy mà chúng ta đã thấy được người Mỹ đã phát hiện ra vị trí quan trọng của ĐôngDương và cả khu vực Đông Nam Á Bởi lẽ đây là cửa ngõ quan trọng nhất để Mỹ
có thể vươn qua eo biển Malacca Chính vì điều đó, Mỹ đã bắt đầu mạnh tay hơntrong việc ngăn chặn cộng sản ở Châu Á, trong đó có Đông Dương mà điển hìnhnhất là sự viện trợ của Mỹ dành cho cuộc chiến của Pháp ở đây, đồng thời đó cũng
là những hành động dính líu và can dự từ gián tiếp đến trực tiếp của Mỹ ở ĐôngDương
Tháng 4/1950, Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ đã xác định “viện trợ của Mỹcho Đông Dương là tối cần thiết vì sự hiện diện của Trung Quốc ở biên giới phíaBắc Đông Dương mà người Pháp thì không đủ sức đương đầu với lực lượng ViệtMinh”[24, tr.81] Ngày 8/5/1950 Tổng thống H Truman quyết định trực tiếp việntrợ quân sự và kinh tế cho Pháp trong cuộc chiến ở Đông Dương Mở đầu cho việcviện trợ vào chiến trường Đông Dương, Washington đã viện trợ cho Pháp 10 triệuUSD và đây được xem là một hành động mở đầu cho qua trình dính liếu trực tiếpcủa Mỹ vào chiến trường Đông Dương, nhưng tiêu biểu nhất chính là Việt Nam.Đồng thời tháng 12 cùng năm, Mỹ, Pháp cùng các Chính phủ “quốc gia” Việt,Miên, Lào đã kí “Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương” Sau những hiệp địnhcũng như cam kết viện trợ quân sự, kinh tế cho cuộc chiến ở Đông Dương thì ngânsách chiến tranh của Pháp ở Đông Dương ngày càng cao và hơn nửa số đó là việntrợ của Mỹ như “năm 1951, viện trợ Mỹ chiếm 19% ngân sách chiến tranh, năm1952- chiếm 35%, năm 1963- chiếm 43%, năm 1954- chiếm 73%”[20, tr.86]
Trang 8Tuy nhiên, với những mức viện trợ vô cùng to lớn của tổng thống H Truman,cũng không thể nào cứu vãn được tình hình chiến sự của Pháp ở Đông Dương lúcbấy giờ Trong khoảng 5 năm từ năm 1950 đến năm 1954, Pháp đã mở ra hàng loạtcác kế hoạch quân sự có quy mô lớn Vào đầu năm 1950, Pháp đã đề ra kế hoạchRevers cùng với đó là kế hoạch De Lattre de Tassigny thông qua hàng loạt các hệthống cố vấn quân sự của Mỹ Pháp đã cho xây dựng nên một lực lượng mạnh tinhnhuệ, những phòng tuyến kiên cố ở Đông Dương Nhằm mục đích để lấy lại thế chủđộng trên chiến trường và nhanh chóng kết thúc chiến tranh Nhưng các kế hoạchcủa Pháp đề ra đều bị thất lại, do sự lãnh đạo của Đảng ta và những chủ trươngđúng đắn nhằm chống lại những kế hoach của Pháp đã đề ra Tiêu biểu nhất đó làchiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 do lực lượng bộ đội ta mở và đã giành đượcthắng lợi Sau những thất bại của những kế hoạch trước đó, giới cầm quyền Phápngày càng cần sự viện dựa vào nguồn viện trợ của Mỹ Nhằm để thực hiện các kếhoạch tiếp theo để cứu vãng tình hình và nhanh chóng giành thắng lợi trên chiếntrường Đông Dương, kết thúc chiến tranh trong danh dự Kế hoạch Navarre trong 2năm 1953-1954 đã được Pháp đề ra Với kế hoạch lần này, có quy mô hết sức to lớncủa Pháp cũng bị lượng lượng cách mạng ta phá tan Tiêu biểu nhất vào tháng 5năm 1954, Pháp đã thất bại hoàn toàn tại căn cứ điểm Điện Biên Phủ, nơi mà Pháp
đã xây dựng nhằm để tiêu diệt lực lượng cách mạng Việt Nam Với thất bại tại ĐiệnBiên Phủ buộc Pháp phải chịu thất bại hoàn toàn ở bán đảo Đông Dương Như vậy,
sự thất bại của Pháp ở Đông Dương đã làm đổ vỡ mọi toan tính cũng như sự giúp
đỡ của Mỹ dành cho Pháp trong cuộc chiến chống cộng sản, đồng thời Hiệp địnhGeneva được kí kết, Pháp phải rút quân đã để lại một “khoảng trống” trong cuộcchiến chống cộng sản Chính điều đó đã buộcMỹ phải nhanh chóng tìm biện pháp
“lấp đầy khoảng trống” đó.Chính một khoảng trống vô cùng to lớn đó buộc Mỹnhanh chóng bằng mọi giá phải tìm cách “lấp đi khoảng trống” đó.Ngay trong tháng4/1954, Người tiền nhiệm tổng thống H Truman là tổng thống Eisenhower vị tổngthống thứ 34 của Mỹ đã vạch ra những chiến lược nhằm lấp đi khoảng trống ấy
1.2.2 Thời kỳ Tổng thống Eisenhower
Trang 9Sau khi những chính sách của tổng thống H Truman đã được xem như là thấtbại ở Việt Nam Eisenhower đã công bố “Thuyết Domino” với quan điểm cho rằng
“Ta có một hàng quân cờ domino, nếu đánh đổ quân thứ nhất thì sẽ nhanh chóngnhững quân khác sẽ bị đổ hết cho tới quân cuối, đó là sự khởi đầu của tan rã” vàĐông Dương trở thành con “domino lớn nhất”, một trọng điểm của chiến lược ĐôngNam Á của Mỹ Eisenhower đã tuyên bố rằng “sẽ không nhượng bộ trước sự đe dọa
và không tự hạn chế chúng ta trong việc dùng các loại vũ khí khi cần thiết… Chúng
ta sẽ cho phía cộng sản biết rằng… chúng ta sẽ đánh họ bằng những vũ khí chúng talựa chọn”[48, tr.119]
Những chính sách đầu tiên trong học thuyết Domino của Tổng thốngEisenhower tại Việt Nam được thể hiện bằng việc Mỹ từng bước xây dựng và cũng
cố những công cụ để Mỹ dễ dàng thực hiện chủ nghĩa thực dân mới tại miền NamViệt Nam Duy trì chính sách ngoại giao trên thế mạnh, loại bỏ dần ảnh hưởng củaPháp, thay thế Pháp và xây dựng cơ cấu chính trị, quân sự, xã hội miền Nam ViệtNam
Về chính trị, Mỹ đã dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm Tại hộinghị Geneva, Mỹ đã không kí vào tuyên bố chung của hội nghị Eisenhower- Tổngthống Mỹ tuyên bố: “Tôi không có gì phê phán cái đã làm được ở Geneva vì tôi
không có một giải pháp nào thay thế”[37, Tr.51] Vị Tổng thống này đã nói thêm
“Hoa Kỳ không bị các điều khoản của hiệp định Geneva ràng buộc” Nói một cáchkhác là Mỹ-Diệm sẽ sẵn sàng xé bỏ những điều khoản của hiệp định Geneva bất kìlúc nào
Ngày 8/8/1954, hội đồng an ninh Mỹ họp và đã vạch ra chủ trương sử dụngDiệm nhằm thay thế Pháp ở Việt Nam “Với bốn chính sách: Viện trợ trực tiếp chongụy quyền Ngô Đình Diệm không thông qua Pháp, trực tiếp chỉ huy và huấn luyệnquân ngụy;Pháp rút khỏi Đông Dương và phải loại bỏ con bài Bảo Đại.”[37, Tr.52]
Mỹ đã sẵn sàng chi cho Pháp 100 triệu đô la để Pháp có thể cầm cự cho việcrút quân ra khỏi Việt Nam Nhằm tạo thời gian cho Diệm chuẩn bị sàng lọc, chọnlựa những phần tử cho quân đội quốc gia Sau khi toàn thắng các lực lượng giáophái và lập lại trật tự nhiệm vụ gìn giữ sự sống sót của Nam Việt Nam, Ngô Đình
Trang 10Diệm đồng thời xây dựng một quốc gia tự do và dân chủ Nhiệm vụ này không dễdàng vì một phần do các biện pháp an ninh chống lật đổ và tái diễn các xung độtnên chính quyền Diệm phải hạn chế một số quyền tự do dân chủ Sau cuộc trưngcầu ý dân ý ngày 23 tháng 10 năm 1955, Nam Việt Nam tuyên bố thành lập chế độCộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống đầu tiên lấy đó là nền tảng hợp hiến.
“Tháng 5/1956, tổ chức tuyển cử toàn quốc để bầu 123 đại biểu Quốc hội lập hiến.Các ứng cử viên thuộc phe Diệm giành được 84 ghế đảm bảo đa số tuyệt đối choTổng thống”[15, Tr.69]
Sau khi được Mỹ giúp đỡ, Diệm tạo dựng nên chính quyền riêng ở Nam ViệtNam.Diệm đã tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền từ trung ương đến địaphương.Đây cũng là chỗ “một bức bình phong” cho Mỹ áp đặt một chế độ thực dândấu mặt tại miền Nam Việt Nam Tư tưởng chính trị của Diệm - Nhu giải thích tạisao phải hạn chế tự do dân chủ ở Nam Việt Nam Tất nhiên,“Hiến pháp của ViệtNam Cộng hòa được quốc hội lập hiến thông qua và được Tổng thống ban hànhngày 20/10/1956, ấn định những quyền tự do cơ bản mà con người thường thấytrong hiến pháp của các nước dân chủ phương Tây”[15, Tr.71] Nhưng chỉ bằng sửađổi hiến pháp những quyền tự do dân chủ đó tạm ngừng không áp dụng vì lí do anninh
“Diệm giữ mọi quyền cai quản đất nước và được người em thân tín là NgôĐình Nhu mang chức cố vấn chính trị tại Phủ Tổng thống và cả hai người đềuphỏng theo các phương pháp cộng sản để chống chủ nghĩa cộng sản, Nhu và Diệmxây dựng chế độ chủ nghĩa nhân vị như là một học thuyết nhà nước ở Nam ViệtNam Trong việc thi hành quyền lực, cũng như ở Bắc Việt Nam dưới sự lãnh đạocủa Đảng Cộng sản”[15, Tr.71], người ta cũng thấy ở Nam Việt Nam cùng nhữngphương pháp tương tự của công an mật và sự kiểm soát các thành viên trong chínhphủ và nhân viên bộ máy hành chính bằng bộ máy của đảng
Sử dụng những biện pháp giống như ở miền Bắc Việt Nam, Diệm - Nhu loạitrừ triệt để sự đối lập chính trị ở miền Nam bằng những chiến dịch tố cáo cộng sảnnằm vùng (Tố Cộng) và bằng những vụ bắt bớ thường xuyên diễn ra vào ban đêm.Chính phủ Mỹ đều biết rõ những sự lạm dụng đó nhưng không muốn gây sức ép đối
Trang 11với Diệm ngay từ đầu để thực thi các quyền tự do dân chủ và tập hợp mọi ngườicùng xây dựng một quốc gia tự do và dân chủ.
Cải cách điền địa, kiên quyết tiêu diệt xóa bỏ ảnh hưởng của cuộc cách mạngđối với nông dân miền Nam
Lập đảng chính trị phản động, tạo cơ sở giai cấp cho chính quyền Sài Gòn,phục vụ lợi ích của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam
Đế quốc Mỹ đã dồn sức người, sức của để củng cố và xây dựng quân đội SàiGòn, coi đó là một biện pháp để xây dựng chính quyền nhà họ Ngô mạnh lên.Đếquốc Mỹ đã thao túng quân đội Sài Gòn và xây dựng lại nhằm mục đích là lựclượng chống cộng hữu hiệu “Cho tới tháng 6/1955, đế quốc Mỹ đã xây dựng chochính quyền Sài Gòn một quân đội với sự chỉ huy của cố vấn Mỹ gồm 10 sư đoàn
bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp và 54.000 lính địaphương Số cố vấn Mỹ từ 35 người năm 1950 đã tăng lên 699 người vào năm1956”[20, tr.157] Quân đội Sài Gòn được trang bị phương tiện chiến tranh tươngđối hiện đại.Xây dựng hệ thống sân bay, quân cảng, các đường giao thông chiếnlược nhằm phục vụ c ho cuộc chiến Cũng như biến miền Nam Việt Nam thành mộtcăn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ trên hệ thống căn cứ quân sự của Mỹ trên thế giới
Về kinh tế: Mỹ liên tục viện trợ tài chính cho chính quyền Ngô Đình Diệm,
“từ năm 1955 đến năm 1957, Mỹ đã viện trợ cho chính quyền Ngô Đình Diệm 1,1 tỉđôla (trong đó gần 60% là viện trợ quân sự) Tính đến năm 1960, số viện trợ của Mỹ
là lên tới 7 tỉ đôla.”[23, tr.191]
Về văn hóa, giáo dục: Đế quốc Mỹ sử dụng giáo dục, văn hóa như là mộttrong những công cụ để áp đặt chủ nghĩa thực dân vào hệ thống tư tưởng của nhândân miền Nam, nhất là bộ phận trẻ thanh thiếu niên Nhằm mục đích hướng giới trẻ
đi theo thế giới tự do của Mỹ Đế quốc Mỹ đã thành lập nhiều cơ quan về văn hóa,giáo dục như: Sở thông tin Hoa Kỳ, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ…
Đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã cố gắng xây dựng ở miền Nam ViệtNam một nền giáo dục mang ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ Chínhquyền Sài gòn đã thành lập hệ thống nhà trường độc lập từ tiểu học đén đại học, tập
Trang 12trung trên 2,5 triệu hoc sinh, sinh viên và hơn 50.000 giáo chức Đế quốc Mỹ luôngiúp Diệm đến việc đào tạo hệ thống cán bộ giáo viên vì từ đây sẽ có tác động mạnhđến sự hình thành nhân cách tư tưởng của thế hệ trẻ Cử người sang Mỹ du học vàsau đó về nước thay thế bộ phận giáo viên Pháp trước đó.
Được Mỹ giúp sức, chính quyền Diệm đã quyết liệt triển khai chương trình
“Tố cộng, diệt cộng”.Trong thời kì đầu, từ tháng 2/1955 đến tháng 5/1956 chiếndich “tố cộng, diệt cộng” được thí nghiệm ở các tỉnh Khu V nhằm mục đích gây xáotrộn, thí nghiệm các phương pháp tiến hành Cuối năm 1956 chính sách tố cộngđược xem là quốc sách của chính quyền Sài Gòn được triển khai toàn miền Nam vàtrọng điểm là Nam Bộ Những chiến dịch “Tố cộng, diệt cộng” mang tính chất tànbạo càn quét sạch những đồng chí cách mạng, những người yêu nước ở miền NamViệt Nam như: “Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu (tháng 6/1956-2/1957), chiến dịchMùa thu (tháng 10/1957-12/1957) càn quét khắp khu vực đồng bằng sông CửuLong Chiến dịch Trương Tấn Bửu (tháng 7/1956-2/1957), chiến dịch Nguyễn Trãi(tháng 4/1958-11/1958) đánh phá Đông Nam Bộ và xung quanh Sài Gòn ChợLớn”[42, tr.23] Từ năm 1955 đến năm 1959 chính quyền Sài Gòn tiến hành cànquét với quy mô rất lớn nhằm “tiêu diệt nội tuyến, diệt trừ nội tâm, đạp lên oán thù
để thực thi chủ nghĩa nhân vị quốc gia”
Kết hợp với các biện pháp bạo lực trong “Tố cộng, diệt cộng”, chính quyềnDiệm còn dùng các thủ đoạn lừa mị, mua chuộc bằng các biện pháp kinh tế-xã hội.Những đạo dụ “Cải cách điền địa” thực chất là cướp đi ruộng đất của nông dânđược Đảng ta cấp trong kháng chiến, để trả lại cho địa chủ Tính đến năm 1956,chính quyền Diệm đã cướp lại 560.000 ha ruộng đất của nhân dân.Tháng 4/1957,chính quyền Diệm cho xây dựng các hệ thống “Dinh điền”ở dọc khu vực giới tuyến
và biên giới Việt Nam-Campuchia.Nhằm để đưa dân vào khu của Việt Cộng và đẩyViệt Cộng ra khỏi vùng đó Đến đầu năm 1959 đã có 84 khu dinh điền với tổng sốdân được huy động là khoảng 10 vạn người, trong đó phần lớn là đồng bào theo đạocông giáo từ miền Bắc di cư vào
Tháng 7/1959, chính quyền Diệm đã triển khai chương trình “Khu trù mật” ởnông thôn và đồng bằng nhằm quy tụ dân, kiểm soát dân và cô lập lượng lượng
Trang 13cách mạng với quần chúng nhân dân Như vậy, Mỹ- Diệm đã ráo riết tiến hànhchống phá cách mạng ta, từ năm 1954-1959, hàng vạn cán bộ đảng viên và cơ sởcách mạng bị bắt, giết chiến sĩ đồng bào ta Hệ thống cơ quan hoạt động cách mạng
ta hầu như bị tê liệt hoàn toàn, tổn thất nặng nề Toàn miền Nam có 9/10 số cán bộđảng viên bị bắt và giết, trong đó ở Nam Bộ có khoảng 70.000 cán bộ Đảng viên bịđịch giết, khu V có khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên, 70% chi ủy viên
bị địch bắt và giết
Cách mạng miền Nam đứng trước tình thế phải bảo vệ làm sao cho được lựclượng còn lại.Ngày càng thấy rõ thực tế là chế độ miền Nam là một chế độ độc tài,phát xít của bọn tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ Do đó, ta không còn khảnăng đấu tranh theo pháp lý
Tháng 1/1959, Hội nghị Ban chấp hành lần thứ 15 Trung ương Đảng họp đãquyết định nhân dân miền Nam sử dụng bạo lực cách mạng để đánh đổ chính quyềnMỹ-Diệm bởi “Ngoài con đường dùng bạo lực cách mạng, nhân dân miền Namkhông còn con đường nào khác” Với phương hướng khởi nghĩa chính quyền về taynhân dân bằng con đường đấu tranh chính trị là chủ yếu, kết hợp với đấu tranh vũtrangđánh đỗ ách thống trị của chính quyền Mỹ-Diệm
Các hình thức vũ trang tuyên truyền đã xuất hiện ở một số nơi trên chiếntrường miền Nam Khởi nghĩa ở một số nơi đã bắt đầu nổ ra với hình thức là nhữngcuộc nổi dậy của nhân dân diễn ra lẻ tẻ ở từng địa phương như: Vĩnh Thạnh, BácÁi(2-1959), Trà Bồng (8-1959), về sau lan rộng khắp miền Nam và đã trở thành caotrào cho toàn miền Nam, tiêu biểu là phong trào “Đồng Khởi” diễn ra ở Bến Tre.Phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre nhanh chóng giành được thắng lợi Quầnchúng đã giải tán chính quyền cơ sở, và lập nên Ủy ban nhân dân tự quản, thành lậplực lượng vũ trang, tịch thu lại ruộng đất của địa chủ
Cùng với chiến thắng vang dội “Đồng Khởi” ở Bến Tre, với chiến thắng TuaHai vào đầu năm 1960 đã cổ vũ mạnh mẽ cho toàn bộ nhân miền Nam đưng dậyđấu tranh giành chính quyền Cuối năm 1960, nhân dân ta đã làm chủ được ½ xã ởNam Bộ, và số lượng lớn thôn xã ở Tây Nguyên và Trung Trung Bộ do ta làm chủ
Trang 14Ngày 20/12/1960 , tại vùng căn cứ Tây Ninh Đại hội đại biểu các cấp đã họp
và quyết định thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam Đại hội
đã thông qua tuyên ngôn, với hành động cơ bản là đánh đổ chế độ thuộc địa của Mỹ
và chế độ độc tài của chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam
Sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một thắnglợi to lớn của cách mạng Việt Nam Đây là lí do để tạo nên sự thất bại của chiếnlược quân sự “Trã đũa ồ ạt” của Tổng thống Eisenhower tại miền Nam Việt Nam
1.2.3 Thời kỳ Tổng thống Kennedy
Với chiến lược “Trã đũa ồ ạt” của tổng thống Eisenhower đã được xem là thấtbại Vì nó đã không ngăn được những cuộc đấu tranh nổi dậy của những cuộc nổidậy, phong trào đấu tranh cách mạng tiêu biểu chính là phong trào “Đồng Khởi” ởnước ta Tháng 1/1961, Kennedy lên nắm quyền tổng thống đứng trước tình hìnhđó.Kennedy đã cho ra đời một chiến lược mới đó là chiến lược “chiến lược phảnứng linh hoạt”
Ngày 11/5/1961, “Kennedy còn thông qua Nghị quyết NSAM 52 của Hộiđồng An ninh Quốc gia về việc xem xét đề xuất tăng quân số Việt Nam Cộng hòalên 20 vạn người”[24, tr.218] Mặc dù có những kiến nghị phản đối Nghị quyết nàytrong chính nội các của Kennedy, bởi vì họ sợ can thiệp quá sâu vào Việt Nam sẽkhông mang lại kết quả tốt hơn việc biến nước Lào thành một nước trung lập và độclập, tuy nhiên với Nghị quyết trên của Kennedy, năm 1962 viện trợ quân sự của Mỹcho Sài Gòn tăng lên 144 triệu USD so với con số 65 triệu USD năm 1961, khôngnhững thế số cố vấn quân sự 1962 đã là 9.000 người so với con số 3.205 người vàonăm 1961 Bên cạnh đó, Kennedy càng tăng cường mạnh mẽ việc thực hiện nhữngquan điếm theo suy nghĩ của mình, trong đó có việc đề ra chiến lược “chiến tranhđặc biệt” ở Việt Nam, cũng như những chính sách về cách thức thực hiện chiếntranh ở Nam Việt Nam nhằm ngăn chặn Chủ nghĩa Cộng sản Những phái đoàn cốvấn núp dưới danh nghĩa những nhà đàm phán kinh tế đối với Việt Nam đã được cửsang Nam Việt Nam một cách thường xuyên hơn, và dĩ nhiên kết quả là “11 triệu
đô la cho viện trợ năm 1961, Mỹ sẽ đưa vào Nam Việt Nam nhiều vũ khí mới, đặc
Trang 15biệt là nhiều máy bay và quân đội Mỹ vào miền Nam”[6, tr.52] Như vậy, nhữngđiều trên cho ta thấy những cố gắng dính líu vào vẫn đề Việt Nam của Mỹ đã ngàycàng rõ nét và sâu hơn nhằm hình thành “chiếc phao cứu sinh” cho chính quyềnNgô Đình Diệm đang khủng hoảng bởi các vấn đề phe phái, tôn giáo Đồng thời, cóthể thấy từ những bước đi đầu tiên của Tổng thống Kennedy khi nhậm chức chođến khi bị ám sát tại Dallas (2211-1963), lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam tăng
từ 875 người lên đến 16.000 người Nhân viên dân sự, kể cả nhân viên CIA, cũngtăng theo đà tăng quân số nhưng đã không làm cho tình hình miền Nam sáng sủahơn.Kennedy trong việc ngăn chặn làn sóng Cộng sản ngày một được hình thành rõnét
Sáutháng đầu năm 1963, đẩy mạnh cuộc chiến tranh đặc biệt Mỹ đưa thêm sangViệt Nam 68 chiếc máy bay lên thẳng loại tối tân HU1B (loại máy bay này baynhanh hơn, vũ trang mạnh hơn, có vỏ bọc dày hơn, trọng tải nặng hơn, có thể ít bịtổn thất hơn các loại trước), 8 tàu chiến, 100 giang thuyền vũ trang, nhiều xe M.114(còn tân thời hơn M.113), tăng số quân Mỹ từ 12.000 lên 15.000, tăng số quânchính quy và bảo an của Diệm từ 360.000 lên 400.000 và tăng các lực lượng dân vệ,thanh niên chiến đấu ở các “ấp chiến lược”[17, tr.1069]
Các trận càn quết của địch cũng gia tăng thêm mạnh, thêm ác liệt Trong 6 thángđầu năm 1963, Mỹ - Diệm mở 10.407 trận càng quét, như vậy là số trận càn quétnữa năm đầu 1963, nhiều bằng cả năm 1962
Tuy nhiên,những trận càn quét ngày dài hơn, đánh miết một vùng, diễn ra nhiềuhơn trước, khốc liệt hơn trước nhưng cũng do đó mà thiệt hại của địch cũng nặng nềhơn Các báo Mỹ không giấu được điều ấy, tờ Thời báo New York Times(15/8/1963) viết:
“Trong sáu tháng đầu năm 1963 này, số tổn thất về người của quân đội chính phủ(Diệm) tăng lên khoảng 33% so với 6 tháng đầu năm ngoái, trong lúc đó thì tổn thấtcủa Việt cộng lại giảm đi 30%, trong lúc đó số vũ khí của Việt cộng mất lại giảmxuống 25%”[17, tr.1069]
Trong 6 tháng đầu năm 1963, Quân giải phóng và quân du kích bắn rơi và bắnhỏng tới 192 máy bay (tức hơn ⅓ toàn bộ máy bay vừa của Mỹ vừa của Nam Việt
Trang 16Nam) Nếu trong năm 1962, cứ tính trung bình mỗi tháng Mỹ - Diệm mở 20 - 25trận càn bằng “trực thăng vận” thì sang năm 1963, mỗi tháng chỉ mở 5 - 10 trậnđiều này chứng tỏ sự thất bại bước đầu nhưng nghiêm trọng của chiến thuật “trựcthăng vận”.
“Thiết xa vận” cũng bắt đầu thất bại, ta đã phá hủy và phá hỏng hơn 340 xequân sự, trong số đó có 63 chiếc thiết xa M.113 Càng về cuối năm 1963, ta càngthấy chiến thuật “thiết xa vận” không đem lại kết quả gì hơn “trực thăng vận”.Đám tướng lĩnh Mỹ - Diệm thất bại liên tiếp và nặng nề trong các cuộc cànquét, cho đến nổi chúng phải cải nhau kịch liệt xem là càn tohay càn nhỏ, càn dàihay ngắn, thứ càn nào có lợi, dùng trực thăng hay nhảy dù, đi xe, đi tàu hay đi bộ làhơn? Không có câu giải đáp nào hết, vì càn kiểu nào đi cách nào đều gặp chết chóc,thất bại cả Harkins và cả Taylor đều đau đầu
Việc càn quét xem như là một quy luật của chiến tranh đặc biệt, như là mộtbiện pháp chủ yếu đề gom dân lập “ấp chiến lược”, đã bị nhân dân và Quân giảiphóng miền Nam chóng phá một cách hiệu quả
Đó chỉ là nói đến việc chúng đánh, ta đỡ và đánh lại; “chúng càn, ta phá càn
và phục kích chưa bàn đến việc là chủ động tấn công địch Trong vòng nữa năm,ngoài 10 ngàn trận chóng càn, có thêm 600 - 700 trận tấn công của quân và dânmiền Nam”[17, tr.1072] Tình thế khó khăn làm cho Mỹ - Diệm đang lúng túngcàng thêm lúng túng Cả hai đang chui đầu vào một “đường hầm không lối thoát”.Cuộc thí nghiệm chiến tranh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam của đế quốc Mỹ đangtrên đà bị phá sản
Và tiếp đến với chiến thắng Ấp Bắc ( Mỹ Tho) tháng 1/1963 đã giành đượcmột thắng lợi to lớn “Bằng một lực lượng với khoảng 2.000 quân với đầy đủ máybay, trọng pháo, tàu chiến, xe lội nước trợ lực, tấn công vào một ấp nhỏ vùng đồngbằng mà Mỹ - Diệm không thể đánh bật được một lực lượng du kích ít hơn 10 lần.Ngược lại chỉ có 200 chiến sĩ tự vệ nhân dân vũ trang cộng với sự đoàn kết ủng hộcủa đồng bào xóm ấp, quân dân Ấp Bắc đã anh dũng chiến thắng quân địch, tiêudiệt 450 tên, bắn rơi 6 máy bay kể cả phản lực HU.1A, thiêu hủy 3 xe cơ giới lộinước M.113 và bắn chìm một tàu chiến”[14, tr.19]
Trang 17Đến tháng 4/1963, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phátđộng phong trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công” Ấp Bắc trở thành ngọn cờquyết chiến, quyết thắng đối với hàng triệu đồng bào cả nước Trận Ấp Bắc đã tăngcường ý chí cách mạng của nhân dân, nhưng đồng thời “càng khoét sâu them mâuthuẫn giữa Mỹ và Diệm và giữa các binh chủng của Mỹ”[17, tr.1075] Chiến thuậttrực thăng vận từ năm 1962, đã được cổ động như là chiến thuật tấn công chủ yếu
và có hiệu nghiệm thì nay, với Ấp Bắc, rõ ràng chiến thuật ấy đã bắt đầu bị đánhbại Những “tổ săn máy bay” của du kích với vũ khí thông thường, nhưng với tinhthần chiến đấu cao, với kỹ thuật bắn giỏi đã làm cho ngay ở đồng bằng trống trải,các loại máy bay lên thẳng, khu trục, cường kích đều bị giảm tác dụng Chiến thắng
Ấp Bắc đã nâng cao hơn nữa lòng tin của đồng bào miền Nam vào khả năng chốngcàn, chống máy bay, chống thiết xa M.113 của Mỹ - Ngụy
Cùng với những chiến thắng quân sự mãnh liệt, thì nhân dân miền Nam đãđứng lên chống lại chương trình ấp chiến lược của chính quyền Mỹ Diệm Giaiđoạn đầu tiên của phong trào nhân dân chống phá ấp chiến lược bắt đầu từ cuối năm
1961 cho đến 5/1962 Từ tháng 6/1962 trở đi, tình hình đã khác Trong khi Mỹ Diệm tập trung lực lượng lập ấp chiến lược ở nơi này thì Mặt trận Dân tộc giảiphóng miền Nam Việt Nam và đồng bào cũng tập trung lực lượng phá ấp chiến ởnhững nơi khác Chiến thuật đấu tranh rất linh hoạt tùy vào tình hình từng nơi, từnglúc, từng âm mưu và kế hoạch của địch, tùy khả năng của Quân giải phóng, du kích
-và lực lượng quần chúng
“Phong trào nhân dân đấu tranh chống, phá ấp chiến lược sôi nổi từ cuối năm
1961, sang năm 1962, đã buộc Mỹ - Diệm phải hạ mức kế hoạch lập ấp chiến lược
từ 16.322 cái xuống còn 6.000 cái trong năm 1962”[17, tr.1111] Một phần do kếtquả đấu tranh của giai đoạn làm chậm trễ việc thực hiện kế hoạch dồn dân của Mỹ -Diệm, một phần do kết quả của giai đoạn phá ấp chiến lược sau đó
Phong trào nhân dân đấu tranh chống, phá ấp chiến ảnh hưởng đến tâm trạngcủa giới cầm quyền ở miền Nam, đến báo chí của các nước tư bản kể cả báo chí Mỹ.Ngày càng có nhiều người trong số họ, chẳng những là hoài nghi sự thành công của
Trang 18chính sách ấp chiến lược mà còn lại tin rằng chính sách ấp chiến lược sẽ đi thẳngđến thảm bại.
Vào cuối năm 1963, khoảng “80% tổng số ấp chiến lược đã bị phá rã hoàntoàn, kể cả những ấp chiến lược lập ở vùng phụ cận thành phố và trên các tuyếngiao thông quan trọng; 3.900 ấp được biến thành xã chiến đấu của nhân dân”[17,tr.1115] Các ấp chiến lược còn lại cũng bị phá lỏng, bị sứt mẻ, không bao giờ vắngbóng của lực lượng yêu nước Sự thất bại của chính sách và chương trình ấp chiếnlược là một yếu tố trọng yếu vào bậc nhất làm cho chế độ Mỹ - Diệm sụp đổ
Về mặt văn hóa, tư tưởng đầu tháng 6/1963, thanh niên, học sinh, sinh viên vàđồng bào miền Bắc tổ chức hàng trăm cuộc biểu tình ủng hộ phong trào Phật giáo
và thanh niên chống Mỹ - Diệm ở miền Nam Riêng 2 ngày 5 và 6, tại Hà Nội có 80ngàn người biểu tình Ngày 7/6, thay mặt cho 100 triệu đoàn viên của mình, Liênđoàn thanh niên dân chủ thế giới lên tiếng phản đối Mỹ - Diệm khủng bố phật tử,sinh viên, thanh niên Nam Việt Nam
Đầu tháng 8 xảy ra hiện tượng một loạt các nhà sư theo gương Thích QuảngĐức mà tự thiêu, có người già 71 tuổi, có người trẻ 20 tuổi, có tăng, có ni tất cả đều
để lại những bức thư thống thiết chống ngụy quyền độc tài, đòi tự do tín ngưỡng vàbình đẳng tôn giáo
Tình hình đấu tranh ở thành thị và nông thôn tác động đến tinh thần binh línhcủa Mỹ - Diệm, một vài viên tư lệnh báo cáo cho Diệm hay rằng có những trungđoàn xin tham gia biểu tình với nhân dân; họ báo cho Diệm hay là họ không thể ralệnh cho các đơn vị đó đàn áp phong trào Phật giáo
Phong trào Phật giáo nổi lên thêm một yếu tố vào nhận định của Mỹ là cầnphải “thay ngựa giữa dòng”, phải lật đổ Ngô Đình Diệm “Cuộc đảo chính lật đổchính quyền Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963 do các tướng lĩnh của quân đội ViệtNam Cộng hòa thực hiện, đứng đầu là tướng Dương Văn Minh được người Mỹ ủng
hộ đánh dấu sự khởi đầu của thời kì lịch sử mới, với những biến đổi sâu sắc, toàndiện về chính trị quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội miền Nam Việt Nam”[38,tr.141]
Trang 19Như vậy, trãi qua khoảng 10 năm thực hiện tham chiến tại chiến trường miềnNam Việt Nam Mỹ đã đổ vào nơi đây rất nhiều tiền của, con người thông qua bộmáy chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm nhưng kết quả nhận được chỉ là con số 0.
Và với trước tình hình đó Mỹ đã phải chuyển hướng bằng cách trực tiếp leo thangvào chiến trường miền Nam Việt Nam
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Từ năm 1947, với thuyết Truman, Mỹ đã thực hiện tham vọng lãnh đạo thếgiới của mình bằng chiến lược toàn cầu Mỹ coi Liên Xô là mục tiêu cần phải đốiđầu và tiêu diệt tận gốc vì Liên Xô theo chế độ XHCN Trong thời gian đầu từ khiđưa ra thuyết Truman đến năm 1949, Mỹ đặt trọng tâm là ở châu Âu, đặc biệt là Tây
Âu Sau đó là mở rộng mục tiêu sang Đông Bắc Á (1950-1953) Từ năm 1950, Mỹnhận ra tầm quan trọng của Đông Nam Á và dần mở rộng chiến lược toàn cầuxuống đây
Hiệp định Geneve được kí kết năm 1954, Mỹ ra sức tác động vào Pháp để bắtbuộc Pháp mở đường cho Mỹ can thiệp vào miền Nam Việt Nam Mỹ đã dựng lênchính quyền Ngô Đình Diệm nhằm làm công cụ thống trị của Mỹ và không ngừngviện trợ cho chính quyền Ngô Đình Diệm Sự sa lầy của Mỹ khi chi viện ngày càngnhiều cho Diệm mà kết quả thu về không khả quan khi chính quyền Diệm bị quâncách mạng chống phá quyết liệt, chính quyền Diệm chịu nhiều áp lực to lớn và ngàycàng suy yếu, lộ rõ bản chất tay sai Cuối cùng, Ngô Đình Diệm và Kennedy bị ámsát
Như vậy, trãi qua khoảng 10 năm thực hiện tham chiến tại chiến trường miềnNam Việt Nam, Mỹ đã đổ vào nơi đây rất nhiều tiền của, con người thông qua bộmáy chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm nhưng kết quả nhận được chỉ là con số 0
Và với trước tình hình đó Mỹ đã phải chuyển hướng bằng cách “trực tiếp leo thang”vào chiến trường miền Nam Việt Nam
Trang 20CHƯƠNG 2 TIẾN TỚI “LEO THANG TRỰC TIẾP” VÀO CHIẾN TRANH VIỆT NAM CỦA MỸ THỜI TỔNG THỐNG
JOHNSON (11/1963 - 3/1965)2.1 Tình hình miền Nam Việt Nam sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ 2.1.1 Tình hình chính trị
Biến cố tháng 11/1963 tại Sài Gòn đã giáng một đòn mạnh vào chính quyềnmiền Nam Việt Nam lúc đó Cái chết của anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm vàNgô Đình Nhu, cũng đã báo hiệu sự sụp đổ của chính thể “Đệ nhất Cộng hòa” dochính chính quyền Mỹ dựng lên Sự kiện này diễn ra với bối cảnh, khi mà gần nhưnhững chính sách, cả về quân sự và chính trị của Mỹ đối với chính quyền Sài Gònđang có nguy cơ thất bại Sau khi Ngô Đình Diệm bị sát hại hai tuần sau đó Tổngthống Kenedy cũng bị ám sát ở bang Texas (Mỹ), từ đây tất cả những vấn đề liênquan đến Việt Nam đều được chuyển giao cho chính quyền mới của Tổng thốngJohnson Sau khi được hẫu thuẫn của Mỹ để tiến hành đảo chính Diệm, nhữngtướng lĩnh Sài Gòn đã thành lập “Hội đồng Quân nhân cách mạng” (HĐQNCM) đểtiếp quản đất nước Tuy nhiên, những điều kỳ vọng của Mỹ vào những tướng lĩnhnày hầu như là vô vọng, bởi vì “tình hình chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đòi hỏiphải có ngay một chính quyền tay sai khác dễ sai khiến hơn và đắc lực hơn”[17,tr.1269] Tuy nhiên, HĐQNCM lại chẳng thể làm được điều đó, nội bộ của họ lànhững tướng lĩnh có những toan tính khác nhau, cùng mưu cầu lợi ích cá nhân Họchỉ có bề ngoài là có vẻ như hợp tác vì đại cuộc nhưng bên trọng lại luôn đấu đátranh giành lẫn nhau Chính quyền mới đó, họ không làm được gì bởi bản chất lệthuộc hoàn toàn vào Mỹ một cách rõ ràng Một chính quyền toàn tướng lĩnh quân
sự nắm các vị trí chủ chốt, và phe dân sự thì bị lép vế trước họ thì đó là một chínhquyền có vấn đề nếu như không muốn nói thẳng ra rằng đó là một chính quyền quânphiệt có tính chất độc tài Bởi vì cơ cấu của nó là sau khi Diệm bị lật đổ thì Quốchội cũng như Hiến pháp cũng bị phế bỏ Dương Văn Minh là chủ tịch HĐQNCM,còn “chính phủ lâm thời được họ chỉ định thì lại là một người đã từng phục vụ dưới
Trang 21chính quyền Diệm và làm với chức là phó tổng thống của Diệm”[17, tr.1270], nhưvậy, chính quyền mới này quá là bất bình thường Những thành phần trong chínhquyền mới đa số là những người xuất thân từ quân đội và là thành viên củaHĐQNCM Với một chính quyền như vậy, xã hội sẽ phải chịu sự bất ổn thườngxuyên, bởi lẽ nội bộ sẽ luôn có sự đấu đá lẫn nhau, sự thù nghịch của các nhóm lợiích cả phe quân sự và dân sự đều là mầm móng gây sụp đổ cho chính quyền mới.Thêm nữa, đa số những người trong chính quyền mới cũng chỉ đa số đều là nhữngngười đã từng nắm các chức vụ dưới thời Diệm
Với một chính quyền tay sai như trên, đủ khiến cho chính quyền Mỹ phải lolắng và băn khoăn mặc dù sau khi đảo chính ở Sài Gòn thành công của nhóm tướnglĩnh thì “Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đã gửi cho chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ mộtbản chỉ thị khá rõ : Hoa Kỳ hi vọng chính phủ Nam Việt Nam sẽ sớm tiếp tục cuộcchiến đấu chống cộng với những nỗ lực mới”[17, tr.1271].Có thể nói bức thư ngoạigiao ấy mang tính chất là ra lệnh của ông chủ đối với kẻ đầy tớ của mình nhiều hơn
là văn bản ngoại giao thông thường Sau khi lên nắm quyền, HĐQNCM thi hànhnhiều chính sách để có thể che lấp đi cái bản chất tay sai và độc tài của mình Tuynhiên, suy cho cùng thì những chính sách đó đều đa phần là để làm vừa lòng “ôngchủ Mỹ”, chẳng hạn như trong lĩnh vực quân sự, Mỹ là người ra lệnh và HĐQNCMchỉ là người thừa hành, đến ngay cả việc quyết định bầu cử Quốc hội thì họ cũngphải xem đến sự đồng ý hay không của Mỹ hoặc việc phát ngôn như thế nào theo ýcủa Mỹ cũng là vấn đề cần quan tâm của chính quyền mới
Tuy vậy, mặc dù chính quyền mới rất được lòng “ông chủ” Mỹ, nhưng phải nóirằng được lòng người này sẽ mất lòng người kia Chính quyền mới ban đầu luôn hôhào chống độc tài Diệm- Nhu, chống gia đình trị của họ Ngô, thế nhưng những gì
họ làm thì cũng chẳng khác gì thay một chính quyền độc tài này bằng một chínhquyền độc tài khác, thay một chính quyền gia đình trị này bằng chính quyền quânphiệt kia Chính vì những lí do đó, mà họ không được lòn dân, cũng như các phephái “dân sự” khác Đó cũng là một trong những lí do mà có nhiều sự chống đối đốivới chính quyền mới và tạo ra những sự khủng hoảng xã hội một cách nghiêmtrọng
Trang 22Song song đó, chính quyền mới tiến hành giải tán những tổ chức chính trịthânDiệm, hoặc được thành lập dưới thời Ngô Đình Diệm điển hình nhất chính là giảitán đảng “cần lao nhân vị”, hay tổ chức thanh trừng nhiều thành phần cá nhân thânDiệm Bên cạnh đó là chính quyền mới còn cho thành lập những tổ chức làm bìnhphong cho việc tôn trọng sự dân chủ, như việc thành lập cái gọi là “hội đồng nhânsĩ” có nhiệm vụ thay thế tạm thời Quốc hội và cố vấn cho chính quyền mới, thực sự
đó là một mớ hổ lốn đầy hài hước, bởi lẽ mang danh là nhân sĩ nhưng trong đó đa
số là những người có tư tưởng thân Mỹ, và cũng chẳng có được bóng dáng củanhững người được gọi là dân chủ và nhân sĩ thực sự
Chính quyền Sài Gòn mới, được xem như là chỗ dựa rất lớn về mặt chính trị vàchính danh trong việc can thiệp ngày càng sâu hơn vào vấn đề Việt Nam của Mỹ.Tuy nhiên, sự khủng hoảng của nó thì gần như là rõ ràng và ai cũng thấy được, bởimột lẽ sự không ủng hộ từ những tầng lớp trong xã hội, cũng như sự đấu đá phenhóm và sự hoạt động ngày càng lớn của các lực lượng cách mạng Chỉ trong vòngmột khoảng thời gian ngắn từ 11/1963 đến 1965 đã có nhiều cuộc đảo chính Mànhưng người cầm đầu lại là chính trong nội bộ của chính quyền mới như: đảo chínhcủa HĐQNCM đứng đầu là Dương Văn Minh lật đổ Diệm- Nhu, đến 1/1964,Dương Văn Minh lại bị chính những người trong HĐQNCM lật đổ Sau đó Khánhlên làm thủ tướng kiêm Tổng tư lệnh, không lâu sau đó 27/8/1964, vì sự tranh giànhquyền lực mà đã diễn ra một cuộc “chỉnh lí” thành lập “tam đầu chế” gồm Minh-Khánh- Khiêm Tuy nhiên, cái thế “chân vạc” này cũng không tồn tại lâu bởi nhiều
sự chống đối dẫn đến xã hội rối loạn, Mỹ gây sức ép buộc Nguyễn Khánh phải rakhỏi chính quyền ngày 20/10/1964, thay thế là Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng,Trần Văn Hương làm thủ tướng Tình hình không dừng lại ở đó, đến ngày25/1/1965, Trần Văn Hương cũng bị hạ bệ và Phan Huy Quát lên thay ông ta làmthủ tướng, tiếp sau đó là Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu đảo chính loại Khánh ra khỏiquân đội, năm 1965, chính phủ của Phan Khắc Sửu cũng bị lật đổ và một Ủy banđược lập ra do Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch và Nguyễn Cao Kỳ làm thủ tướng.Với một chính trường rối ren và khủng hoảng nghiêm trọng như vậy, đã đi quá xa sovới những gì Mỹ dự tính và mong muốn, sự khủng hoảng đó cũng khiến McNamara
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã phải cay đắng báo cáo trước Quốc hội Mỹ rằng :
Trang 23“quân lực Việt Nam Cộng hòa đã không còn đủ sức chiến đấu, chế độ Sài Gòn đãthất bại”[20, tr.200] Như vậy, với điều khẳng định trên, cùng với những gì đã diễn
ra trên chính trường miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, chúng ta có thể thấy đượcmột miền Nam Việt Nam đầy rối loạn, biến động, đấu đá phe phái trong nội bộ, sựchống đối từ bên ngoài trong đó có cả những tôn giáo như phong trào Phật giáo, cácmưu tính của giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, xã hội đầy rối loạn bất ổn, “các giáo pháinhư Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo không ủng hộ Hội đồng quân nhân, còn Thiênchúa giáo vốn là hậu thuẫn của gia đình Diệm thì lại trở thành thù địch vớichúng”[17, tr.1279]những điều này dẫn đến một vấn đề đó là Mỹ phải hành động,
họ phải suy nghĩ lại tính hiệu quả của chính quyền mới do chính họ dựng lên, vàphải có sự điều chỉnh hoặc thậm chí là thay đổi nó để phù hợp với những gì mà họmuốn đó là chống lại sự sụp đổ có tính dây truyền kiểu hiệu ứng DOMINO
2.1.2.Tình hình quân sự
Sau thất bại tại trận Ấp Bắc, thuộc huyện Cai Lậy (Mỹ Tho) và ngày 2/1/1963,
bộ chỉ Huy viện trợ quân sự của Mỹ ở Việt Nam (MACV) đã quyết định phải kéodài kế hoạch bình định miền Nam và đồng thời sẽ huy động toàn bộ lực lượng bằngcách tăng thêm viện trợ, tăng thêm cố vấn, tiến hành đôn quân bắt lính Thực tế, mặttrận quân sự đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn là nét chính, chính vì vậy việc liêntiếp thất bại trong các chiến dịch quân sự nhằm chặn đứng làn sóng tiến công theochiều hướng thắng của lực lượng cách mạng đã khiến Mỹ có những cách nhìn khác
và xem xét lại mọi vấn đề Từ năm 1963 đến năm 1965, là giai đoạn Mỹ tiến hành
“chiến tranh đặc biệt”, các hình thức chiến tranh như “thiết xa vận”, “trực thăngvận” được đưa ra nhằm hỗ trợ các lực lượng chiến đấu của Mỹ lẫn chính quyền SàiGòn, mục tiêu tối thượng của nó là tiêu diệt lực lượng cách mạng và kết thúc chiếntranh Tuy nhiên, với thất bại trong trận Ấp Bắc (Mỹ Tho), dường như đã mở ra mộthiệu ứng kéo theo đối với sự thất bại của Mỹ trong những chiến dịch được mở sau
đó Chiến thắng Ấp Bắc đối với lực lượng cách mạng ở miền Nam Việt Nam là mộtbước ngoặt, bởi lẽ với thắng lợi giữa một lực lượng chỉ khoảng 200 người, trướcmột lực lượng hùng hậu hơn 2000 quân được trang bị đầy đủ và sự hỗ trợ của cácphương tiện quân sự hiện đại thì đó đã đánh dấu sự xuất hiện của một lực lượng vũtrang cách mạng mới mạnh mẽ và đầy tiềm năng Đồng thời, chiến thắng này cho
Trang 24thấy sự yếu kém về quân sự của quân đội Sài Gòn, cũng như cả về mặt chiến lượctrong chiến tranh Sau trận Ấp Bắc, Mỹ tiếp tục mở các cuộc hành quân bình địnhmới, trong đó có việc đề ra một kế hoạch quân sự mới có tên là “kế hoạch Johnson-MacNamara” nhằm thay thế cho kế hoạch bị phá sản trước đó của tướng Taylo Mỹbắt đầu tăng cường các hoạt động quân sự ở miền Nam Việt Nam, cùng với đó làkêu gọi lôi kéo các nước trong khối SEATO tham gia chiến tranh chống Việt Nam,
“17/4/1964, Mỹ họp Bộ tư lệnh Thái Bình Dương đề ra kế hoạch OPLAN 37, đánhcác đường “thâm nhập” từ miền Bắc qua biên giới các nước Lào và Campuchia”[20,tr.195], điều đó có nghĩa là quy mô của cuộc chiến đã lan ra ngoài miền Bắc và rangoài biên giới Việt Nam, đó có thể được xem là sự mở rộng và dần dính líu vàovấn đề Việt Nam từng bước mạnh mẽ hơn của Mỹ
Với ưu thế về quân sự Mỹ cùng quân đội Sài Gòn mở các cuộc hành quân tiếncông lực lượng cách mang, tháng 4-5/1964, chúng tiến công bắc Suối Đá (TâyNinh), cùng lúc đó tấn công Thủ Dầu Một, Bến Cát, đồng thời đánh An Nhơ- GiaĐịnh, với mục đích là kéo giãn lực lượng cách mạng nhằm mở thế bị áp sát và nguy
cơ thâm nhập của quân cách mạng đối với Sài Gòn Ở hướng liên khu V, quân cáchmạng đẩy lùi được nhiều cuộc càn quét của quân Sài Gòn, giải phóng nhiều xã, phánhiều ấp chiến lược, về phía chiến trường Tây Nguyên, Trị-Thiên các cuộc càn quét
và hành quân của quân đội Sài Gòn bị đập tan Không chịu thua, Mỹ tung các toánbiệt kích bí mật xâm nhập miền Bắc Việt Nam nhằm đánh phá các cơ sở, cầu đường
và đường chi viện của miền Bắc đối với miền Nam Việt Nam, đồng thời các tàu khutrục Mỹ gia tăng các hoạt động ở Vịnh Bắc Bộ nhằm giám sát và khiêu khíchVNDCCH Sau trận Ấp Bắc, là cuộc chiến đấu chống càn quét của địch thì cuối đếnnăm 1964, quân cách mạng bắt đầu tiến hành những cuộc tiến công đánh vào cácnơi đóng quân của quân đội Sài Gòn mở đầu bằng “chiến dịch An Lão (Bình Định,12/1964”[20, tr.197], kết quả thu về đó là thiệt hại của quân đội Sài Gòn và Mỹ,hàng trăm quân bị loại khỏi vòng chiến, và toàn bộ huyện An Lão được giải phóng.Cùng với thắng tới đó, trên mặt trận ở hướng Quảng Nam, quân cách mạng cũngtiêu diệt một lực lượng địch đáng kể và làm cho chúng thiệt hại nặng, ở khu vựcNam Bộ được xem là trọng điểm của các cuộc càn quét của địch thì lực lượng cáchmạng đã mở chiến dịch Bình Giã (Bà Rịa) từ cuối năm 1964 đến đầu năm 1965
Trang 25Chiến thắng Bình Giã đã chứng minh được lực lượng quân sự cách mạng ngày càngđược phát triển mạnh mẽ, ta có thể huy động một lực lượng quân sự lớn và tiếncông trên địa bàn lớn với các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa, Bình Thuận,chiến thắng Bình Giã có ý nghĩa vô cùng to lớn và được đánh giá là “một chiến dịchquy mô nhỏ nhưng có ý nghĩa chiến lược, mở đầu thời kỳ mới của chiến tranh cáchmạng miền Nam”[35, tr.256] Như vậy, với các thất bại và tổn thất ngày càng tăngcủa quân đội Sài Gòn cũng như các cố vấn Mỹ, điều này đã khiến Mỹ phải bắt đầuxem xét lại chiến lược chiến tranh của mình và năng lực thật sự của quân đội SàiGòn Những thất bại liên tiếp dần chứng minh một sự thật, lực lượng cách mạngngày càng lớn mạnh, qua các chiến thắng từ Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài của lựclượng cách mạng, Mỹ ngày càng đủ cơ sở để khẳng định chỉ làm cố vấn cho quânđội Sài Gòn là chưa đủ, và họ (quân đội Sài Gòn) chưa hoàn toàn sẵn sàng cũng như
đủ sức đương đầu với lực lượng quân đội của “Việt cộng” Trong khi đó, nhữngtoán biệt kích mà Mỹ bí mật cho thâm nhập vào miền Bắc Việt Nam thì hoạt độngkhông mấy hiệu quả hầu như toàn bộ đều bị bắt, khi Mỹ tiến hành ném bom miềnBắc vào năm 1964, những tưởng dùng sức mạnh không quân vượt trội để có thể bắtVNDCCH ngừng chi viện cho miền Nam, tuy nhiên chỉ bốn ngày sau khi Mỹ némbom “quân giải phóng khu V đã tiến công địch ở Kỳ Sanh( Quảng Nam), đánh bại
“thiết xa vận” của đối phương, đánh thiệt hại 2 đại đội, 1 tiểu đoàn quân ngụy, pháhỏng 10 xe cơ giới”[20, tr.197] Quân đội tay sai do Mỹ dựng lên không thể làmđược điều Mỹ mong muốn, cùng với đó, lực lượng cách mạng thì ngày càng mạnh
mẽ và phát triển rộng khắp, một bước ngoặt mới trong cuộc đấu tranh vũ trang cáchmạng ở miền Nam được mở ra báo hiệu một nguy cơ mới trong việc chiến thắngcủa Mỹ ở miền Nam Việt Nam
2.1.3.Tình hình xã hội
Tình hình chính trị bất ổn đã tác động đến tình hình xã hội một cách sâu sắc,chính quyền mới đã chống lại những người đối lập của mình bằng cách sử dụng lại
“luật đàn áp báo chí của thực dân Pháp và chế độ Diệm để phạt tiền, phạt tù nhữngchủ nhiệm và ký giả”[17, tr.1275], nếu họ dám đưa những tin tức bất lợi làm hỗnloạn xã hội Đối với các lực lượng đối lập khác như học sinh, sinh viên thì chínhquyền mới có cách giải quyết mới, như công nhận giới trí thức cũng có công trong
Trang 26việc làm chế độ độc tài Diệm-Nhu sụp đổ, cùng với đó là việc mở lại các trườnghọc Tuy nhiên dù làm gì đi chăng nữa chính quyền mới này cũng không giấu đượccái đuôi phản động, phản dân chủ của mình như việc “ngày 12/11/1963 đô trưởngSài Gòn ra lệnh nghiêm cấm các cuộc tụ họp của dân chúng”[17, tr.1275] ngoài rachính quyền mới còn tiến hành hàng loạt các cuộc đàn áp dãn man đẫm máu khi cócác lực lượng phản kháng đòi quyền lợi chính đáng của mình, tuy nhiên tất cả đều
bị đàn áp bằng lưỡi lê và thuốc độc
Bên cạnh những việc làm đó còn có sự bất mãn của người dân đối với chínhsách “bình định” và lập các “ấp chiến lược” ở các vùng nông thôn nhằm, cách linhân dân ra khỏi lực lượng cách mạng mà theo cách gọi của Mỹ và chính quyền taysai là “việt cộng” Với việc sử dụng các lực lượng quân sự tiến hành bình định lấnchiếm mục đích cuối cùng của chính quyền mới và Mỹ là tiêu diệt lực lượng cáchmạng nhằm ngăng chặn chiều hướng thua trước quân đội cách mạng ngày càng lớnmạnh và địa bàn hoạt động được mở rộng hơn Để thực hiện những mục tiêu đó, Mỹ
đã viện trợ cho chính quyên Sài Gòn những khoản viện trợ thực hiện chính sách dồndân lập “ấp chiến lược”, đây được xem như một hình thức tách nhân dân ra khỏicách mạng, các lực lượng cách mạng của ta dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân để tiếnhành kháng chiến chống Mỹ và tay sai Tuy nhiên nếu thực hiện chính sách xâydựng “ấp chiến lược”, tức là Mỹ đã dùng kế sách “tát nước bắt cá” làm cho mọihoạt động của lực lượng cách mạng sẽ trở nên khó khăn hơn, đồng thời chúng tạo rathế kìm kẹp mới đối với việc tự do của nhân dân Hàng ngàn “ấp chiến lược” đãđược xây dựng, và chương trình “ấp chiến lược” này đã được thực hiện từ thời NgôĐình Diệm, tuy nhiên đến khi chính quyền mới lên thay chúng vẫn tiếp tục hòng đạtđược mục đích đã đặt ra Đứng trước những khó khăn đó, quân và dân ta đã tiếnhành nhiều cuộc tiến công, đánh phá và phá bỏ hàng loạt các “ấp chiến lược” ở cáctỉnh miền Nam Việt Nam, đạt được những thành công Trong năm 1963, toàn miềnNam có 34 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị Nhân dân đã phá hoàn toàn2.895 “ấp chiến lược” trong số 6.164 ấp do địch lập ra, số còn lại đã bị phá đi phálại 5.950 lần ấp Nhân dân cũng đã phá được thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở12.000 thôn trong tổng số 17.000 thôn toàn miền Nam, giải phóng hơn 5 triệu dântrong tổng số 14 triệu dân toàn miền Nam Hơn 1,5 triệu ha trên tổng số 3,5 triệu ha
Trang 27ruộng đất đã về tay nông dân; hơn 23.000 thanh niên đã tòng quân Hàng nghìn “ấpchiến lược” đã biến thành làng chiến đấu Đến giữa năm 1964 “hệ thống ấp chienslược ở An Giang căn bản bị xóa bỏ”[20, tr.195], ở khu V hơn 1082 ấp chiến lượccũng bị phá tan và giải phóng hàng trăm xã, làm chủ thêm hàng trăm nghìn hộ dân.Nếu như vào năm 1963, Mỹ và chính quyền tay sai lập được hơn 7500 ấp chiếnlược thì đến năm 1964 “chúng chỉ còn 3300 và đến giữa năm 1965, con số này tụtđến mức thấp nhất là còn 1300 ấp với gần 5.5 triệu dân Ở Nam Bộ và cực NamTrung Bộ, ta đã phá rã hơn 3000 ấp (trong số 3800 ấp)”[20, tr.199]
Như vậy với chiều hướng ngày càng rối loạn và bất ổn, bị thất bại trên các mặttrận từ chính trị, quân sự đến vấn đề xã hội, mỗi mặt đều là nằm trong chiến lượcchiến tranh của Mỹ đã ngày càng bộc lộ khả năng không thực hiện được và có chiềuhướng thua Bên cạnh đó là sự lớn mạnh và ngày càng phát triển không ngừng củalực lượng cách mạng đã mang đến một cục diện chiến trường mới ở miền Nam ViệtNam, chính phủ Diệm bị lật đổ do chính Mỹ giật dây, hòng lập lên một chính phủ
“dễ sai bảo” hơn cũng đã thất bại, bởi lẽ Diệm chết nhưng chính quyền mới lại lànhững tướng lĩnh mang lợi ích nhóm lớn hơn lợi ích đất nước, từ đó dẫn đến nhữngđấu đá tranh giành nội bộ khiến cho chính quyền Sài Gòn chỉ trong vòng mộtkhoảng thời gian ngắn từ 1963-1965 đã 10 lần đổi chủ với nhiều cuộc đảo chính vàchỉnh lý phe nhóm Về mặt quân sự, thất bại hàng loạt trước các cuộc tiến công củaquân giải phóng cũng như trong các chiến dịch càn quét do Mỹ chủ động đã bộc lộ
rõ những yếu kém trong chính lực lượng quân sự mà ở đây chính là quân đội SàiGòn, chính sách dồn dân lập “ấp chiến lược” được xem như xương sống củachương trình bình định thì lại bị phá vỡ từng mảng kéo theo đó là sự mất dần lòngtin của nhân dân vào chế độ Sài Gòn và đưa họ quay về với chính nghĩa cách mạng.Chính trị thì bất ổn, chính quyền mới không làm được điều Mỹ mong muốn, quân
sự thì thất bại bộc lộ yếu kém, các chính sách đề ra lại bị thất bại từ bước đầu đếnthất bại hoàn toàn, thêm vào đó là sự lớn mạnh của cách mạng miền Nam Nguy cơthất bại của Mỹ đã ngày càng rõ ràng và đang đến dần, chính điều đó đã dẫn đếnquyết định phải leo thang chiến tranh ở Việt Nam của Mỹ
2.2 Tiến tới “leo thang trực tiếp” ở miền Nam Việt Nam
Trang 282.2.1 Chính trị
Trước hết sau những sai lầm liên tiếp trong việc đánh giá tình hình chính trịĐông Dương từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Washington có khuynh hướng choDiệm hiểu biết vấn đề Việt Nam hơn là người Mỹ, nhất là sau những rối loạn năm
1955, người Mỹ cho rằng trong một xã hội chia rẽ Nam Việt Nam đứng trước nguy
cơ lật đổ của cộng sản nên Diệm phải có chính đảng riêng của mình, có chính phủmạnh để đối phó với tình hình Tướng Edward Landsdale, phụ trách chiến tranh tâm
lí ở Việt Nam lúc này đã nhìn thấy nguy cơ trong chính sách của Diệm
Một đặc điểm của những tháng giữa năm 1963 là phong trào Phật giáo rất sôinổi chống chính quyền Ngô Đình Diệm Phong trào mới nổi lên này “bắt nguồn từchính sách phân biệt đối xử của Mỹ - Diệm với các tôn giáo, cùng hành động đàn ápcác tôn giáo không phải là Gia Tô”[17, tr.1203]
Tuy nhiên,“đến giữa năm bùng nổ “sự kiện Phật giáo” đưa đến việc chính phủKennedy bỏ rơi Diệm và khuyến khích đảo chính để lật đổ chế độ độc tài đưa miềnNam đến chỗ tình trạng hỗn loạn và Mỹ phải trực tiếp tham chiến trên quy mô lớn ởViệt Nam”[15, tr.74] Cuộc khủng hoảng Phật giáo đã diễn ra như thế nào và điều gì
đã khiến Mỹ một lần nữa thay đổi triệt để thái độ đối với Diệm
Phong trào Phật giáo nổi lên thêm một yếu tố vào nhận định của Mỹ là cầnphải “thay ngựa giữa dòng”, phải lật đổ Ngô Đình Diệm Các thông tin đại chúng
Mỹ về sau thường hay viết rằng: “phong trào Phật giáo hùng mạnh đã làm đổ ngụyquyền họ Ngô, nói như thế, Mỹ nhằm che lấp âm mưu của chúng đồng thời dễ làmcho người ta khó nhận thấy nguyên nhân cơ bản làm đổ Diệm hay bất cứ Ngụyquyền bù nhìn nào đó là cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang của đồng bào miềnNam, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng”[17, tr.1225]
“Tại Washington, chính phủ Mỹ muốn gạt Ngô Đình Nhu mà họ coi như mộthung thần trong chính phủ Nam Việt Nam Chính phủ Mỹ không thể chấp nhận tìnhhình mà quyền lực nằm trong tay Nhu Diệm phải được cơ hội để gạt bỏ Nhu và bèphái này ra, và thay thế họ bằng các cá nhân chính trị và quân sự xuất sắc nhất cóthể”[27, tr.35] Còn đối với Ngô Đình Diệm, Kennedy và cố vấn cho rằng do lòng
Trang 29can đảm và tinh thần yêu nước, Diệm vẫn có thể là quốc trưởng tượng trưng chochủ nghĩa quốc gia thuần túy và cứng rắn
Nhưng tám năm qua, chế độ đã được phát triển thành cổ xe hai ngựa Diệm Nhu và rất khó để tách Nhu ra khỏi Diệm nếu không thay đổi triệt để chính sách.Trường hợp ông Lodge đã tận lực thuyết phục, mà Diệm vẫn cứng rắn không đổi,rồi chúng ta phải đối diện khả năng rằng cũng không thể giữ ông Diệm được nữa
-Ở giai đoạn này Dương Văn Minh cho rằng chỉ cần Nhu ra đi mà không cầndựng lên một cuộc đảo chính để lật đổ Diệm “Nhằm mục đích đó, Minh định tổchức ám sát Nhu nhân có những cuộc họp đều đặn giữa Nhu và các tướng lĩnh đãchỉ huy tấn công vào các chùa để điểm tình hình chung và giao chỉ thị mới”[15,tr.80] Các cuộc họp đó thường diễn ra ở đại bản doanh quân đội ở Tân Sơn Nhấtvùng ngoại ô Sài Gòn Ngày hôm đó (5/10), Minh bố trí tay chân phục ở ngã tưđường Công Lý và Yên Đổ chờ xe Nhu trở về Dinh Độc Lập Nhưng chuyện bấtthành do có Tướng Trần Văn Đôn ngồi cạnh Nhu nên người của Minh không dám
nổ súng sợ trúng vào Tổng tham mưu trưởng
Sau âm mưu ám sát Nhu không thành công sự việc giậm chân tại chỗ khiếnLodge rất sốt ruột Đôn và Minh không thể dùng quân sự để tiền hành đảo chính vìchẳng ai nắm được đơn vị quân đội nào “Ngày 28/10, Lodge phái Conein đến gặpMinh vì Đôn cho biết sứ quán Mỹ sẽ cung cấp tiền lung lạc các tướng lĩnh còn do
dự Những hoạt động rục rịch của CIA đã đến tay Nhu và Nhu quyết định lập một
kế hoạch khá tinh vi là tổ chức một cuộc đảo chính giả đặt tên là Bravo”[15, tr.81]
Kế hoạch Bravo có hai giai đoạn:
- Giai đoạn đầu gọi là Bravo I, tướng Thôn Thất Đính kiêm chức chỉ huytrưởng đặt khu thủ đô, kiêm tư lệnh quân khu III bao quanh Sài Gòn và tướng LêQuang Trung tư lệnh lực lượng đặc biệt sẽ điều hành làm cuộc đảo chính giả để lật
đổ Diệm Nhu Những kẻ âm lật đổ thật sẽ xuất đầu lộ diện
- Giai đoạn hai gọi là Bravo II, các đơn vị trung thành với chính phủ dướiquyền Huỳnh Văn Cao tư lệnh vùng II sẽ kéo quân từ đồng bằng sông Cửu Long vềSài Gòn bắt giữ các tướng tham gia đảo chính
Trang 30Vào ngày 30/10/1963, Đại sứ Lodge báo cáo về Washington rằng ông không
có cách nào ngăn cản cuộc đảo chính nữa và rằng chuyện này hoàn toàn nằm trongtay người Việt rồi Tướng Harkins không đồng ý, và gửi điện văn bày tỏ lập trườngchống đảo chính của ông lên Tướng Maxwell Taylor”[27, tr.53]
Đôn gợi ra lệnh thiết quân luật ngày 20/8 của Diệm giao cho quân đội tráchnhiệm duy trì trật tự trong nước như thế Đính phải làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ mớixứng Được Đôn kích động Đính đề nghị Diệm thăng chức Bộ trưởng Nội vụ nhưngTổng thống gạt phắt, cười ngất nói Đính không đủ khả năng giữ chức vụ quan trọng
đó trong chính phủ Bị hụt hẫn và làm nhục vì sự khước từ đó Đính đem lòng câmgiận Diệm và quyết định ngã về phe đảo chính Ngay lập tức Đôn báo ngay choConein Những người âm mưu chống Diệm đã biến cuộc đảo chính giả do Nhudựng lên thành đảo chính thật, lợi dụng tối đa yếu tố bất ngờ
Một điện văn kế tiếp trong cùng ngày (30/10) từ Washington gửi cho Đại sứLodge ra lệnh Lodge vận động các tướng lĩnh Việt Nam Cộng Hòa hủy bỏ cuộc đảochính nếu Lodge không tin là cuộc đảo chính sẽ thành công Chỉ thị này yêu cầuLodge “tuyệt đối không liên hệ gì và giữ thái độ trung lập một cách nào đó”[27, tr.].Cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963 do cáctướng lĩnh của quân đội Việt Nam Cộng hòa thực hiện, đứng đầu là tướng DươngVăn Minh được “người Mỹ ủng hộ đánh dấu sự khởi đầu của thời kì lịch sử mới,với những biến đổi sâu sắc, toàn diện về chính trị quân sự, kinh tế, văn hóa, xãhội miền Nam Việt Nam”[38, tr.141]
“Cuộc đảo chính xảy ra lúc 13 giờ 30 phút, giờ ngủ trưa theo thường lệ của dânSài Gòn Lực lượng tham gia đảo chính gồm 2 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn lính thủyđánh bộ và 2 tiểu đoàn của sư đoàn 5 bộ binh của tướng Đính, có 3 tá xe tăng yểmtrợ”[15, tr.84] Không đầy một tiếng đồng hồ sau quân đảo chính đã chiếm được trụ
sở Cảnh sát quốc gia, Cục bưu điện, Đài phát thanh quốc gia, các Bộ quốc phòng,Nội vụ, bao vây dinh Tổng thống và đánh vào trại Cộng hòa của lực lượng bảo vệTổng thống bằng xe tăng và súng cối
Lúc đầu Diệm - Nhu nghỉ rằng tướng Đính đã triển khai Bravo I theo kế hoạch
đã vạch sẵn từ trước Nhưng khi hai người được tin quân đảo chính đã chiếm các vị
Trang 31trí then chốt trong nội đô thì những mối nghi ngờ của Nhu đã được thức tỉnh Trậnđánh gây go nhất giữa quân Diệm và quân đảo chính, trước khi dinh Gia Long bịtấn công, đã diễn ra ở đài phát thanh và thành Cộng hòa - nơi đóng quân của “lữđoàn liên binh phòng vệ phủ Tổng thống”.
Lúc này, Tướng Huỳnh Văn Cao, tư lệnh quân đoàn 4 có ý đem quân về sàiGòn cứu Diệm, nhưng sư đoàn 7 đóng ở Mỹ Tho đã chơi tay trên, đem hết cácthuyền chở quân đậu sang bên tả ngạn sông Cửu Long “Lần lượt kẻ trước ngườisau, các tư lệnh quân đoàn điện về Sài Gòn tán thành phe đảo chính Nhu kêu gọithanh niên Cộng hòa (do Cao Xuân Vỹ cầm đầu), kêu gọi phụ nữ nữa vũ trang (mà
Lệ Xuân là tay thành lập), nhưng cũng không thành Vòng vây dinh Gia long ngàycàng chặt nghẽn, Tướng Minh kêu gọi Diệm đầu hàng, nếu hàng sẽ được đi ở ngoạiquốc Diệm gọi Logde nhờ can thiệp, Logde bất lực! Từ 10 giờ đêm Diệm - Nhumất hết liên lạc bên ngoài”[17, tr.1230]
Lực lượng bảo vệ dinh Tổng thống đã chống lại dữ dội, trận đánh kéo dài đếnsuốt đêm Khoảng 5 giờ 45 phút sáng hôm sau, khi tướng Phạm Ngọc Thảo chỉ huymột đơn vị xe tăng xung phong đánh chiếm dinh Tổng thống và quân đảo chính đãphát hiện anh em Diệm - Nhu đã rời khỏi dinh Tổng thống từ đêm Sau khi thoátkhỏi dinh, Diệm và Nhu đã trốn vào nhà một người bạn người Hoa ở Chợ Lớn.Sau biểu lễ ngày 2/11, vào lúc 7 giờ, Diệm gọi điện đến Bộ Tổng tham mưutuyên bố sẵn sáng từ chức và được ra đi một cách danh dự thích hợp với ngôi vị củaông Tướng Đôn trả lời sẽ bảo đảm an toàn tính mạng cho Tổng thống và gia đìnhnếu Diệm đầu hàng vô điều kiện
Sau cú điện thoại của Diệm, tướng Minh giao cho các sĩ quan thân cận đi tìmđón Diệm và Nhu Khi các sĩ quan đến trước cửa nhà thờ, Diệm khó chịu như bị
“sốc” thấy họ đưa đến một chiếc xe quân sự bọc thép để đón mình Đại tá DươngNgọc Lãm viện lí do là bảo đảm an toàn “Trên đường quay về Bộ Tổng tham mưu,như sau này đại tá Nguyễn Văn Quạn trước khi chết đã kể lại, khi xe đến chỗ vượtqua đường tàu ở phố Hồng Thập Tự thì thiếu tá Dương Hữu Nghĩa giơ tiểu liên bắnthẳng nhiều phát vào Diệm và Nhu rồi Đại úy Nguyễn Văn Nhung dùng dao găm đểkết liễu”[15, tr.86]
Trang 32Cuộc đảo chính hoàn thành lúc 16 giờ 40 phút chiều ngày 2/11 Các tướngMinh và Đôn đến đại sứ quán Mỹ báo cáo Đại tướng Cabot Logde tiếp họ, hớn hở
ra mặt: “Thật là tuyệt vời! Tuyệt vời!”
Chấm dứt giai đoạn dài 9 năm của một nền độc tài cá nhân gia đình trị, tay saicủa thực dân Mỹ Bắt đầu một giai đoạn khủng hoảng mới của chính cái chế độthuộc mới mà tên chủ thực sự càng ngày càng ra mặt - vẫn là đế quốc Mỹ Cuộc đảochính ngày 1/11/1963, một mặt là sự kết thúc thất bại của một đường lối thực dânkiểu mới trong đó đế quốc thống trị qua một Ngụy quyền tay sai trung thành, mặtkhác nó là sự biểu lộ một tình trạng “bế tắc cao độ của chính phủ Mỹ Kennedytrước một tình thế thúc bách, trong đó chúng không còn có khả năng giải quyết theophương pháp đơn giản”[17, tr.1243] Cuộc đảo chính này cũng là sự thể hiện củamột mâu thuẫn ngày càng sâu sắc trong nội bộ bộ máy Ngụy quyền bù nhìn miềnNam, mâu thuẫn đó chủ yếu bắt nguồn từ sự thất bại liên tiếp của Mỹ - Diệm trongcuộc đàn áp phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam
Như vậy, cuộc đảo chính quân sự thành công ở chổ là lật đổ và giết chết Diệm
- Nhu Ngựa đã được thay, nhưng mục đích đảo chính: ổn định lại tình thế, tìm sựủng hộ của nhân dân để đánh thắng cách mạng miền Nam bằng ngụy quyền mới
Ba tuần sau cái chết của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, chính Tổng thống
Mỹ John F Kennedy đến lượt mình cũng bị ám sát ở Dallas bang Texas, khi đóchiến tranh Việt Nam bước vào một giai đoạn mới
Kể từ ngày Tổng thống Kennedy nhậm chức cho đến khi bị ám sát tại Dallas(2211-1963), lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam tăng từ 875 người lên đến 16.000người Nhân viên dân sự, kể cả nhân viên CIA, cũng tăng theo đà tăng quân sốnhưng đã không làm cho tình hình miền Nam sáng sủa hơn Tổng thống Johnsonthay Kennedy cương quyết giải quyết tình trạng bế tắc Cuối tháng 12-1963, ônggửi một phái đoàn gồm Bộ trưởng Quốc phòng McNamara và Giám đốc Trungương tình báo John A.McCone đến Sài Gòn”[43.a, tr.11]
Trước tình hình đó, các tướng vẫn không ngừng chia rẽ và hất cẳng nhau Giữatháng 12/1963, tướng Dương Văn Minh thuyên chuyển tướng Nguyễn Khánh raVùng I chiến thuật ở Đà Nẵng Đầu tháng 1-1964 tướng Minh tự phong làm Tổng
Trang 33tư lệnh quân đội Hai tuần sau, CIA nhận được một báo cáo của Chỉ huy trưởng Lựclượng đặc biệt (người thay Đại tá Lê Quang Tung) rằng tướng Trần Văn Đôn cóthảo luận giải pháp trung lập hóa miền Nam Việt Nam với một giới chức ngườiPháp đang thăm viếng Sài Gòn
“Vài tháng sau vào tháng Giêng năm 1964, nhóm đảo chính quân sự bị lật đổbằng một nhóm tướng lĩnh mới do tướng Nguyễn Khánh (rất có thể do CIA xúigiục)”[15, tr.89]cầm đầu Sau chỉnh lý không lâu, CIA nhận ra rằng tướng Khánhkhông có khả năng huy động quân đội và quần chúng đoàn kết lại để ngăn chặnCộng sản, do đó CIA chuyển nỗ lực qua việc tuyển mộ và làm quen với các sĩ quanhay nhân viên dân sự cấp dưới - những người không tuyệt đối trung thành vớiKhánh để chuẩn bị thế hành động về sau Một trong những sĩ quan đó là Đại táKhông quân Nguyễn Cao Kỳ, vừa mới nhận chức Tư lệnh Không quân “CIA miêu
tả Kỳ là một sĩ quan thích “bề ngoài” nhưng có khả năng lôi cuốn quần chúng.Tháng 2-1964, Kỳ nói với Russ Miller - một nhân vật CIA đang ở thăm Sài Gònrằng các sĩ quan trẻ cần được giao các chức vụ chỉ huy xứng đáng, nếu không chế
độ của tướng Khánh cũng sẽ có cùng số phận như chế độ Dương Văn Minh”[43.a,tr.12]
Người khác là tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Tham mưu trưởng liên quân.Thiệu là người kín đáo, âm thầm bổ nhiệm các sĩ quan gốc Đại Việt vào các chức vụquan trọng và giải thích với David Smith rằng các sĩ quan này có kinh nghiệm vàkhả năng phá hủy tổ chức của Cộng sản Nhưng CIA biết rằng tướng Thiệu muốndùng các sĩ quan Đại Việt để âm mưu lật ông Khánh
Theo đánh giá của CIA, tướng Khánh thông minh, năng động và có tài tổ chức,nhưng ông không làm được việc gì vì một phần do không khí chia rẽ tại Sài Gòn,một phần vì “cái tôi” của ông quá lớn Trong bối cảnh đó, tướng Khánh - cũng nhưông Diệm và ông Minh - chỉ biết trông cậy vào sự ủng hộ của người Mỹ
“Ngày 13/9, một nhóm sĩ quan Công giáo miền Nam và Đại Việt cùng Chuẩntướng Nguyễn Văn Thiệu chuyển quân về Sài Gòn định đảo chính tướng Khánhnhưng bất thành do sự can thiệp của Tướng Kỳ - Tư lệnh Không quân Tướng
Trang 34Khánh nhân cơ hội này loại trừ các sĩ quan Đại Việt ra khỏi các chức vụ quantrọng”[43.a, tr.15]
“Để xoa dịu hội đồng tướng lĩnh, Khánh lập ra thượng hội đồng đặt dướiquyền chủ tọa của Phan Khắc Sửu, danh nghĩa là Quốc trưởng và chỉ định mộtngười khác thuộc phái dân sự là Trần Văn Hương - nguyên Đô trưởng Sài Gòn làmThủ tướng”[15, tr.89] Gần ba tháng sau, Hội đồng quân nhân lại cách chức Hương,Khánh trở lại cầm quyền
Ngày 3/2/1965, Kỳ nói với Miller rằng các tướng trẻ không còn ủng hộ Khánh
và đã đến lúc Khánh phải ra đi Ngày 5/2/1965, khi Cố vấn An ninh Quốc giaMcGeorge Bundy đến Sài Gòn chuẩn bị một đợt tăng quân thì Cộng sản cho đánhbom một căn cứ không quân Mỹ tại Pleiku làm 8 quân nhân thiệt mạng Mỹ trả đũabằng một đợt dội bom Bắc Việt Hai tuần sau, ngày 19/2, một cuộc đảo chính để lậtKhánh xảy ra nhưng không bắt được Khánh Vụ đảo chính này do các sĩ quan ĐạiViệt và Công giáo trong đó có tướng Lâm Văn Phát (giống như thành phần chủ chốtcuộc đảo chính tháng 9-1964) tiến hành Cuộc đảo chính bất thành vì không đượccác tướng trẻ ủng hộ Các tướng trẻ trong quân đội lợi dụng tình hình để cắt chứcKhánh buộc Khánh phải sông lưu vong ở nước ngoài
2.2.2 Quân sự
Ngày 1/1/1963, chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm sụp đổ Ngày 22/11,tại Mỹ, Tổng thống Gi Kennedy bị ám sát Phong trào cách mạng của nhân dân ta ởmiền Nam Việt Nam lại diễn ra trong bối cảnh mới Chỉ ít ngày sau khi lên làmTổng thống, L Giôn-xơn đã tập hợp xung quanh mình những cộng sự mang nặng tưtưởng thực dân, hiếu chiến, như Bộ trường ngoại giao Đ Ras-cơ, Chủ tịch hội đồngtham mưu trưởng liên quân, đại tướng Taylo, một quân nhân được mô tả là “nhàchiến lược số 1” của Mỹ, đại sứ Ca-bốt Lốt,
“Ngày 18/12/1963, Giôn-xơn cử Mc Namara sang miền Nam Việt Nam Sauchuyến đi này Mc Namara đã đưa ra một kết hoạch phát triển chiến tranh miền NamViệt Nam gồm 5 điểm”[8, tr.96]:
- Một là, thu hẹp bớt một số vị trí đóng quân của lực lượng vũ trang;
Trang 35- Hai là, tập trung quân để thành những đơn vị ứng chiến cơ động;
- Ba là, thực hiện chương trình bình định có trọng điểm;
- Bốn là, tăng cường các cuộc hành quân bình định với cường độ ác liệt hơn;
- Cuối cùng là, triệt để phát huy ưu thế của lực lượng quân dù trong các cuộchành quân càng quét
Kế hoạch Giôn-xơn - Mc Namara so với kế hoạch Xtalay - Taylo Nếu kếhoạch Xtalay - Taylo là một kế hoạch “tấn công chiến lược” thì kế hoạch Giôn-xơn
- Mc Namara chỉ là “phòng ngự chiến lược” biều hiện rõ nhất của nó là Mỹ vàchính quyền Sài Gòn buộc phải thu hẹp diện bình định, gom dân, lập ấp chiến lược.Theo kế hoạch này đích thực chương trình bình định có trọng điểm vào các tỉnhNam Bộ như Long An, Thủ Dầu Một, Gia Định, Tây Ninh, Mỹ Tho, Bến Tre vàvùng Đồng Tháp Mười
Cũng như nhiều quân nhân Mỹ khác, Mc Namara người được mệnh danh là
“bộ óc điện tử” của nước Mỹ với lòng kiêu hãnh đến hiếu thắng và tin vào sứcmạnh của đồng đô la cùng với những phương tiện chiến tranh tân kì, sẽ tìm kiếmđược chiến thắng Là Bộ trưởng quốc phòng của nhiệm kì Tổng thống nên nhiềungười Mỹ nói rằng chiến tranh ở Việt Nam là cuộc chiến tranh của Mc Namara
Kế hoạch của Mc Namara chưa kịp thực hiện thì quân đội Sài Gòn đã phảigánh chịu những hậu quả nặng nề Hàng nghìn quân địch đã bị tiêu diệt, do đó từngày 8 đến 12/3/1964, chính phủ Mỹ phải cử một phái đoàn quân sự cao cấp do McNamara cầm đầu gồm 15 người Ngày 17/3/1964, báo cáo của Mc Namara đượcTồng thống Giôn-xơn thông qua và trở thành Bị vong lục 288 về hành động an ninhquốc gia Thực chất đó là kế hoạch chiến tranh mới ở miền Nam Việt Nam mà tathường gọi là kế hoạch Giôn-xơn - Mc Namara với mật danh là AĐ8
Và Robert McNamara đã là người thực hiện chính sách leo thang này bằng cáccon số và các đồ thị từ văn phòng bộ trưởng ở Ngũ giác đài Ông McNamara tinrằng nước Mỹ sẽ thắng cuộc chiến Việt Nam và sẽ thắng một cách gọn nhẹ với sựđiều hành một cách khoa học của ông Ông tin như vậy và với sự hậu thuẫn của tậpđoàn tư bản Mỹ ông đã thuyết phục dễ dàng tổng thống Johnson và quốc hội
Trang 36Nhưng chiến tranh không phải chỉ thuần là khoa học và sự thiếu kinh nghiệmchiến lược của ông McNama đã làm cho Mỹ sa lầy Từ con số 400 quân nhân thuộclực lượng đặc biệt ông McNamara phái qua Việt Nam sau khi tổng thống Kennedynhậm chức, đến tháng 11/1963 khi ông Kennedy bị ám sát, quân số Mỹ tại ViệtNam lên 17.000 người”[54].
Vào năm 1965, khi Mỹ chuẩn bị oanh tạc liên tục miền Bắc Việt Nam, Mỹ có175.000 quân tại Việt Nam Tất cả đều do tài đạo diễn của ông McNamara Cũngtrong khoảng thời gian 1965 này ông McNamara bắt đầu nghi ngờ về chiến thắngtại Việt Nam và vào mùa thu năm 1966, sự nghi ngờ của ông không che dấu được aitrong giới thân cận
Tuy nhiên bên ngoài ông McNamara vẫn tỏ ra là “con diều hâu” của chiếntranh và thiết lập các kế hoạch tăng quân và tăng cường độ các cuộc oanh tạc miềnBắc Việt Nam Nói như John Hurley, một sĩ quan từng chiến đấu tại Việt Nam vàsau này trở thành một phụ tá thân cận của ứng cử viên Tổng thống John F Kerrynăm 2004 rằng: "Ông McNamara không hiểu chiến tranh là gì và cũng chẳng hiểucái giá sinh mạng của chiến tranh Đối với ông ấy Việt Nam chỉ là một con số khôkhan trên máy tính."
2.2.3 Xã hội
Chúng ta thấy năm 1962, Mỹ - Diễm đã cố gắng như thế nào và thất bại liểngxiểng như thế nào Đó là điều báo hiệu năm 1963, sẽ là năm thảm hại của chúng nó
“Cái “điểm” lớn của sự thảm hại đó xảy ra ngay bữa 2/1/1963, với hai trận lớn là
Ấp Bắc (Mỹ Tho) và trận Plây Mơ-rông (Plây Ku)”[17, tr.1068] Bước vào năm
1963, điều lo ngại đối với Tổng thống Ken là mùa khô còn những bốn, năm tháng.Trong khoảng 150 ngày ấy, biết bao chuyện sẽ diễn ra trên chiến trường Nam ViệtNam?
Năm 1963, tình hình quân sự diễn biến theo hướng đã được vạch ra bởi toàn
bộ chiến cuộc năm 1962, một thất bại lớn của Mỹ - Diệm, một năm phát triển mạnhcủa chiến tranh nhân dân Việt Nam
Trang 37Trong mấy ngày đầu năm ấy Tổng thống đang chuẩn bị bản tường trình về tìnhhình liên bang thì một tin không hay bay về Nhà trắng “Lần mò trên bản đồ tìmmãi mới thấy hai địa danh: Ấp Bắc và Plây Mơ-rông Đại sứ quán ở Sài Gòn có lí
do chậm gửi báo cáo về vì đây là vấn đề quân sự, vấn đề đánh đấm trên chiếntrường, nhưng tại sao M.A.C.V lại im hơi lặng tiếng? Trong khi đó thì báo chí thinhau đưa tin và bình luận sôi nỗi”[47, tr.227]
Sáu tháng đầu năm 1963, đẩy mạnh cuộc chiến tranh đặc biệt Mỹ đưa thêmsang Việt Nam 68 chiếc máy bay lên thẳng loại tối tân HU1B (loại máy bay này baynhanh hơn, vũ trang mạnh hơn, có vỏ bọc dày hơn, trọng tải nặng hơn, có thể ít bịtổn thất hơn các loại trước), 8 tàu chiến, 100 giang thuyền vũ trang, nhiều xe M.114(còn tân thời hơn M.113), tăng số quân Mỹ từ 12.000 lên 15.000, tăng số quânchính quy và bảo an của Diệm từ 360.000 lên 400.000 và tăng các lực lượng dân vệ,thanh niên chiến đấu ở các “ấp chiến lược”[17, tr.1069]
Các trận càn quết của địch cũng gia tăng thêm mạnh, thêm ác liệt Trong 6tháng đầu năm 1963, Mỹ - Diệm mở 10.407 trận càng quét, như vậy là số trận cànquét nữa năm đầu 1963, nhiều bằng cả năm 1962 Những trận càn quét ngày dàihơn, đánh miết một vùng, diễn ra nhiều hơn trước, khốc liệt hơn trước nhưng cũng
do đó mà thiệt hại của địch cũng nặng nề hơn Các báo Mỹ không giấu được điều
ấy, tờ Thời báo New York (15/8/1963) viết:
“Trong sáu tháng đầu năm 1963 này, số tổn thất về người của quân đội chínhphủ (Diệm) tăng lên khoảng 33% so với 6 tháng đầu năm ngoái, trong lúc đó thì tổnthất của Việt cộng lại giảm đi 30%, trong lúc đó số vũ khí của Việt cộng mất lạigiảm xuống 25%”[17, tr.1069]
Trong 6 tháng đầu năm 1963, Quân giải phóng và quân du kích bắn rơi và bắnhỏng tới 192 máy bay (tức hơn ⅓ toàn bộ máy bay vừa của Mỹ vừa của Nam ViệtNam) Nếu trong năm 1962, cứ tính trung bình mỗi tháng Mỹ - Diệm mở 20 - 25trận càn bằng “trực thăng vận” thì sang năm 1963, mỗi tháng chỉ mở 5 - 10 trậnđiều này chứng tỏ sự thất bại bước đầu nhưng nghiêm trọng của chiến thuật “trựcthăng vận”
Trang 38“Thiết xa vận” cũng bắt đầu thất bại, ta đã phá hủy và phá hỏng hơn 340 xequân sự, trong số đó có 63 chiếc thiết xa M.113 Càng về cuối năm 1963, ta càngthấy chiến thuật “thiết xa vận” không đem lại kết quả gì hơn “trực thăng vận”.Đám tướng lĩnh Mỹ - Diệm thất bại liên tiếp và nặng nề trong các cuộc cànquét, cho đến nổi chúng phải cải nhau kịch liệt xem là càn tohay càn nhỏ, càn dàihay ngắn, thứ càn nào có lợi, dùng trực thăng hay nhảy dù, đi xe, đi tàu hay đi bộ làhơn? Không có câu giải đáp nào hết, vì càn kiểu nào đi cách nào đều gặp chết chóc,thất bại cả Harkins và cả Taylor đều đau đầu.
Việc càn quét xem như là một quy luật của chiến tranh đặc biệt, như là mộtbiện pháp chủ yếu đề gom dân lập “ấp chiến lược”, đã bị nhân dân và Quân giảiphóng miền Nam chóng phá một cách hiệu quả
Đó chỉ là nói đến việc chúng đánh, ta đỡ và đánh lại; chúng càn, ta phá càn vàphục kích chưa bàn đến việc là chủ động tấn công địch “Trong vòng nữa năm,ngoài 10 ngàn trận chóng càn, có thêm 600 - 700 trận tấn công của quân và dânmiền Nam”[17, tr.1072] Tình thế khó khăn làm cho Mỹ - Diệm đang lúng túngcàng thêm lúng túng Cả hai đang chui đầu vào một “đường hầm không lối thoát”.Cuộc thí nghiệm chiến tranh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam của đế quốc Mỹ đangtrên đà bị phá sản
Năm 1963, mở đầu bằng trận Ấp Bắc mà Mỹ gọi là một trận “kinh hoàng”.Trận Ấp Bắc ngày 2/1/1963, làm cho cái xóm nhỏ của làng Tân Phú quận Cai Lậy,cách thị xã Mỹ Tho 15 cây số trở thành một cái tên lịch sử vang dội trong cả nước
và trên thế giới
“Người ta nói về Ấp Bắc, một cái ấp nhỏ vẻn vẹn 600 dân, thuộc xã Tân Phú,quận Cai Lậy, Tỉnh Mỹ Tho, cách thị xã Mĩ Tho chừng 15 cây số và cách đườngquốc lộ số 4 không đầy 6 cây số, phía sau Ấp Bắc là căn cứ Đồng Tháp Mười bátngát, mênh mông”[14, tr.5]
“Tướng Mỹ Rô-bớc Yớc dẫn 2.000 quân về đây, có đủ pháo binh, máy bay, tàuchiến, xe lội nước yểm trợ với ý định diệt vào trăm du kích trong ấp Trận đánh diễn
ra suốt ngày 2/1, kết quả trong số ¼ tổng số quân Mỹ và quân Sài Gòn bị giết, có 13
Trang 39sĩ quan Mĩ, kèm theo là 19 máy bay và xe bọc thép tan xác Thật là không hiểu,người ta đã bao lần tán dương chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận, bố lướiphóng đao, vậy mà”[47, tr.227].
Trong tháng 11/1962, Mỹ - Diệm đã nếm mùi thất bại ở Ấp Bắc trong một trậncàn quét nhỏ vào Tân Phú, trong đó cả một đại đội của chúng đã bị phục kích vàtiêu diệt ở ngay lối vào cái ấp nhỏ lèo tèo, trống trải này Trận thua đau thật quá bấtngờ, cho nên chúng vẫn cay cù tìm cách trả thù.“Ngày 30/12/1962, nghe tin một bộphận lực lượng tự vệ nhân dân vũ trang hành quân về Ấp Bắc, bộ chỉ huy xâm lượcHanskin liền quyết mở một cuộc tấn công ác liệt vào Ấp Bắc với hy vọng tiêu diệtlực lượng vũ trang nhân dân, trả thù trận thất bại trước đó, đồng thời thực hiện âmmưu cào nhà dồn dân, lập ấp chiến lược dọc quốc lộ số 4 nhằm lập vành đai trắngbao vây, lấn chiếm căn cứ Đồng Tháp Mười”[14, tr.5]
Sáu giờ sáng ngày 2/1/1963, Mỹ - Diệm cho một đại đội càn vào xóm ông Bồ.Vừa tới nơi chúng đã bị một đơn vị quân giải phóng chặn đánh: 40 tên chết trong đó
có 1 tên đại đội trưởng Số còn lại tháo chạy gọi cứu viện Quân và dân Ấp Bắc đãkiên cường đẩy lui nhiều cuộc hành quân tiếp viện của địch mặc dù chúng có hàngloạt vũ khí hiện đại như thiết giáp M.113, máy bay ném bom, 13 tàu chiến
14h30 phút chiều, địch được tiếp viện them một tiểu đoàn nữa do máy bay chởđến, chúng mở ngay đợt tấn công kéo dài đến 20 giờ tối, trong lúc đó thì đại bác củađịch không ngừng bắn vào Ấp Bắc nhưng vô hiệu Đợt tấn công cuối ngày cũng thấtbại hoàn toàn Tính từ sáng đến tối, hơn 1.000 quả đại bác đã rơi vào Ấp Bắc Tuyđịch ngừng tấn công, nhưng lại cố bao vây thật chặt để sáng hôm sau tìm cách tiêudiệt Quân giải phóng mà chúng xem như đã vào rọ rồi Thế nhưng ngay trong đêm,Quân giải phóng rút ra khỏi Ấp Bắc một cách an toàn; còn nhân dân Ấp Bắc thìcùng với nhân dân các xã kéo lên Quận Cai Lậy đấu tranh chính trị, phản đối việcném bom bắn phá xóm làng, đòi nhà cầm quyền phải ngăn chặn các cuộc khủng bố
để cho dân được yên ổn làm ăn”[17, tr.1073]
Cuối cùng bằng một lực lượng với khoảng 2.000 quân với đầy đủ máy bay,trọng pháo, tàu chiến, xe lội nước trợ lực, tấn công vào một ấp nhỏ vùng đồng bằng
mà Mỹ - Diệm không thể đánh bật được một lực lượng du kích ít hơn 10 lần
Từ khóa » Chiến Lược Toàn Cầu Của Mỹ La Gì
-
Mục Tiêu Chiến Lược Toàn Cầu Của Mĩ Là: - Đọc Tài Liệu
-
Chiến Lược Toàn Cầu Của Mỹ Là Gì? Mục Tiêu đặc điểm Tác động Của Nó
-
Nội Dung Chiến Lược Toàn Cầu Của Mĩ Từ Sau Chiến Tranh Thế Giới Thứ ...
-
Chiến Lược Toàn Cầu Của Mỹ Nhìn Từ Sự Kiện 11-9 - Tạp Chí Cộng Sản
-
Nước Mỹ đang định Hình Chiến Lược Toàn Cầu Mới?
-
CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA MĨ
-
Top 15 Chiến Lược Toàn Cầu Của Mỹ La Gì
-
[ĐÚNG] Mục Tiêu Chiến Lược Toàn Cầu Của Mĩ Là - Top Tài Liệu
-
Chính Sách Thực Lực Của Mĩ Là Gì? - Luật Hoàng Phi
-
Chiến Lược Toàn Cầu Của Mỹ Sau Chiến Tranh Thế Giới Thứ 2
-
Mục Tiêu Quan Trọng Nhất Của Mĩ Trong Chiến Lược Toàn Cầu Là
-
Nhìn Lại Sự điều Chỉnh Chiến Lược Toàn Cầu đáng Chú ý Gần đây Của Mỹ
-
Chiến Lược Xoay Trục Sang Châu Á - Thái Bình Dương Của Mỹ
-
Nhận Diện Một Số Xu Thế Trong Thế Giới Tác động đến Tư Duy Chiến ...