Chiến Tranh Afghanistan (2001–2021) – Wikipedia Tiếng Việt

Bước tới nội dung

Nội dung

chuyển sang thanh bên ẩn
  • Đầu
  • 1 Bối cảnh Hiện/ẩn mục Bối cảnh
    • 1.1 Nguồn gốc của cuộc nội chiến Afghanistan
    • 1.2 Sự cai trị của lãnh chúa (1992–1996)
    • 1.3 Taliban đối đầu với Liên minh phương Bắc
      • 1.3.1 Al-Qaeda
      • 1.3.2 Thay đổi chính sách của Hoa Kỳ đối với Afghanistan
      • 1.3.3 Vụ ám sát Massoud trước thềm 11/9
    • 1.4 Tấn công 11/9
    • 1.5 Tối hậu thư của Mỹ cho Taliban
  • 2 Tiến trình Hiện/ẩn mục Tiến trình
    • 2.1 Đầu cuộc chiến
    • 2.2 Chính phủ mới
    • 2.3 Taliban phản kháng
    • 2.4 Liên quân tại miền nam
    • 2.5 Liên quân công kích
    • 2.6 Taliban phản công năm 2021 và chiến thắng
  • 3 Trận chiến
  • 4 Chú thích
  • Bài viết
  • Thảo luận
Tiếng Việt
  • Đọc
  • Sửa đổi
  • Sửa mã nguồn
  • Xem lịch sử
Công cụ Công cụ chuyển sang thanh bên ẩn Tác vụ
  • Đọc
  • Sửa đổi
  • Sửa mã nguồn
  • Xem lịch sử
Chung
  • Các liên kết đến đây
  • Thay đổi liên quan
  • Trang đặc biệt
  • Thông tin trang
  • Trích dẫn trang này
  • Lấy URL ngắn gọn
  • Tải mã QR
In và xuất
  • Tạo một quyển sách
  • Tải dưới dạng PDF
  • Bản để in ra
Tại dự án khác
  • Wikimedia Commons
  • Khoản mục Wikidata
Giao diện chuyển sang thanh bên ẩn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến tranh tại Afghanistan
Một phần của Chiến tranh chống khủng bố, Xung đột Afghanistan (1978–nay)
Thời gian7 tháng 10 năm 2001 – 15 tháng 8 năm 2021(19 năm, 10 tháng, 1 tuần và 1 ngày)
Địa điểmAfghanistan
Kết quả

Thắng lợi của Taliban

  • Hoa Kỳ và đồng minh lật đổ Chính phủ Taliban và phá hủy các lều trại Al-Qaeda. Chính quyền Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan thân Mỹ được thành lập
  • Taliban rút về vùng nông thôn, bắt đầu chiến tranh du kích chống Mỹ
  • Lực lượng Hỗ trợ An ninh Quốc tế thành lập
  • Hoa Kỳ đàm phán với Taliban và rút quân năm 2021.
  • Taliban tổng phản công, lật đổ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, tái kiểm soát Afghanistan và tái thành lập Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan
  • Sự thành lập của kháng quân Panjshir từ những người chống Taliban và bắt đầu xung đột Panjshir.
Tham chiến

Afghanistan Liên minh phương Bắc (2001)  Afghanistan (2002–2004)  Afghanistan (2004–2021)

ISAF (2001–2015)
  •  Albania
  •  Armenia
  •  Áo
  • Azerbaijan Azerbaijan
  • Bahrain Bahrain
  • Bỉ Bỉ
  • Bosna và Hercegovina Bosnia và Herzegovina
  • Bulgaria Bulgaria
  • Croatia Croatia
  • Cộng hòa Séc Cộng hòa Séc
  • Đan Mạch Đan Mạch
  • El Salvador El Salvador
  • Estonia Estonia
  • Phần Lan Phần Lan
  • Hy Lạp Hy Lạp
  • Hungary Hungary
  • Iceland Iceland
  • Cộng hòa Ireland Ireland
  • Jordan Jordan
  • Hàn Quốc Hàn Quốc
  • Latvia Latvia
  • Litva Litva
  • Luxembourg Luxembourg
  • Malaysia Malaysia
  • Mông Cổ Mông Cổ
  • Montenegro Montenegro
  • Hà Lan Hà Lan
  • New Zealand New Zealand
  • Na Uy Na Uy
  • Bồ Đào Nha Bồ Đào Nha
  • Singapore Singapore (2008–2013)
  • Slovakia Slovakia
  • Slovenia Slovenia
  • Tây Ban Nha Tây Ban Nha
  • Thụy Sĩ Thụy Sĩ (2004–2008)
  • Thụy Điển Thụy Điển
  • Cộng hòa Macedonia Bắc Macedonia
  • Tonga Tonga
  • Ukraina Ukraina
  • Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
  • Hoa Kỳ Hoa Kỳ
  • Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
  • Đức Đức
  • Ý Ý
  • Pháp Pháp
  • Canada Canada
  • Úc Úc
  • Gruzia Gruzia
  • Ba Lan Ba Lan
  • România România
  • Thổ Nhĩ Kỳ Thổ Nhĩ Kỳ
  • Afghanistan Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan (2001, 2021)
    • Afghanistan Taliban (2001–2021)
  • Al-Qaeda
  • Mạng lưới Haqqani
  • Mujahideen
  • Hezb-e-Islami Gulbuddin

Giai đoạn RS (2015–2021): ISIL-KP[1]

  • IMU[2]
Chỉ huy và lãnh đạo

Afghanistan Amrullah Saleh Hoa Kỳ Joe Biden Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Boris Johnson Hoa Kỳ Donald Trump (2016-2021) Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Theresa May (2016-2019) Afghanistan Ashraf Ghani (2014-2021) Hoa Kỳ Barack Obama (2008-2016) Hoa Kỳ George W. Bush (2001-2004) Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland David Cameron Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Gordon Brown Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Tony Blair

Afghanistan Hamid Karzai (2001-2014)

Afghanistan Mohammed Omar Ayman al-Zawahiri

Osama bin Laden 
Shahab al-Muhajir [10] Hafiz Saeed Khan  Mawlavi Habib Ur Rahman[11] Abdul Haseeb Logari  Abdul Rahman Ghaleb  Abu Saad Erhabi  Abdullah Orokzai  (POW) Qari Hekmat  Mufti Nemat Đầu hàng Dawood Ahmad Sofi  Mohamed Zahran  Ishfaq Ahmed Sofi 
Lực lượng

ISAF: 87.207[3]

Afghanistan Afghanistan: 380.586[4]

Afghanistan Taliban: 25.000

Al-Qaeda: 50-100[5][6] Mạng lưới Haqqani: 4.000-15.000[7][8]
Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant ISIL–KP: 3,500–4,000 (2018, tại Afghanistan)[9]
Thương vong và tổn thất

Lực lượng an ninh tại Afghanistan: 67.558-70,558+ bị giếtLiên minh phía Bắc:200 bị giết[12][13][14]Liên minh:1908 bị giết(Mỹ: 2,420, Anh: 456,Canada: 189, Pháp: 89, Đức:62, Ý: 53, Những nước khác: 337)[15]22,773+ bị thương

(Mỹ: 6.773,[16] Anh: 3,954,[17] Canada: +1,500,[18] Others: +2.500)Nhà thầu:3.937 Bị giết 15.000+ Bị thương trong hành động[19]Tổng số: 73,295+ bị giết, Không rõ bị thương
52,893+ bị giếtBị bắt giam: 1.000+[20] ISIL-KP: 2,400+ Bị giết[1]
Thương vong thường dân9.269+ | 46,319(con số ước lượng thấp và cao)
  • x
  • t
  • s
Nội chiến Afghanistan
Cách mạng Saur (1978) –Cuộc nổi dậy Herat (1979) –Cuộc nổi dậy Chindawol (1979) –Cuộc nổi dậy Bala Lifts (1979) –Liên Xô tham chiến (1979–1989) –Nội chiến (1989–1992) –Vô chính phủ (1992-1996) –Taliban nắm quyền kiểm soát (1996-2001) –NATO tham chiến (2001–2021) –Nhà nước Hồi giáo chống lại Taliban (2015–nay) –Xung đột ở Panjshir (2021–nay)

Chiến tranh Afghanistan là một cuộc chiến tranh diễn ra sau khi Hoa Kỳ xâm lược Afghanistan[21] và sau khi Hoa Kỳ và các đồng minh đã hạ bệ thành công Taliban từ vị trí nắm quyền lực để không cho al-Qaeda có cơ sở hoạt động an toàn ở Afghanistan.[22][23] Sau khi hoàn thành các mục tiêu ban đầu, một liên minh gồm hơn 40 quốc gia (bao gồm tất cả các thành viên NATO) đã thành lập một phái bộ an ninh tại quốc gia này với tên gọi Lực lượng Hỗ trợ An ninh Quốc tế (ISAF, được kế nhiệm bởi Resolute Support Mission (RS) vào năm 2014) trong đó có một số thành viên đã tham gia vào chiến đấu quân sự liên minh với chính phủ Afghanistan.[24] Cuộc chiến chủ yếu bao gồm quá trình nổi dậy của Taliban[25] chống lại Lực lượng vũ trang Afghanistan và các lực lượng đồng minh; phần lớn binh lính và nhân viên ISAF / RS là người Mỹ.[24] Cuộc chiến được Mỹ đặt tên mã là Chiến dịch Tự do Bền vững (2001–14) và Chiến dịch Tự do Sentinel (2015 – 2021).[26][27]

Sau các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, George W. Bush yêu cầu Taliban, khi đó là lực lượng thực tế đang cai trị Afghanistan khi đó, phải giao nộp Osama bin Laden.[28] Việc Taliban từ chối dẫn độ bin Laden[29] đã dẫn đến Chiến dịch Tự do Bền vững;[30] Taliban và các đồng minh Al-Qaeda hầu hết đã bị các lực lượng do Hoa Kỳ lãnh đạo và Liên minh phương Bắc đã chiến đấu chống lại Taliban từ năm 1996 đánh bại trong nước Afghanistan. Tại Hội nghị Bonn, các chính quyền lâm thời mới của Afghanistan (hầu hết thuộc Liên minh phương Bắc) đã bầu Hamid Karzai làm người đứng đầu Chính quyền lâm thời Afghanistan. Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã thành lập ISAF để hỗ trợ chính quyền mới trong việc đảm bảo an ninh cho Kabul. Một nỗ lực tái thiết trên toàn quốc cũng đã được thực hiện sau khi chế độ Taliban kết thúc.[31][32][33]

Sau khi thất bại trong cuộc tấn công của Mỹ và đồng minh, Taliban được Mullah Omar tổ chức lại và phát động một cuộc nổi dậy chống lại chính phủ Afghanistan vào năm 2003.[34][35] Các phần tử nổi dậy của Taliban và các nhóm khác đã tiến hành chiến tranh phi đối xứng với các cuộc đột kích và phục kích của du kích ở vùng nông thôn, các cuộc tấn công liều chết nhằm vào các mục tiêu đô thị và giết người mặc áo khoác nhằm chống lại liên quân. Taliban đã khai thác những điểm yếu trong chính phủ Afghanistan để khẳng định lại ảnh hưởng trên khắp các vùng nông thôn ở miền nam và miền đông Afghanistan. Từ năm 2006, Taliban đã đạt được nhiều lợi ích hơn nữa và cho thấy sự sẵn sàng tăng cường thực hiện các hành động tàn bạo đối với dân thường - ISAF đã đáp trả bằng cách tăng quân cho các hoạt động chống nổi dậy nhằm "giải tỏa và giữ " các ngôi làng.[36][37] Bạo lực leo thang từ năm 2007 đến năm 2009.[38] Quân số bắt đầu tăng vào năm 2009 và tiếp tục tăng đến năm 2011 khi có khoảng 140.000 binh sĩ nước ngoài hoạt động dưới sự chỉ huy của ISAF và Mỹ ở Afghanistan.[39]

Các nhà lãnh đạo NATO vào năm 2012 đã bắt đầu chiến lược rút lui lực lượng của họ[40] và sau đó Hoa Kỳ tuyên bố rằng các hoạt động tác chiến lớn của họ sẽ kết thúc vào tháng 12 năm 2014, để lại một lực lượng còn sót lại trong nước.[41] Vào ngày 28 tháng 12 năm 2014, NATO chính thức chấm dứt các hoạt động chiến đấu của ISAF tại Afghanistan và chính thức chuyển giao toàn bộ trách nhiệm an ninh cho chính phủ Afghanistan. Operation Resolute Support do NATO dẫn đầu được thành lập cùng ngày với tư cách là tổ chức kế nhiệm của ISAF.[42][43] Vào ngày 29 tháng 2 năm 2020, Hoa Kỳ và Taliban đã ký một thỏa thuận hòa bình có điều kiện tại Doha[44], trong đó yêu cầu quân đội Mỹ rút khỏi Afghanistan trong vòng 14 tháng miễn là Taliban hợp tác với các điều khoản của thỏa thuận này.[45] Ngoài ra, các phần tử nổi dậy thuộc al-Qaeda ở Tiểu lục địa Ấn Độ và ISIL-K tiếp tục được hoạt động ở các vùng của Afghanistan.[46]

Theo dự án Chi phí chiến tranh tại Đại học Brown, tính đến tháng 4 năm 2021, cuộc chiến này đã giết chết 171.000 đến 174.000 người ở Afghanistan; 47.245 thường dân Afghanistan, 66.000 đến 69.000 quân đội và cảnh sát Afghanistan và ít nhất 51.000 chiến binh đối lập. Tuy nhiên, số người chết có thể cao hơn do "bệnh tật, mất khả năng tiếp cận thực phẩm, nước, cơ sở hạ tầng và / hoặc các hậu quả gián tiếp khác của chiến tranh".[47] Theo LHQ, kể từ Cuộc xâm lược năm 2001, hơn 5,7 hàng triệu người tị nạn cũ đã trở lại Afghanistan,[48] tuy nhiên, tính đến năm 2021, 2,6 triệu người Afghanistan vẫn tị nạn hoặc đã chạy trốn,[49] chủ yếu ở Pakistan và Iran, và 4 triệu người Afghanistan khác vẫn là những người phải di cư trong nước. Kể từ năm 2001, Afghanistan đã có những cải thiện về y tế, giáo dục và quyền của phụ nữ.[50][51].

Đến năm 2021, sau 20 năm Hoa Kỳ phát động chiến tranh xâm lược Afghanistan, sau một loạt các cuộc tấn công dồn dập, đến ngày 15 tháng 8 năm 2021, các lực lượng Taliban đã tiến vào thủ đô Kabul từ mọi hướng, máy bay quân sự Mỹ đã đáp xuống Đại sứ quán Mỹ ở thủ đô Kabul để sơ tán các nhân sự của Mỹ và những người cộng tác đang khẩn trương tiêu hủy tài liệu, cũng được một số nhà bình luận so sánh với khoảnh khắc Sự sụp đổ của Sài Gòn (Fall of Saigon) trong Chiến tranh Việt Nam[52][53][54]

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc của cuộc nội chiến Afghanistan

[sửa | sửa mã nguồn]
Tổng thống Reagan gặp gỡ các nhà lãnh đạo Mujahideen Afghanistan tại Phòng Bầu dục năm 1983
Quân đội Liên Xô năm 1986, trong Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan

Ổn định chính trị của Afghanistan bắt đầu bị phá vỡ vào những năm 1970. Đầu tiên, Mohammed Daoud Khan lên nắm quyền trong cuộc đảo chính Afghanistan năm 1973. Daoud Khan sau đó bị giết trong Cách mạng Saur 1978, một cuộc đảo chính trong đó Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan (PDPA) nắm quyền kiểm soát chính phủ.[55] PDPA đã thúc đẩy một quá trình chuyển đổi xã hội chủ nghĩa bằng cách xóa bỏ hôn nhân sắp đặt, thúc đẩy dân chúng biết chữ và cải cách quyền sở hữu đất đai. Điều này làm suy yếu trật tự bộ lạc truyền thống và gây ra sự phản đối ở các vùng nông thôn. Cuộc đàn áp của PDPA đã vấp phải cuộc nổi dậy mở bao gồm cả cuộc nổi dậy năm 1979 của Herat. PDPA trở nên căng thẳng do sự khác biệt về lãnh đạo nội bộ và bị ảnh hưởng bởi cuộc đảo chính nội bộ vào ngày 11 tháng 9 năm 1979 khi Hafizullah Amin lật đổ Nur Muhammad Taraki. Liên Xô nhận thấy sự yếu kém của PDPA và đã can thiệp quân sự ba tháng sau đó, để hạ bệ Amin và thiết lập một phe PDPA khác do Babrak Karmal đứng đầu lên làm lãnh đạo.

Sự tham gia của lực lượng Liên Xô tại Afghanistan vào tháng 12 năm 1979 đã thúc đẩy các đối thủ trong Chiến tranh Lạnh là Hoa Kỳ, Pakistan, Ả Rập Xê-út và Trung Quốc hỗ trợ quân nổi dậy chiến đấu chống lại Cộng hòa Dân chủ Afghanistan do Liên Xô hậu thuẫn. Trái ngược với chính phủ thế tục và xã hội chủ nghĩa, vốn kiểm soát các thành phố, mujahideen có động cơ tôn giáo đã lan rộng ở phần lớn các vùng nông thôn. CIA đã làm việc với Cơ quan Tình báo Liên ngành của Pakistan để hỗ trợ nước ngoài cho mujahideen. Cuộc chiến cũng thu hút các tình nguyện viên Ả Rập được gọi là " người Ả Rập Afghanistan ", bao gồm cả Osama bin Laden.

Sau khi quân đội Liên Xô rút khỏi Afghanistan vào tháng 5 năm 1989, chế độ PDPA dưới thời Mohammad Najibullah được duy trì cho đến năm 1992 khi Liên Xô bị giải thể và từ bỏ chế độ viện trợ cho nước này, và sự đào tẩu của tướng Uzbekistan Abdul Rashid Dostum đã mở đường tới Kabul. Afghanistan bước vào giai đoạn chính trị không còn những người theo chủ nghĩa xã hội, mà chỉ có các lãnh chúa, một số trong số họ là người Hồi giáo, tranh giành quyền lực với nhau.

Sự cai trị của lãnh chúa (1992–1996)

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1992, chỉ huy Mujahideen Burhanuddin Rabbani chính thức trở thành tổng thống của Nhà nước Hồi giáo Afghanistan nhưng ông phải chiến đấu với các lãnh chúa khác để giành quyền kiểm soát Kabul. Cuối năm 1994, bộ trưởng quốc phòng của Rabbani, Ahmad Shah Massoud, đã đánh bại Hekmatyar ở Kabul và chấm dứt cuộc bắn phá đang diễn ra vào thủ đô.[56][57][58] Massoud đã cố gắng khởi động một quá trình chính trị trên toàn quốc với mục tiêu củng cố quốc gia.  Các lãnh chúa khác bao gồm Ismail Khan ở phía tây và Dostum ở phía bắc duy trì các vùng đất của họ.

Năm 1994, Mohammed Omar, một thành viên Mujahideen từng giảng dạy tại một madrassa ở Pakistan, trở về Kandahar và thành lập phong trào Taliban. Những người theo ông là những sinh viên tôn giáo được gọi là Talib và họ đã tìm cách chấm dứt chủ nghĩa lãnh chúa thông qua việc tuân thủ luật Sharia nghiêm ngặt hơn. Đến tháng 11 năm 1994, Taliban đã chiếm được toàn bộ tỉnh Kandahar. Họ từ chối lời đề nghị của chính phủ về việc tham gia vào một chính phủ liên minh và đánh đến Kabul vào năm 1995.[59]

Taliban đối đầu với Liên minh phương Bắc

[sửa | sửa mã nguồn]

Những chiến thắng ban đầu của Taliban vào năm 1994 sau đó là một loạt các thất bại đắt giá.[60] Pakistan "hỗ trợ đắc lực" cho Taliban.[61][62] Các nhà phân tích như Amin Saikal mô tả nhóm này đang phát triển thành một lực lượng ủy nhiệm cho các lợi ích khu vực của Pakistan mà Taliban phủ nhận.[61] Taliban bắt đầu pháo kích vào Kabul vào đầu năm 1995, nhưng đã bị Massoud đẩy lùi.[57][63]

Ngày 27 tháng 9 năm 1996, Taliban, với sự hỗ trợ quân sự của Pakistan và hỗ trợ tài chính từ Ả Rập Xê Út, đã chiếm Kabul và thành lập Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan. [64] Họ áp đặt cách giải thích theo chủ nghĩa chính thống Hồi giáo trong các khu vực do họ kiểm soát, ban hành các sắc lệnh cấm phụ nữ làm việc bên ngoài gia đình, đi học hoặc rời khỏi nhà trừ khi có họ hàng nam giới đi cùng.[65] Theo chuyên gia người Pakistan Ahmed Rashid, "từ năm 1994 đến 1999, ước tính có khoảng 80.000 đến 100.000 người Pakistan được đào tạo và chiến đấu ở Afghanistan" theo phe Taliban.[66][67]

Massoud và Dostum, những kẻ thù không đội trời chung một thời, đã tạo ra một Mặt trận thống nhất chống lại Taliban, Liên minh phương Bắc.[68] Ngoài lực lượng Tajik của Massoud và người Uzbek của Dostum, Mặt trận Thống nhất bao gồm các phe phái Hazara và lực lượng Pashtun dưới sự lãnh đạo của các chỉ huy như Abdul Haq và Haji Abdul Qadir. Abdul Haq cũng tập hợp một số người đào tẩu Pashtun Taliban.[69] Cả hai đồng ý làm việc cùng với vua Afghanistan lưu vong Zahir Shah.[67] Liên minh phương Bắc nhận được sự hỗ trợ ở các mức độ khác nhau từ Nga, Iran, Tajikistan và Ấn Độ. Taliban bắt Mazar-i-Sharif vào năm 1998 và đuổi Dostum phải đi lưu vong.

Theo Liên Hợp Quốc (LHQ), Taliban, trong khi cố gắng củng cố quyền kiểm soát đối với miền bắc và miền tây Afghanistan, đã thực hiện các vụ thảm sát có hệ thống nhằm vào dân thường. Các quan chức Liên Hợp Quốc tuyên bố rằng đã có "15 vụ thảm sát" từ năm 1996 đến năm 2001. Taliban đặc biệt nhắm vào người Shia Hazara.[70][71] Để trả đũa việc hành quyết 3.000 tù nhân Taliban của tướng Uzbekistan Abdul Malik Pahlawan vào năm 1997, Taliban đã hành quyết khoảng 4.000 thường dân sau khi chiếm Mazar-i-Sharif vào năm 1998.[72][73]

Lữ đoàn 055 của Bin Laden chịu trách nhiệm về các vụ giết người hàng loạt thường dân Afghanistan.[74] Báo cáo của Liên Hợp Quốc trích lời nhân chứng tại một số ngôi làng mô tả "các chiến binh Ả Rập mang theo những con dao dài dùng để rạch cổ họng và lột da người".[70][71]

Đến năm 2001, Taliban kiểm soát tới 90% Afghanistan trong khi Liên minh phương Bắc chỉ giới hạn ở góc đông bắc của đất nước này. Chiến đấu cùng với lực lượng Taliban là khoảng 28.000–30.000 người Pakistan (thường cũng là người Pashtun) và 2.000–3.000 chiến binh Al-Qaeda.[59][74] [75] [76] Nhiều người Pakistan được tuyển mộ từ madrassas.[74] Một tài liệu năm 1998 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ xác nhận rằng "20–40 phần trăm binh lính Taliban [chính quy] là người Pakistan." Tài liệu cho biết một số phụ huynh của những công dân Pakistan này "không biết gì về việc con họ tham gia chiến đấu cho Taliban cho đến khi thi thể của họ được đưa về Pakistan". Theo báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và báo cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, các công dân Pakistan khác đang chiến đấu ở Afghanistan là những binh sĩ chính quy, đặc biệt là từ Quân đoàn Biên phòng nhưng cũng có người từ Quân đội Pakistan hỗ trợ chiến đấu trực tiếp.[62][77]

Al-Qaeda

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 8/1996, Bin Laden buộc phải rời Sudan và đến Jalalabad, Afghanistan. Ông đã thành lập mạng lưới Al-Qaeda quốc tế vào cuối những năm 1980 để hỗ trợ cuộc chiến của Mujahideen chống lại Liên Xô nhưng trở nên vỡ mộng vì đấu đá nội bộ giữa các lãnh chúa. Bin Laden trở nên thân thiết với Mullah Omar và chuyển các hoạt động của Al-Qaeda đến miền đông Afghanistan, một nơi trú ẩn an toàn vì ông được Taliban bảo vệ ở đó.

Ủy ban 11/9 ở Mỹ phát hiện ra rằng dưới thời Taliban, al-Qaeda có thể sử dụng Afghanistan làm nơi đào tạo và tuyên truyền cho các chiến binh, nhập khẩu vũ khí, phối hợp với các chiến binh thánh chiến khác và âm mưu các hành động khủng bố. [78] Trong khi al-Qaeda duy trì các trại riêng của mình ở Afghanistan, nó cũng hỗ trợ các trại huấn luyện của các tổ chức khác. Ước tính có khoảng 10.000 đến 20.000 người đã được huấn luyện tại các cơ sở này trước ngày 11/9, hầu hết trong số họ được cử đi chiến đấu cho Taliban chống lại Mặt trận Thống nhất. Một số ít hơn đã được giới thiệu vào al-Qaeda. [79]

Sau vụ đánh bom đại sứ quán Hoa Kỳ vào tháng 8 năm 1998 có liên quan đến bin Laden, Tổng thống Bill Clinton đã ra lệnh tấn công tên lửa vào các trại huấn luyện chiến binh ở Afghanistan. Các quan chức Mỹ thúc ép Taliban đầu hàng bin Laden. Năm 1999, cộng đồng quốc tế áp đặt các lệnh trừng phạt đối với Taliban, kêu gọi giao nộp bin Laden. Taliban liên tục bác bỏ những yêu cầu này.

Các đội bán quân sự của Bộ phận hoạt động đặc biệt của Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã hoạt động ở Afghanistan vào những năm 1990 trong các hoạt động bí mật nhằm xác định vị trí và tiêu diệt hoặc bắt giữ Osama bin Laden. Các toán này đã lên kế hoạch cho một số hoạt động nhưng không nhận được lệnh tiến hành từ Tổng thống Clinton. Những nỗ lực của họ đã xây dựng mối quan hệ với các nhà lãnh đạo Afghanistan đã được chứng minh là cần thiết trong cuộc xâm lược năm 2001.[80]

Thay đổi chính sách của Hoa Kỳ đối với Afghanistan

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chính quyền Clinton, Hoa Kỳ có xu hướng ủng hộ Pakistan và cho đến năm 1998–1999 không có chính sách rõ ràng nào đối với Afghanistan. Ví dụ, vào năm 1997, Robin Raphel của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã yêu cầu Massoud đầu hàng Taliban. Massoud trả lời rằng, miễn là ông có kiểm soát một khu vực có kích thước bằng chiếc mũ của mình, ông sẽ tiếp tục bảo vệ nó chống lại Taliban.[59] Cùng lúc đó, các quan chức chính sách đối ngoại hàng đầu trong chính quyền Clinton đã bay đến miền bắc Afghanistan để cố gắng thuyết phục Mặt trận Thống nhất không tận dụng cơ hội để đạt được những lợi ích quan trọng chống lại Taliban. Họ khẳng định đã đến lúc ngừng bắn và cấm vận vũ khí. Vào thời điểm đó, Pakistan đã bắt đầu một " cuộc không vận giống như Berlin để tiếp tế và tái trang bị cho Taliban", được tài trợ bằng tiền của Ả Rập Xê-út.[81]

Chính sách của Mỹ đối với Afghanistan đã thay đổi sau vụ đánh bom đại sứ quán Mỹ năm 1998. Sau đó, Osama bin Laden bị truy tố vì liên quan đến vụ đánh bom đại sứ quán. Năm 1999, cả Mỹ và Liên Hợp Quốc đều ban hành các lệnh trừng phạt chống lại Taliban thông qua Nghị quyết 1267 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong đó yêu cầu Taliban đầu hàng Osama bin Laden để xét xử tại Mỹ và đóng cửa tất cả các căn cứ khủng bố ở Afghanistan.[82] Sự hợp tác duy nhất giữa Massoud và Mỹ vào thời điểm đó là nỗ lực với CIA để truy tìm bin Laden sau vụ đánh bom năm 1998. [83] Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu không hỗ trợ Massoud trong cuộc chiến chống Taliban.

Đến năm 2001, các sĩ quan CIA biết về Massoud đã thay đổi chính sách về Afghanistan. [84] Luật sư của CIA, làm việc với các sĩ quan thuộc Phòng Cận Đông và Trung tâm Chống khủng bố, bắt đầu soạn thảo một phát hiện chính thức về chữ ký của Tổng thống George W. Bush, cho phép một chương trình hành động bí mật ở Afghanistan. Đây sẽ là lần đầu tiên trong một thập kỷ Hoa Kỳ tìm cách tác động đến tiến trình chiến tranh Afghanistan mà ủng hộ Massoud. [64] Richard A. Clarke, chủ tịch Nhóm An ninh Chống Khủng bố dưới thời chính quyền Clinton, và sau đó là một quan chức trong Chính quyền Bush, được cho là đã trình bày một kế hoạch với Cố vấn An ninh Quốc gia của Bush là Condoleezza Rice vào tháng 1 năm 2001.

Sự thay đổi trong chính sách của Hoa Kỳ đã được thực hiện vào tháng 8 năm 2001. [64] Chính quyền Bush đồng ý về một kế hoạch bắt đầu hỗ trợ Massoud. Một cuộc họp của các quan chức an ninh quốc gia hàng đầu đã nhất trí rằng sẽ đưa ra tối hậu thư cho Taliban để giao nộp bin Laden và các thành viên al-Qaeda khác. Nếu Taliban từ chối, Mỹ sẽ cung cấp viện trợ quân sự bí mật cho các nhóm chống Taliban. Nếu cả hai lựa chọn đó đều thất bại, "các đại biểu nhất trí rằng Hoa Kỳ sẽ tìm cách lật đổ chế độ Taliban thông qua hành động trực tiếp hơn."[85]

Vụ ám sát Massoud trước thềm 11/9

[sửa | sửa mã nguồn]

Ahmad Shah Massoud là lãnh đạo duy nhất của Mặt trận Thống nhất (Liên minh phương Bắc) ở Afghanistan vào năm 2001. Trong các khu vực dưới quyền kiểm soát của mình, Massoud thiết lập các thể chế dân chủ và ký Tuyên bố về Quyền của Phụ nữ.[86] Kết quả là, một số thường dân đã chạy trốn đến các khu vực do ông kiểm soát.[87][88] Tổng cộng, ước tính có khoảng một triệu người chạy trốn khỏi Taliban.[89]

Cuối năm 2000, Massoud mời một số thủ lĩnh bộ lạc Afghanistan khác đến một jirga ở miền bắc Afghanistan "để giải quyết tình trạng hỗn loạn chính trị ở Afghanistan".[90] Trong số những người tham dự có những người theo chủ nghĩa dân tộc Pashtun, Abdul Haq và Hamid Karzai.[91][92]

Đầu năm 2001, Massoud và một số nhà lãnh đạo Afghanistan khác đã phát biểu trước Nghị viện Châu Âu tại Brussels, yêu cầu cộng đồng quốc tế giúp đỡ nhân đạo. Đặc phái viên Afghanistan khẳng định rằng Taliban và al-Qaeda đã đưa ra "một nhận thức rất sai lầm về Hồi giáo" và rằng nếu không có sự hỗ trợ của Pakistan và Osama bin Laden, Taliban sẽ không thể duy trì chiến dịch quân sự của họ trong một năm nữa. Massoud cảnh báo rằng tình báo của ông đã thu thập thông tin về một cuộc tấn công quy mô lớn sắp xảy ra trên đất Mỹ.[93]

Vào ngày 9 tháng 9 năm 2001, hai người Algeria nói tiếng Pháp đóng giả làm nhà báo đã giết chết Massoud trong một vụ tấn công liều chết ở tỉnh Takhar của Afghanistan. Hai thủ phạm sau đó được cho là thành viên của al-Qaeda. Họ đang phỏng vấn Massoud trước khi cho nổ một quả bom được giấu trong máy quay video.[94][95] Cả hai người được cho là al-Qaeda này sau đó đều bị lính canh của Massoud giết chết. Massoud qua đời trên đường trực thăng tới bệnh viện bên kia biên giới ở Tajikistan.[96] Đám tang của ông tại Thung lũng Panjshir, quê hương của ông đã có hàng nghìn người tham dự.[97]

Tấn công 11/9

[sửa | sửa mã nguồn]
Ground Zero ở New York sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001

Vào sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, tổng cộng 19 người đàn ông Ả Rập - 15 người trong số họ đến từ Ả Rập Xê Út - đã thực hiện bốn cuộc tấn công phối hợp tại Hoa Kỳ. Bốn máy bay phản lực chở khách thương mại đã bị cướp.[98][99] Những kẻ không tặc - thành viên của phòng Hamburg[100] - đã cố tình đâm hai chiếc máy bay vào Tháp Đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới ở Thành phố New York, giết chết tất cả mọi người trên khoang và hơn 2.000 người trong các tòa nhà. Cả hai tòa nhà đều sụp đổ trong vòng hai giờ do thiệt hại liên quan đến vụ va chạm, phá hủy các tòa nhà gần đó và làm hư hại những tòa nhà khác. Những kẻ không tặc đã đâm chiếc máy bay thứ ba vào Lầu Năm Góc ở Arlington, Virginia, ngay bên ngoài Washington, DC Chiếc máy bay thứ tư đã lao xuống cánh đồng gần Shanksville, ở vùng nông thôn Pennsylvania, sau khi một số hành khách và phi hành đoàn cố gắng giành lại quyền kiểm soát chiếc máy bay. những kẻ không tặc đã chuyển hướng về phía Washington, DC, nhằm vào Nhà Trắng, hoặc Điện Capitol của Hoa Kỳ. Không ai trên các chuyến bay sống sót. Theo Sở Y tế Bang New York, số người chết trong số những người ứng cứu bao gồm cả lính cứu hỏa và cảnh sát là 836 người tính đến tháng 6 năm 2009.[101] Tổng số người chết là 2.996 người, bao gồm cả 19 tên không tặc.[101]

Tối hậu thư của Mỹ cho Taliban

[sửa | sửa mã nguồn]

Taliban công khai lên án vụ tấn công ngày 11/9.[102] Tổng thống Mỹ George W. Bush đã ra tối hậu thư cho Taliban để giao nộp Osama bin Laden, "đóng cửa ngay lập tức mọi trại huấn luyện khủng bố, giao nộp mọi tên khủng bố và những kẻ ủng hộ chúng, đồng thời cho Hoa Kỳ toàn quyền tiếp cận các trại huấn luyện khủng bố để kiểm tra."[102] Taliban từ chối, nói rằng Osama bin Laden được luật hiếu khách truyền thống của người Pashtun bảo vệ.[103][104][105][106]

Sau cuộc xâm lược của Mỹ, Taliban từ chối giao nộp Bin Laden cho Mỹ, thay vào đó bày tỏ sẵn sàng giao nộp Bin Laden cho một nước thứ ba mà sẽ "không bao giờ chịu áp lực của Mỹ" nếu có thêm bằng chứng tội ác. Hoa Kỳ đáp trả bằng cách tiếp tục bắn phá sân bay Kabul và các thành phố khác. Về phần mình, Al Qaeda đe dọa sẽ tấn công thêm vào Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.[107][108] Haji Abdul Kabir, nhân vật quyền lực thứ ba trong chế độ Taliban cầm quyền, nói với các phóng viên: "Nếu Taliban được cung cấp bằng chứng cho thấy Osama bin Laden có liên quan, chúng tôi sẽ sẵn sàng giao hắn cho nước thứ ba."[108]

Tiến trình

[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu cuộc chiến

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 7 tháng 10 năm 2001, sau khi Taliban nhiều lần thách thức từ chối giao nộp bin Laden, Hoa Kỳ và các đồng minh bắt đầu oanh kích ban ngày từ trên không, chống lại các cơ sở quân sự và các doanh trại huấn luyện quân khủng bố Afghanistan. Năm tuần sau, với không quân Hoa Kỳ giúp đỡ, Liên minh phương Bắc xoay xở bằng tốc độ ngoạn mục, lấy lại các thành phố nòng cốt Mazar-i-Sharif và thủ đô Kabul. Ngày 7 tháng 12, chế độ Taliban sụp đổ hoàn toàn, khi quân sĩ bỏ trốn khỏi pháo lũy phòng thủ cuối cùng. Tuy nhiên các thành viên Al-Qeda và thành viên Moudjahid khác từ các bộ phận khác nhau của thế giới Hồi giáo, từng chiến đấu trong hàng ngũ Taliban còn sống sót trong những ổ kháng cự dữ tợn trước kia, buộc Hoa Kỳ và các đồng minh phải hiện diện ở Afghanistan. Osama Bin Laden - trùm khủng bố hiện tại bị tiêu diệt.,lãnh tụ Taliban Mullah Muhammad Omar vẫn chưa bị bắt, tuy nhiên đến ngày 29 tháng 7 năm 2015, Omar được xác định đã chết vào ngày 24 tháng 4 năm 2013[109]

Chính phủ mới

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 12 năm 2001, Hamid Karzai, một người Pastun (nhóm dân tộc chiếm đa số trong xứ) và lãnh tụ của thị tộc có 500.000 người dân quân hùng mạnh, được mời gọi làm người đứng đầu chính quyền lâm thời của Afghanistan. Tháng 6 năm 2002, ông chính thức trở thành Tổng thống Afghanistan. Hoa Kỳ duy trì xấp xỉ 12.000 quân để đánh lại các tàn dư Taliban và al-Qaeda, và khoảng 31 nước cũng đóng góp vào các lực lượng gìn giữ hòa bình do Liên Hợp Quốc đứng đầu. Năm 2003, sau khi Hoa Kỳ bỏ lực lượng quân sự chuyển sang chiến tranh Iraq, những cuộc tấn công vào quân lực do Hoa Kỳ cầm đầu trở nên mạnh hơn, khi phe Taliban và al-Qaeda tụ tập lại.

Tổng thống Hamid Karzai nắm quyền vững bền, khi các lãnh tụ chiến tranh ở đào hầm hố vẫn tiếp tục thi thố kiểm soát trong vùng. Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là những cuộc bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên của Afghanistan vào tháng 10 năm 2002bộc lộ rõ ràng một thành công. Mười triệu người Afghanistan, hơn một phần ba đất nước đã được ghi tên bầu cử, kể cả hơn 40% các phụ nữ chọn lựa. Karzai được tuyên bố là người thắng cử tháng 11, và chiếm 55% số phiếu cử tri, và nhiệm kỳ bắt đầu vào tháng 12.

Taliban phản kháng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 9 năm 2005, Afghanistan cho tổ chức các cuộc bầu cử nghị viện đầu tiên trong hơn 25 năm.

Phe Taliban tiếp tục tấn công quân lính Hoa Kỳ suốt năm 2005 và 2006. Năm 2006là năm chết chóc nhiều nhất cho quân lính Hoa Kỳ, từ khi chiến tranh bắt đầu năm 2001. Năm 2004 và 2005, mức độ quân Mỹ tại Afghanistan dần tăng lên đến gần 18.000 từ số thấp là 10.000. Suốt mùa xuân 2006, quân lính Taliban - đó là một lực lượng có nhiều ngàn người – xâm nhập vào Nam Afghanistan, tuyển quân từ các ngôi làng địa phương và tấn công cả quân chính phủ Afghanistan lẫn Hoa Kỳ.

Liên quân tại miền nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 5 và 6, 2006, chiến dịch Mount Thrust thực hiện, triển khai hơn 10.000 quân Afghanistan và liên quân tại miền Nam. Khoảng 700 người, trong đó hầu hết là quân Taliban bị giết chết. Tháng 8, 2006, quân NATO tổ chức những cuộc hành quân ở Nam Afghanistan với liên minh do Hoa Kỳ dẫn đầu. Đây là sứ mệnh Afghanistan của NATO mà có ai đó coi là nguy hiểm nhất mà NATO đảm lãnh trong lịch sử 57 năm.

Liên quân công kích

[sửa | sửa mã nguồn]

Phe Taliban tăng cường tấn công mạnh mẽ hơn vào cuối năm 2006 và sang năm 2007 với các binh sĩ vượt vào miền Đông Afghanistan từ các khu vực bộ tộc của Pakistan. Chính quyền Pakistan không nhận là tình báo của nước này đã yểm trợ binh sĩ Hồi giáo dù có những báo cáo trái ngược từ các nhà ngoại giao và thông tấn phương Tây. Mullah Dadullah, chỉ huy hành quân hàng đầu của Taliban từng tổ chức ám sát và bắt cóc, bị giết chết trong cuộc tấn công ở tỉnh Helmand vào tháng 5 năm 2007 do lực lượng an ninh Afghanistan, quân NATO và binh lính Mỹ cùng thực hiện.

Taliban phản công năm 2021 và chiến thắng

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong tuyên bố đăng trên trang Facebook chính thức ngày 15-8-2021 (giờ địa phương), Tổng thống Afghanistan - ông Ashraf Ghani đã chính thức xác nhận lực lượng Taliban đã giành chiến thắng cuộc chiến gần 20 năm ở nước này.

Người đứng đầu văn phòng chính trị Taliban và đồng sáng lập Mullah Abdul Ghani Baradar tuyên bố Taliban đã chiến thắng trong cuộc chiến chống Mỹ ở Afghanistan. Trong tuyên bố qua video hôm 15/8, Mullah Abdul Ghani Baradar nói việc chứng kiến tất cả các thành phố lớn của Afghanistan thất thủ trong vòng một tuần, là "chiến thắng bất ngờ", nhanh chóng và chưa từng có.

Theo tờ báo The Guardian, Taliban được cho là sẽ chính thức tuyên bố nắm quyền kiểm soát đất nước và đưa nước này trở thành "Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan".

Trận chiến

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ 2001 tới 2021 đã xảy ra các trận chiến trong đó có:

  • Trận Dahaneh
  • Trận Kamdesh
  • Trận phục kích Uzbin
  • Chiến dịch Bia Daralam
  • Cuộc oanh kích Dhuusamareeb
  • Kabul sụp đổ

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Seldin, Jeff (ngày 18 tháng 11 năm 2017). “Afghan Officials: Islamic State Fighters Finding Sanctuary in Afghanistan”. VOA News. ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2017.
  2. ^ “Uzbek militants in Afghanistan pledge allegiance to ISIS in beheading video”. khaama.com.
  3. ^ 1 tháng 8 năm 2013%20ISAF%20Placemat-final.pdf “International Security Assistance Force (ISAF): Key Facts and Figures” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) (PDF). ISAF. ngày 3 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2013.[liên kết hỏng]
  4. ^ “Afghan National Security Forces (ANSF)” (PDF). NATO. ngày 18 tháng 4 năm 2012. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2013.
  5. ^ How many al Qaeda operatives are now left in Afghanistan? - Threat Matrix
  6. ^ Al Qaeda In Afghanistan Is Attempting A Comeback
  7. ^ Sirajuddin Haqqani dares US to attack N Waziristan, by Reuters, Published: ngày 24 tháng 9 năm 2011
  8. ^ Don Rassler & Vahid Brown (ngày 14 tháng 7 năm 2011). “The Haqqani Nexus and the Evolution of al-Qaida” (PDF). Harmony Program. Combating Terrorism Center. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2011.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  9. ^ “S/2018/705 - E - S/2018/705 -Desktop”. undocs.org.
  10. ^ “Who Is the New Leader of Islamic State-Khorasan Province?”. Lawfare. ngày 2 tháng 9 năm 2020.
  11. ^ Shalizi, Hamid (ngày 7 tháng 4 năm 2018). “Afghan air strike kills Islamic State commander” – qua www.reuters.com.
  12. ^ “Scores Killed in Fresh Kunduz Fighting”. Foxnews.com. 26 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2008.
  13. ^ “Friendly fire kills 3 GIs”. Post-gazette.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2008.
  14. ^ Terry McCarthy/Kunduz. “A Volatile State Of Siege After a Taliban Ambush - Printout - TIME”. Time.com. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2008.
  15. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010.
  16. ^ http://www.defense.gov/news/casualty.pdf
  17. ^ “Op Herrick casualty and fatality tables: 2014”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2012. Truy cập 23 tháng 9 năm 2015.
  18. ^ “1,580 Canadian soldiers injured and killed in Afghanistan”. The Coast Halifax. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  19. ^ |url=http://www.dol.gov/owcp/dlhwc/dbaallnation.htm
  20. ^ Eric Schmitt And Tim Golden (Published: 17 tháng 5 năm 2008). “U.S. Planning Big New Prison in Afghanistan - New York Times”. Nytimes.com. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  21. ^ Peter Dahl Thruelsen, From Soldier to Civilian: DISARMAMENT DEMOBILISATION REINTEGRATION IN AFGHANISTAN, DIIS REPORT 2006:7 Lưu trữ 2015-04-02 tại Wayback Machine, 12, supported by Uppsala Conflict Database Project, Uppsala University.
  22. ^ Maloney, S (2005). Enduring the Freedom: A Rogue Historian in Afghanistan. Washington, D.C: Potomac Books Inc.
  23. ^ Darlene Superville and Steven R. Hurst. “Updated: Obama speech balances Afghanistan troop buildup with exit pledge”. cleveland.com. Associated Press. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
  24. ^ a b Xu, Ruike (ngày 5 tháng 1 năm 2017). Alliance Persistence within the Anglo-American Special Relationship: The Post-Cold War Era. ISBN 9783319496191.
  25. ^ “A Timeline of the U.S. War in Afghanistan”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2019.
  26. ^ “US War in Afghanistan: 1999–Present”. Council on Foreign Relations. 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2015.Council on Foreign Relations. 2014.Archived from the original Lưu trữ 2015-03-02 tại Wayback Machine on ngày 2 tháng 3 năm 2015.Retrieved 21 February 2015.
  27. ^ David P. Auerswald; Stephen M. Saideman (ngày 5 tháng 1 năm 2014). NATO in Afghanistan: Fighting Together, Fighting Alone. Princeton University Press. tr. 87–88. ISBN 978-1-4008-4867-6. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2015.
  28. ^ "Indictment #S(9) 98 Cr. 1023" Lưu trữ 2012-03-24 tại Wayback Machine (PDF).
  29. ^ “Bush rejects Taliban offer to hand Bin Laden over”. The Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2015.
  30. ^ “Operation Enduring Freedom”. history.navy.mil (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2018.
  31. ^ “Archived copy”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2019.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  32. ^ Karon, Tony (ngày 12 tháng 11 năm 2001). “Can the Northern Alliance Control Kabul?”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2019.
  33. ^ “Saira Shah: Pursuing Truth Behind Enemy Lines”. ngày 2 tháng 2 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2019.
  34. ^ “The Taliban Resurgence in Afghanistan”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2006.
  35. ^ Rothstein, Hy S (ngày 15 tháng 8 năm 2006). Afghanistan: and the troubled future of unconventional warfare By Hy S. Rothstein. ISBN 978-81-7049-306-8.
  36. ^ “AIHRC Calls Civilian Deaths War Crime”. Tolonews. ngày 13 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2011.
  37. ^ Starkey, Jerome (ngày 30 tháng 9 năm 2010). “Karzai's Taliban talks raise spectre of civil war warns former spy chief”. The Scotsman. Edinburgh. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2011.
  38. ^ “Ten Stories the world should know more about, 2007”. un.org. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
  39. ^ “International Security Assistance Force (ISAF): Key Facts and Figures” (PDF). nato.int. ngày 4 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2017.
  40. ^ “NATO to endorse Afghan exit plan, seeks routes out”. Reuters. ngày 21 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2019.
  41. ^ DeYoung, Karen (ngày 27 tháng 5 năm 2014). “Obama to leave 9,800 US troops in Afghanistan”. The Washington Post. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2014.
  42. ^ “US formally ends the war in Afghanistan” (online). CBA News. Associated Press. ngày 28 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2014.
  43. ^ Sune Engel Rasmussen in Kabul (ngày 28 tháng 12 năm 2014). “Nato ends combat operations in Afghanistan”. The Guardian. Kabul. The Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2015.
  44. ^ “Afghanistan's Taliban, US sign peace deal”. Al-Jazeera. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2020.
  45. ^ Dadouch, Sarah; George, Susannah; Lamothe, Dan (ngày 29 tháng 2 năm 2020). “U.S. signs peace deal with Taliban agreeing to full withdrawal of American troops from Afghanistan”. The Washington Post. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2020.
  46. ^ https://economictimes.indiatimes.com/news/defence/isil-k-leaders-hope-to-attract-intransigent-taliban-other-militants-who-reject-us-taliban-peace-deal-un-report/articleshow/84701544.cms
  47. ^ “Human and Budgetary Costs to Date of the U.S. War in Afghanistan, 2001-2021 | Figures | Costs of War”. The Costs of War (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2021.
  48. ^ Afghan Refugees, Costs of War, “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  49. ^ “In numbers: Life in Afghanistan after America leaves”. BBC News. ngày 13 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2021.
  50. ^ “Counting the costs of America's 20-year war in Afghanistan”. AP NEWS. ngày 30 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2021.
  51. ^ Jazeera, Al. “Afghanistan: Visualising the impact of 20 years of war”. interactive.aljazeera.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2021.
  52. ^ “Rash Report: In Kabul, shadows of Saigon”. Star Tribune.
  53. ^ “Editorial: President Biden's Saigon moment”. ngày 15 tháng 8 năm 2021.
  54. ^ “Kabul evacuations 'sequel to humiliating fall of Saigon in 1975'”. www.aljazeera.com.
  55. ^ “Mohammad Daud Khan”. Afghanland.com. 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2018.
  56. ^ “Casting Shadows: War Crimes and Crimes against Humanity: 1978–2001” (PDF). Afghanistan Justice Project. 2005. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2013.
  57. ^ a b “Afghanistan: Further Information on Fear for Safety and New Concern: Deliberate and Arbitrary Killings: Civilians in Kabul”. Amnesty International. ngày 16 tháng 11 năm 1995. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012.
  58. ^ “Afghanistan: escalation of indiscriminate shelling in Kabul”. International Committee of the Red Cross. 1995. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2011.
  59. ^ a b c Marcela Grad (ngày 1 tháng 3 năm 2009). Massoud: An Intimate Portrait of the Legendary Afghan Leader. Webster University Press. tr. 310.
  60. ^ “II. BACKGROUND”. Human Rights Watch. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2008.
  61. ^ a b Amin Saikal (ngày 13 tháng 11 năm 2004). Modern Afghanistan: A History of Struggle and Survival (ấn bản thứ 1). I.B. Tauris & Co Ltd., London New York. tr. 352. ISBN 1-85043-437-9.
  62. ^ a b “Documents Detail Years of Pakistani Support for Taliban, Extremists”. National Security Archive. 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012.
  63. ^ Video trên YouTube
  64. ^ a b c Coll 2004, tr. 14.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFColl2004 (trợ giúp)
  65. ^ “The Taliban's War on Women: A Health and Human Rights Crisis in Afghanistan” (PDF). Physicians for Human Rights. 1998. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2014.
  66. ^ Maley, William (2009). The Afghanistan wars. Palgrave Macmillan. tr. 288. ISBN 978-0-230-21313-5.
  67. ^ a b Peter Tomsen said that up until 9/11, Pakistani military and ISI officers along with thousands of regular Pakistani armed forces personnel had been involved in the fighting in Afghanistan.Tomsen, Peter (2011). Wars of Afghanistan. PublicAffairs. tr. 322. ISBN 978-1-58648-763-8.
  68. ^ Video trên YouTube
  69. ^ Tomsen, Peter (2011). Wars of Afghanistan. PublicAffairs. tr. 565. ISBN 978-1-58648-763-8.
  70. ^ a b Newsday (tháng 10 năm 2001). “Taliban massacres outlined for UN”. Chicago Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2011.
  71. ^ a b Newsday (2001). “Confidential UN report details mass killings of civilian villagers”. newsday.org. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2001.
  72. ^ Immigration and Refugee Board of Canada (tháng 2 năm 1999). “Afghanistan: Situation in, or around, Aqcha (Jawzjan province) including predominant tribal/ethnic group and who is currently in control”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2014.
  73. ^ “Incitement of Violence Against Hazaras by Governor Niazi”. Afghanistan: the Massacre in Mazar-I Sharif. Human Rights Watch. tháng 11 năm 1998. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  74. ^ a b c Ahmed Rashid (ngày 11 tháng 9 năm 2001). “Afghanistan resistance leader feared dead in blast”. The Telegraph. London. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2018.
  75. ^ Girardet 2011, tr. 416.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFGirardet2011 (trợ giúp)
  76. ^ Rashid 2000, tr. 91.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFRashid2000 (trợ giúp)
  77. ^ “Pakistan's support of the taliban”. Human Rights Watch. 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2016.
  78. ^ 911 Commission 2004, tr. 66.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREF911_Commission2004 (trợ giúp)
  79. ^ 911 Commission 2004, tr. 67.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREF911_Commission2004 (trợ giúp)
  80. ^ Coll 2004.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFColl2004 (trợ giúp)
  81. ^ “9/11 Represented a Dramatic Failure of Policy and People”. US Congressman Dana Rohrabacher. 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  82. ^ “Security Council demands that Taliban turn over Osama bin Laden to appropriate authorities” (Thông cáo báo chí). United Nations. ngày 15 tháng 10 năm 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2017.
  83. ^ Risen 2008.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFRisen2008 (trợ giúp)
  84. ^ Coll 2004, tr. 720.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFColl2004 (trợ giúp)
  85. ^ Julian Borger (ngày 24 tháng 3 năm 2004). “Bush team 'agreed plan to attack the Taliban the day before September 11'”. The Guardian. London. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2016.
  86. ^ Marcela Grad (2009). Massoud: An Intimate Portrait of the Legendary Afghan Leader . Webster University Press. tr. 310.
  87. ^ “Inside the Taliban 06 – N.G.”. YouTube. ngày 11 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2014.
  88. ^ “Inside the Taliban”. National Geographic. 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2014.
  89. ^ “Massoud in the European Parliament 2001”. EU media. 2001. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2013.
  90. ^ “Council of Afghan opposition”. Corbis. 2001. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2012.
  91. ^ Marcela Grad (2009). Massoud: An Intimate Portrait of the Legendary Afghan Leader . Webster University Press. tr. 65.
  92. ^ Senior diplomat and Afghanistan expert Peter Tomsen wrote: "The 'Lion of Kabul' [Abdul Haq] and the 'Lion of Panjshir' [Ahmad Shah Massoud] … Haq, Massoud, and Karzai, Afghanistan's three leading moderates, could transcend the Pashtun—non-Pashtun, north-south divide."Tomsen, Peter (2011). Wars of Afghanistan. PublicAffairs. tr. 566. ISBN 978-1-58648-763-8.
  93. ^ “Defense Intelligence Agency” (PDF). National Security Archive. 2001. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012.
  94. ^ “Taliban Foe Hurt and Aide Killed by Bomb”. The New York Times. Afghanistan. ngày 10 tháng 9 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2010.
  95. ^ Burns, John F. (ngày 9 tháng 9 năm 2002). “Threats and Responses: Assassination; Afghans, Too, Mark a Day of Disaster: A Hero Was Lost”. The New York Times. Afghanistan. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2010.
  96. ^ Rajat Pandit (ngày 18 tháng 4 năm 2013). “India airlifts military hospital to Tajikistan to strengthen geo-strategic footprint in Central Asia”. The Times of India.
  97. ^ Bearak, Barry (ngày 17 tháng 9 năm 2001). “Rebel Chief Who Fought The Taliban Is Buried”. The New York Times. Pakistan; Afghanistan. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2014.
  98. ^ Holmes, Stephen (2006). “Al Qaeda, ngày 11 tháng 9 năm 2001”. Trong Diego Gambetta (biên tập). Making sense of suicide missions. Oxford University Press. ISBN 978-0-19-929797-9.
  99. ^ Keppel, Gilles; Milelli, Jean-Pierre; Ghazaleh, Pascale (2008). Al Qaeda in its own words. Harvard University Press. ISBN 978-0-674-02804-3.
  100. ^ "Chapter of the 9/11 Commission Report detailing the history of the Hamburg Cell Lưu trữ 2009-08-16 tại Wayback Machine". 9/11 Commission.
  101. ^ a b “9 Years Later, Nearly 900 9/11 Responders Have Died, Survivors Fight for Compensation”. FOX News. ngày 11 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2010.
  102. ^ a b “The US refuses to negotiate with the Taliban”. BBC History. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2018.
  103. ^ “In Afghanistan, US is fighting tribal insurgency, not jihad”. The Baltimore Sun. ngày 2 tháng 3 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2018.
  104. ^ “Bush Rejects Taliban Bin Laden Offer”. washingtonpost.com. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2018.
  105. ^ “Bush rejects Taliban offer to surrender bin Laden”. The Independent (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2018.
  106. ^ “CNN.com – US rejects Taliban offer to try bin Laden – ngày 7 tháng 10 năm 2001”. edition.cnn.com. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2018.
  107. ^ Staff and agencies (ngày 14 tháng 10 năm 2001). “US warplanes launch new wave of attacks”. the Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2018.
  108. ^ a b Staff and agencies (ngày 14 tháng 10 năm 2001). “Bush rejects Taliban offer to hand Bin Laden over”. the Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2018.
  109. ^ “Mullah Omar: Taliban leader 'died in Pakistan in 2013'”.
  • x
  • t
  • s
Các vụ tấn công vào ngày 11 tháng 9 năm 2001
Mốc thời gian
  • Lên kế hoạch cho cuộc tấn công ngày 11 tháng 9
  • Sự sụp đổ của Trung tâm Thương mại Thế giới
Nạn nhân
  • Thương vong trong Sự kiện 11 tháng 9
Chuyến bay bị cướp
  • Chuyến bay 11 của American Airlines
  • Chuyến bay 175 của United Airlines
  • Chuyến bay 77 của American Airlines
  • Chuyến bay 93 của United Airlines
Địa điểm máy bay rơi
  • Trung tâm Thương mại Thế giới (1973–2001)
  • Lầu Năm Góc
  • Xã Stonycreek, Quận Somerset, Pennsylvania / Shanksville, Pennsylvania
Hậu sự kiện
  • Thuyết âm mưu về sự kiện 11 tháng 9
Trả đũa
  • Chiến tranh chống khủng bố
  • Chiến tranh Afghanistan (2001–2021)
  • Cái chết của Osama bin Laden
  • Cái chết của Ayman al-Zawahiri
Thủ phạm
  • Al-Qaeda
  • Osama bin Laden
  • Không tặc trong sự kiện 11 tháng 9
  • Phòng Hamburg
Báo cáo
  • Ủy ban 11/9
Khác
  • Ngày Yêu nước
  • The Falling Man
  • Chiến tranh Iraq
  • Thể loại Thể loại:Sự kiện 11 tháng 9
  • x
  • t
  • s
Barack Obama
  • Tổng thống Hoa Kỳ thứ 44 (2009–2017)
  • Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đến từ Illinois (2005–2008)
  • Thượng nghị sĩ Illinois đến từ quận 13 (1997–2004)
Cuộc sống và chính trị
  • Tuổi thơ và sự nghiệp ban đầu
  • Sự nghiệp tại Thượng viện Illinois
  • Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Dân chủ 2004
  • Sự nghiệp tại Thượng viện Hoa Kỳ
  • Phổ chính trị
    • Đối ngoại
    • Kinh tế
    • Năng lượng
    • Rùa quản đồng
    • Giám sát hàng loạt
    • Xã hội
    • Không gian
  • Giải Nobel Hòa bình
  • West Wing Week
Nhiệm kỳ tổng thống
  • Chuyển tiếp
  • Lễ nhậm chức năm 2009
  • Lễ nhậm chức năm 2013
  • 100 ngày đầu tiên
  • Dòng thời gian
    • 2009
    • 2010
    • 2011
    • 2012
    • 2013
    • 2014
    • 2015
    • 2016
    • January 2017
  • Chính sách đối ngoại
    • Trung Đông
    • Chiến tranh Afghanistan
    • Rút quân khỏi Iraq
    • Cái chết của Osama bin Laden
    • Vụ tấn công Benghazi năm 2012
    • Quay lại Iraq
    • Chiến tranh Syria
    • Thỏa thuận Iran
    • Đông Á
    • Tan băng Cuba
    • Học thuyết Obama
    • Châu Âu
  • Đạo luật Bảo vệ Bệnh nhân và Chăm sóc Sức khỏe Hợp túi tiền
  • Đạo luật Trẻ em Không đói, Khỏe mạnh năm 2010
  • New START
  • Ân xá
  • Chuyến thăm
    • international
    • 2009
    • 2010
    • 2011
    • 2012
    • 2013
    • 2014
    • 2015
    • 2016
  • Bổ nhiệm thẩm phán
    • Tòa án Tối cao
    • Tranh cãi
  • Trung tâm và Thư viện Tổng thống
Sách
  • Dreams from My Father (1995)
  • The Audacity of Hope (2006)
  • Of Thee I Sing (2010)
  • A Promised Land (2020)
Diễn thuyết
  • "The Audacity of Hope" (2004)
  • "Yes We Can" (2008)
  • "A More Perfect Union" (2008)
  • "Change Has Come to America" (2008)
  • "A New Birth of Freedom" (2009)
  • Hội nghị liên tịch Quốc hội Hoa Kỳ (2009)
  • "A New Beginning" (2009)
  • Hội nghị liên tịch Quốc hội Hoa Kỳ (cải cách chăm sóc sức khoẻ) (2009)
  • Bài phát biểu State of the Union
    • 2010
    • 2011
    • 2012
    • 2013
    • 2014
    • 2015
    • 2016
  • Bài diễn thuyết tưởng niệm Tuscon (2011)
  • Hội nghị liên tịch Quốc hội Hoa Kỳ (nghề nghiệp) (2011)
  • "You didn't build that" (2012)
  • Bài diễn thuyết kỷ niệm 50 năm Selma (2015)
  • Bài diễn thuyết từ biệt (2017)
Elections
  • Illinois State Senate election, 1996, 1998, 2002
  • 2000 Illinois's 1st congressional district election
  • 2004 United States Senate election
  • 2008 Democratic presidential primaries
  • 2012 Democratic presidential primaries
  • Democratic National Convention
    • 2008
    • 2012
  • 2008 presidential campaign
    • 2008 Obama primary campaign
    • endorsements
    • GOP/conservative support
  • 2008 presidential election
    • international reactions
  • 2012 presidential campaign
    • endorsements
  • 2012 presidential election
    • international reactions
Gia đình
  • Michelle Obama (vợ)
  • Ann Dunham (mẹ)
  • Barack Obama Sr. (cha)
  • Lolo Soetoro (cha kế)
  • Maya Soetoro-Ng (em gái cùng mẹ khác cha)
  • Stanley Armour Dunham (ông ngoại)
  • Madelyn Dunham (bà ngoại)
  • Auma Obama (chị cùng cha khác mẹ)
  • Malik Obama (anh cùng cha khác mẹ)
  • Marian Shields Robinson (mẹ vợ)
  • Craig Robinson (anh vợ)
  • Bo (chó nuôi)
  • Sunny (chó nuôi)
Public image
News and political events
  • Oprah Winfrey's endorsement
  • Citizenship conspiracy theories
    • litigation
  • Religion conspiracy theories
  • Bill Ayers controversy
  • Jeremiah Wright controversy
  • Republican and conservative support (2008)
  • Assassination threats
    • 2008 Denver
    • 2008 Tennessee
  • First inauguration invitations
  • Inaugural Celebration at the Lincoln Memorial
  • Citizen's Briefing Book
  • Tea Party protests
  • New Energy for America
  • Lilly Ledbetter Fair Pay Act of 2009
  • American Recovery and Reinvestment Act of 2009
  • Gates-Crowley Rose Garden meeting
  • Firing of Shirley Sherrod
  • Impeachment efforts
Books about
  • Bibliography
  • Obama: From Promise to Power
  • Barack Obama: Der schwarze Kennedy
  • Redemption Song
  • The Case Against Barack Obama
  • The Obama Nation
  • Culture of Corruption
  • Catastrophe
  • Barack and Michelle
  • The Speech
  • The Obama Story
  • Game Change
  • Game Change 2012
  • Rising Star
Music
  • Obama Girl
    • "Crush on Obama"
  • "Barack the Magic Negro"
  • will.i.am
    • "Yes We Can"
    • "We Are the Ones"
  • "There's No One as Irish as Barack O'Bama"
  • "Sí Se Puede Cambiar"
  • "My President"
  • "Deadheads for Obama"
  • "Air and Simple Gifts"
  • Change Is Now
  • Hope! – Das Obama Musical
  • "Barack Obama vs. Mitt Romney"
  • Barack's Dubs
  • "Signed, Sealed, Delivered I'm Yours"
Film, TV, and stage
  • By the People: The Election of Barack Obama (2009)
  • Change (2010)
  • Obama Anak Menteng (2010)
  • 2016: Obama's America (2012)
  • The Road We've Traveled (2012)
  • Southside with You (2016)
  • Hillary and Clinton (2016)
  • Barry (2016)
  • America's Great Divide (2020)
Other media
  • On social media
  • Artists for Obama
  • "Hope" poster
  • "Joker" poster
  • Hair Like Mine
  • Situation Room
  • President Barack Obama (2018 portrait)
  • Obama logo
  • In comics
  • Aptostichus barackobamai
  • Etheostoma obama
  • Caloplaca obamae
Miscellaneous
  • Barack Obama Day (Illinois)
  • Obama Day (Kenya)
  • Awards and honors
  • Namesakes
  • "One Last Time (44 Remix)"
  • ← George W. Bush
  • Donald Trump →
  • Thể loại Category
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • BNE: XX549857
  • BNF: cb13773245g (data)
  • GND: 4997894-9
  • LCCN: sh2004004460
  • NDL: 01193194
  • NKC: ph330288
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Chiến_tranh_Afghanistan_(2001–2021)&oldid=72000869” Thể loại:
  • Chiến tranh Afghanistan (2001–2021)
  • Nội chiến Afghanistan
  • Afghanistan thập niên 2000
  • Afghanistan thập niên 2010
  • Xung đột thập niên 2000
  • Xung đột thập niên 2010
  • Chiến tranh liên quan tới Afghanistan
  • Chiến tranh liên quan tới Úc
  • Chiến tranh liên quan tới Canada
  • Chiến tranh liên quan tới Pháp
  • Chiến tranh liên quan tới Gruzia
  • Chiến tranh liên quan tới Đức
  • Chiến tranh liên quan tới Na Uy
  • Chiến tranh liên quan tới Pakistan
  • Chiến tranh liên quan tới Ba Lan
  • Chiến tranh liên quan tới Vương quốc Liên hiệp Anh
  • Chiến tranh liên quan tới Hoa Kỳ
  • Afghanistan năm 2001
  • Xâm lược Afghanistan
  • Xâm lược của Hoa Kỳ
  • Xâm lược của Úc
  • Xâm lược của Canada
  • Xâm lược của Vương quốc Liên hiệp Anh
  • Quan hệ Afghanistan-Pakistan
  • Afghanistan thế kỷ 21
  • Afghanistan 2021
Thể loại ẩn:
  • Lỗi CS1: URL
  • Bài có liên kết hỏng
  • Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả
  • Lỗi CS1: ngày tháng
  • Bản mẫu webarchive dùng liên kết wayback
  • Nguồn CS1 tiếng Anh (en)
  • Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề
  • Lỗi không có mục tiêu Harv và Sfn
  • Pages using deprecated image syntax
  • Bài viết chứa nhận dạng BNE
  • Bài viết chứa nhận dạng BNF
  • Bài viết chứa nhận dạng GND
  • Bài viết chứa nhận dạng LCCN
  • Bài viết chứa nhận dạng NDL
  • Bài viết chứa nhận dạng NKC

Từ khóa » Thi Hoang Oanh Rabbani