Christian Eriksen – Wikipedia Tiếng Việt

Christian Eriksen
Eriksen thi đấu trong màu áo Tottenham Hotspur vào năm 2016
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Christian Dannemann Eriksen[1]
Ngày sinh 14 tháng 2, 1992 (32 tuổi)[2]
Nơi sinh Middelfart, Đan Mạch
Chiều cao 1,82 m (6 ft 0 in)[3]
Vị trí Tiền vệ
Thông tin đội
Đội hiện nay Manchester United
Số áo 14
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1995–2005 Middelfart G&BK
2005–2008 OB
2008–2010 Ajax
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2010–2013 Ajax 113 (25)
2013–2020 Tottenham Hotspur 226 (51)
2020–2021 Inter Milan 43 (4)
2022 Brentford 11 (1)
2022– Manchester United 50 (2)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡
Năm Đội ST (BT)
2007–2009 U-17 Đan Mạch 27 (9)
2009 U-18 Đan Mạch 5 (1)
2009 U-19 Đan Mạch 3 (1)
2011 U-21 Đan Mạch 3 (1)
2010– Đan Mạch 134 (42)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 19 tháng 5 năm 2024‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 29 tháng 6 năm 2024

Christian Dannemann Eriksen (Phát âm tiếng Đan Mạch: [ˈkʰʁestjæn ˈe̝ːʁeksn̩]; sinh ngày 14 tháng 2 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đan Mạch hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Premier League Manchester United và đội tuyển bóng đá quốc gia Đan Mạch.

Eriksen khởi đầu sự nghiệp tại câu lạc bộ Hà Lan Ajax, nơi anh vô địch Eredivisie vào mùa giải 2010–11, 2011–12 và 2012–13. Vào năm 2014, Eriksen gia nhập Tottenham và được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất năm của câu lạc bộ ở mùa giải đầu tiên của anh.[4] Trong thời gian bảy năm tại câu lạc bộ, anh cũng được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất năm của câu lạc bộ ở mùa giải 2016–17. Ở mùa giải 2018–19, Eriksen trở thành cầu thủ thứ hai sau David Beckham có kỷ lục hơn 10 pha kiến tạo ở bốn mùa giải Premier League liên tiếp và là thành phần quan trọng của đội hình đã vào đến trận chung kết UEFA Champions League 2019.[5] Vào tháng 1 năm 2020, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ Ý Inter Milan.

Eriksen có trận đấu ra mắt đội tuyển quốc gia Đan Mạch vào tháng 3 năm 2010 và là cầu thủ trẻ nhất của FIFA World Cup 2010.[6] Trên con đường lọt vào FIFA World Cup 2018, Eriksen có vai trò quan trọng trong chiến dịch vòng loại của đội tuyển.[7] Đan Mạch vào đến vòng 16 đội, nơi họ bị đánh bại bởi Croatia sau loạt sút luân lưu.[8] Eriksen được vinh danh là Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất năm của Đan Mạch kỷ lục năm lần.

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Middelfart và Odense

[sửa | sửa mã nguồn]

Christian Eriksen bắt đầu chơi bóng đá tại quê nhà Middelfart ngay khi chưa được ba tuổi. Năm 2005, anh chuyển đến Odense Boldklub (OB) và cùng câu lạc bộ này tham dự giải bóng đá trẻ Đan Mạch. OB thua tại bán kết trước đội trẻ Brøndby IF nhưng Eriksen vẫn được chọn là cầu thủ có kỹ thuật tốt nhất giải đấu.[9] Một năm sau đó, OB vô địch giải trẻ với Eriksen là người ghi bàn thắng duy nhất trong trận chung kết.[10] Thành tích của anh trong màu áo của U-16 OB và sau đó là đội U-17 và U-19 Đan Mạch đã giúp anh trở thành mục tiêu của các câu lạc bộ lớn như Chelsea và Barcelona.[11] Eriksen sau đó đã thử việc tại Barcelona, Manchester United, Chelsea và Milan nhưng cuối cùng lại bất ngờ chọn Ajax vì anh cho rằng thi đấu cho một câu lạc bộ lớn ngay từ đầu là có thể quá sức và bóng đá Hà Lan sẽ giúp cho anh phát triển tài năng.[12]

Ajax Amsterdam

[sửa | sửa mã nguồn]

2008-2011

[sửa | sửa mã nguồn]
Eriksen với Ajax năm 2011

Ngày 17 tháng 10 năm 2008, Eriksen ký hợp đồng thời hạn hai năm rưỡi với Ajax Amsterdam.[13] Phí chuyển nhượng mà OB nhận được là 1 triệu €.[14] Sau hơn một năm ở đội trẻ, anh được đưa lên đội một vào tháng 1 năm 2010, với số áo 51.[15] Ngày 17 tháng 1 năm 2010, anh có trận đấu chính thức đầu tiên ở câu lạc bộ AFC Ajax trong trận đấu tại Eredivisie với NAC Breda.[16] Ngày 25 tháng 3 năm 2010, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Ajax trong trận đại thắng 6–0 trước Go Ahead Eagles tại Cúp quốc gia Hà Lan. Ngày 10 tháng 4 năm 2010, anh gia han hợp đồng với Ajax đến mùa hè 2014.[17] Ngày 6 tháng 5 năm 2010, Eriksen đã vào sân ở hiệp 2 trận chung kết Cúp quốc gia Hà Lan, nơi Ajax đánh bại Feyenoord 4-1 để giành chức vô địch với tổng tỉ số 6-1 sau hai lượt trận.[18] Kết thúc mùa giải chuyên nghiệp đầu tiên cùng Ajax, Eriksen đã thi đấu 21 trận, ghi được 1 bàn.[19] Từ mùa giải sau đó, anh được trao chiếc áo số 8.[20]

Eriksen bắt đầu mùa giải 2010-11 bằng bàn thắng trong chiến thắng sân khách trước De Graafschap ngày 29 tháng 8 năm 2010.[21] Ngày 11 tháng 11 năm 2010, Eriksen có bàn thắng đầu tiên tại sân Amsterdam ArenA trong chiến thắng 3-0 tại Cúp quốc gia trước BV Veendam.[22] Trong tháng 12, anh nhận danh hiệu Cầu thủ trẻ Đan Mạch xuất sắc nhất năm.[23] Sau khi nhận danh hiệu vài ngày, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Vitesse.[24] Ngày 17 tháng 2 năm 2011, Eriksen có pha lập công đầu tiên tại đấu trường châu Âu trong chiến thắng 3-0 của Ajax trước Anderlecht tại UEFA Europa League 2010–11.[25] Ngày 13 tháng 3, anh có pha đi bóng giữa sân sau đó ghi bàn thắng ấn định tỉ số 3-1 trước Willem II.[26]

2011-2013

[sửa | sửa mã nguồn]
Eriksen trong trận đấu tại UEFA Champions League với Spartak Moscow năm 2011.

Với phong độ ấn tượng trong mùa giải 2010-11 và cùng Ajax giành danh hiệu Eredivisie lần đầu tiên sau 7 năm, Eriksen được chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trong năm của câu lạc bộ này.[27][28] Ngày 23 tháng 5 năm 2011, anh giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của bóng đá Hà Lan, người Đan Mạch thứ hai giành được danh hiệu này sau tiền đạo Jon Dahl Tomasson năm 1996. Đứng đầu hội đồng bầu chọn cho danh hiệu này là huyền thoại Johan Cruyff, người đã khen Eriksen:"Chúng ta có thể so sánh cậu ấy với Brian và Michael Laudrup. Cậu ấy chỉ còn cần thời gian để đạt đến trình độ của những đàn anh ấy."[29]

Ngày 18 tháng 10 năm 2011, Eriksen ghi bàn thắng đầu tiên tại UEFA Champions League khi Ajax đánh bại Dinamo Zagreb 2–0 ở vòng bảng, giúp anh trở thành cầu thủ trẻ nhất thứ hai ghi bàn tại mùa giải 2011–12. Trong trận lượt về với Dinamo Zagreb ngày 2 tháng 11, anh có hai đường chuyền thành bàn cho Gregory van der Wiel và Siem de Jong cũng như góp công vào bàn thắng thứ ba, giúp Ajax đánh bại đội bóng Croatia 4-0.[30] Sau mùa giải thứ ba liên tiếp có được danh hiệu vô địch Giải vô địch bóng đá Hà Lan, anh từ chối gia hạn hợp đồng với Ajax. Sau ba mùa giải với câu lạc bộ Hà Lan, Eriksen có tổng cộng 113 trận đấu tại Eredivisie, ghi 25 bàn và kiến tạo thành bàn 41 lần. Tại Cúp KNVB, anh có 4 bàn và 4 pha kiến tạo sau 16 trận. Tại đấu trường châu Âu, anh có 30 trận cho Ajax và ghi được 3 bàn và có 9 đường chuyền thành bàn.[31]

Tottenham Hotspur

[sửa | sửa mã nguồn]

2013–14

[sửa | sửa mã nguồn]
Eriksen thi đấu cho Tottenham Hotspur năm 2014

Ngày 30 tháng 8 năm 2013, Tottenham Hotspur thông báo đã hoàn tất việc chuyển nhượng Eriksen từ Ajax[32] với phí chuyển nhượng 11,5 triệu bảng.[33]

Ngày 14 tháng 9 năm 2013, anh có trận đấu đầu tiên tại Premier League với Norwich. Tottenham thắng 2-0 và anh đóng góp trong cả hai bàn thắng, trong đó có một đường chuyền thành bàn cho Gylfi Sigurðsson.[34] Huấn luyện viên André Villas-Boas đã đánh giá màn ra mắt của Eriksen là tuyệt vời và anh xứng đáng với vị trí của một số 10 bằng sự sáng tạo và kỹ thuật cá nhân.[35]

Ngày 19 tháng 9 năm 2013, Eriksen có bàn thắng đầu tiên cho Tottenham với một cú sút xa tuyệt đẹp trong chiến thắng 3–0 trước Tromsø IL tại Europa League.[36] Đến ngày 26 tháng 12 năm 2013, anh mới có bàn thắng đầu tiên tại Premier League là một pha đá phạt trực tiếp đẹp mắt mở tỉ số trận đấu với West Bromwich Albion.[37] Một tuần sau đó, trong trận đấu với đối thủ mạnh Manchester United, anh lập công lớn với một pha kiến tạo cho Emmanuel Adebayor và tự mình nâng tỉ số lên 2-0 đem về chiến thắng 2-1 cho Tottenham.[38]

Ngày 23 tháng 3 năm 2014, trong trận đấu với Southampton khi mà Tottenham đã bị dẫn trước a 2–0 ở phút 28, Eriksen đã lập một cú đúp và kiến tạo cho Gylfi Sigurðsson ghi bàn thắng ấn định cuộc lội ngược dòng 3-2.[39] Đến ngày 12 tháng 4, anh lại có pha lập công giúp Tottenham có được 1 điểm trước West Bromwich Albion sau khi đã bị đối thủ dẫn trước 3-0.[40] Kết thúc mùa giải đầu tiên với Tottenham, Eriksen có được tổng cộng 7 bàn thắng tại giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2013-14.

2014–15

[sửa | sửa mã nguồn]

Eriksen có bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2014-15 trong trận hòa 2-2 với Sunderland vào ngày 13 tháng 9 năm 2014.[41]

Ngày 28 tháng 1 năm 2015, Eriksen lập cú đúp, trong đó có một pha đá phạt trực tiếp đẹp mắt để đưa Tottenham vào chung kết League Cup với tổng tỉ số 3-2 trước Sheffield United sau hai lượt trận.[42]

2015–16

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 1 năm 2016, Eriksen trở thành cầu thủ Đan Mạch đầu tiên ba lần liên tiếp giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Đan Mạch.[43]

2016–17

[sửa | sửa mã nguồn]
Eriksen thi đấu cho Tottenham Hotspur năm 2016.

Ngày 26 tháng 11 năm 2016, Eriksen mở tỉ số trong trận đấu trên sân khách trước đội đầu bảng Chelsea bằng một cú sút xa đẹp mắt nhưng sau đó đội bóng của anh đã để thua ngược 1-2.[44] Một tuần sau đó, anh có cú đúp trong chiến thắng 5-1 trước Swansea City.[45]

Ngày 27 tháng 4 năm 2017, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Crystal Palace để thu hẹp khoảng cách với Chelsea trong cuộc đua giành ngôi vô địch Giải ngoại hạng Anh xuống bốn điểm.[46] Trong mùa giải 2016-17, anh có tổng cộng 15 đường chuyền thành bàn và là cầu thủ tạo ra nhiều cơ hội ăn bàn nhất châu Âu, với tổng cộng 112 lần đặt đồng đội vào thế ghi bàn.[47]

2017–18

[sửa | sửa mã nguồn]

Eriksen trở thành cầu thủ Đan Mạch ghi nhiều bàn thắng nhất tại Premier League khi đạt đến cột mốc 33 bàn, vượt qua kỷ lục cũ của Nicklas Bendtner trong chiến thắng 3–2 trước West Ham ngày 23 tháng 9 năm 2017.[48] Ngày 14 tháng 10, bàn thắng duy nhất của Eriksen giúp Tottenham hạ Bournemouth ở vòng tám Ngoại hạng Anh và đây cũng là chiến thắng đầu tiên của Tottenham trên sân nhà Wembley ở mùa này.[49] Ngày 9 tháng 12, anh có trận đấu thứ 200 cho Tottenham và đánh đấu cột mốc này bằng bàn thắng trong trận thắng 5-1 trước Stoke City.[50]

Một tháng sau đó, anh có bàn thắng thứ 50 cho Spurs chỉ sau 11 giây trận đấu với Manchester United và chung cuộc đội bóng của anh giành chiến thắng 2-0.[51] Bàn thắng này là bàn thắng nhanh thứ ba trong lịch sử Premier League, chỉ sau bàn thắng của Ledley King và Alan Shearer.[52] Ngày 17 tháng 3 năm 2018, Eriksen lập cú đúp đưa Tottenham vào bán kết Cúp FA mùa giải thứ hai liên tiếp sau chiến thắng 3-0 trước Swansea City.[53] Ngày 1 tháng 4 năm 2018, Ericksen lập siêu phẩm với cú vuốt bóng từ cự ly gần 30 mét giúp Tottenham đánh bại Chelsea ngay tại Stamford Bridge lần đầu tiên sau 28 năm.[54] Bàn thắng này sau đó giúp anh có được Bàn thắng đẹp nhất tháng Giải bóng đá Ngoại Hạng Anh.[55] Ngày 14 tháng 4, anh ghi bàn vào lưới đội bóng đầu bảng Manchester City trong trận thua 1-3.[56]

Eriksen kết thúc mùa giải 2017-18 với việc lần đầu tiên có mặt trong Đội hình xuất sắc nhất giải Ngoại hạng Anh trong mùa của Hiệp hội Cầu thủ Chuyên nghiệp Anh (PFA), cùng với đồng đội Harry Kane và Jan Vertonghen.[57]

Mùa giải 2018–19

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong mùa giải 2018–19, Eriksen ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải trong trận đấu trên sân khách tại Champions League với Inter Milan. Trận đấu kết thúc với thất bại 2–1 cho Tottenham, nhưng trong trận đấu trên sân nhà với Inter, Eriksen lại ghi bàn trong bàn thắng duy nhất của trận đấu, giúp Tottenham giành chiến thắng 1–0. Anh ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải ở Premier League vào ngày 15 tháng 12 năm 2018 trong trận đấu trên sân nhà với Burnley, bàn thắng muộn giúp Tottenham giành chiến thắng 1–0. Vào ngày 31 tháng 3, trong trận thua 2–1 trước Liverpool, anh trở thành cầu thủ thứ hai sau David Beckham có hơn 10 pha kiến ​​tạo trong bốn mùa giải Premier League liên tiếp. Ba ngày sau, trong lần ra sân thứ 200 tại Premier League, anh đã kiến ​​tạo cho Son Heung-min ghi bàn thắng đầu tiên trên sân Tottenham Hotspur mới trước khi tự mình ghi bàn trong chiến thắng 2–0 trước Crystal Palace. Vào ngày 23 tháng 4, anh ghi bàn thắng quyết định trong chiến thắng 1–0 trước Brighton & Hove Albion. Sau đó, Eriksen thi đấu trong trận Chung kết UEFA Champions League 2019, nhưng Tottenham thất bại 2–0 trước Liverpool.

Inter Milan

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải 2019–20

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 28 tháng 1 năm 2020, khi hợp đồng của anh ấy tại Tottenham sẽ hết hạn sau sáu tháng, Eriksen đã ký hợp đồng 4 năm rưỡi với câu lạc bộ Serie A Inter Milan, với mức thu nhập 10 triệu euro mỗi mùa cho anh ấy. Anh có trận ra mắt câu lạc bộ vào ngày hôm sau, vào sân trong hiệp hai thay cho Alexis Sánchez trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Fiorentina ở tứ kết Coppa Italia. Vào ngày 20 tháng 2, Eriksen ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ, ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2–0 trên sân khách trước Ludogorets Razgrad tại Europa League. Anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Serie A vào ngày 1 tháng 7, trong chiến thắng 6–0 trước Brescia. Vào ngày 21 tháng 8, Eriksen thi đấu trong trận thua 2-3 của Inter trước Sevilla trong trận Chung kết Europa League 2020, trở thành cầu thủ đầu tiên để thua hai trận chung kết liên tiếp trong hai giải đấu lớn hiện tại của UEFA; trước đó, anh ấy đã thất bại trong trận Chung kết Champions League 2019 với Tottenham.

Mùa giải 2020–21

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 12 năm 2020, Giuseppe Marotta xác nhận rằng Eriksen đã được thêm vào danh sách chuyển nhượng cho năm 2021; tuy nhiên, đồng đội của anh, Romelu Lukaku trước đó đã ám chỉ rằng những khó khăn của Eriksen ở câu lạc bộ Ý là do bất đồng ngôn ngữ. Vào ngày 26 tháng 1 năm 2021, trong những phút cuối cùng của trận tứ kết Coppa Italia giữa Inter với đối thủ Milan, Eriksen được thay vào khi tỷ số là 1-1. Ở phút bù giờ thứ bảy và khi trận đấu tưởng như đã bước sang hiệp phụ, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải từ một quả đá phạt trực tiếp để mang về chiến thắng cho Inter và đưa họ vào bán kết. Sau trận đấu, huấn luyện viên Antonio Conte của Inter nói rằng Eriksen sẽ ở lại với câu lạc bộ, mặc dù có liên quan đến việc rời đi vào mùa đông. Vào ngày 1 tháng 5, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Inter trong chiến thắng quan trọng 2–0 trên sân khách trước Crotone, đưa câu lạc bộ tiến gần hơn đến chức vô địch đầu tiên kể từ mùa giải 2009–10. Inter được xác nhận là nhà vô địch giải đấu vào ngày hôm sau, sau khi đối thủ gần nhất Atalanta không thể thắng trong trận đấu với Sassuol. Nó kết thúc chuỗi 9 năm vô địch Serie A của Juventus.

Mùa giải 2021–22

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 29 tháng 10 năm 2021, đã có thông báo rằng Eriksen không được phép chơi cho Inter Milan do phải cấy máy khử rung tim sau khi bị ngừng tim tại Euro 2020.[58] Gần nửa năm sau khi ngừng tim, Eriksen bắt đầu tập luyện cá nhân tại các cơ sở của đội trẻ Odense Boldklub ở Odense để chuẩn bị trở lại với bóng đá.[59] Vào ngày 17 tháng 12, Inter Milan đồng ý thanh lý hợp đồng của tiền vệ này.[60][61]

Brentford

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 31 tháng 1 năm 2022, Eriksen gia nhập câu lạc bộ Brentford ở Premier League với bản hợp đồng có thời hạn 6 tháng.[62] Vào ngày 26 tháng 2 năm 2022, trận đấu ra mắt đầu tiên của anh là khi vào sân thay cho Mathias Jensen trong trận thua 0–2 trước Newcastle United.[63] Anh có pha kiến tạo đầu tiên trong chiến thắng 2–0 trước Burnley FC.Anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Premier League trong chiến thắng ấn tượng 4–1 trên sân khách trước đối thủ cùng thành phố Chelsea vào ngày 3 tháng 4.

Manchester United

[sửa | sửa mã nguồn]
Eriksen taking a free kick for Manchester United on the opening day of the 2022–23 Premier League season

Vào ngày 15 tháng 7 năm 2022, Manchester United thông báo rằng họ đã đạt được thỏa thuận ký hợp đồng với Eriksen trong vòng ba năm. Vào ngày 28 tháng 7 năm 2022, người ta xác nhận rằng anh sẽ mặc áo số 14. Vào ngày 7 tháng 8, Eriksen ra mắt câu lạc bộ trong trận thua 2-1 trên sân nhà trước Brighton & Hove Albion. Anh có pha kiến ​​tạo đầu tiên cho câu lạc bộ trong chiến thắng 3-1 trên sân nhà trước kình địch Arsenal khi kiến ​​tạo cho Marcus Rashford ghi bàn thứ hai.

Sự nghiệp đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội trẻ

[sửa | sửa mã nguồn]

Eriksen được gọi vào đội tuyển U-17 Đan Mạch vào tháng 7 năm 2007, và thi đấu xuất sắc ngay từ lần ra mắt ngày 31 tháng 7.[64][65] Năm 2008, anh ghi 9 bàn trên 16 trận cho U-17 Đan Mạch và được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất lứa tuổi U-17 Đan Mạch năm 2008 bởi Liên đoàn Bóng đá Đan Mạch.[66] Anh còn được đề cử vào danh sách rút gọn 4 ứng cử viên cho danh hiệu cầu thủ trẻ Đan Mạch xuất sắc nhất năm 2008[67] và sau cùng người giành danh hiệu này là Mathias Jørgensen.[66] Anh có 27 trận đấu cho U-17 Đan Mạch đến tháng 2 năm 2009. Trong năm 2009, anh có 8 trận đấu cho U-18 và U-19 Đan Mạch. Eriksen là thành viên U-21 Đan Mạch tham dự Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2011 ngay tại Đan Mạch nhưng đội chủ nhà bị loại sau vòng bảng và Eriksen ghi được một bàn vào lưới U-21 Belarus.

Đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Eriksen thi đấu cho đội tuyển Đan Mạch tại UEFA Euro 2012.

Anh được triệu tập vào đội tuyển Đan Mạch lần đầu tiên vào tháng 2 năm 2010[68], có trận ra mắt vào tháng 3 gặp Áo[69], và trở thành cầu thủ trẻ thứ tư khoác áo đội tuyển và là cầu thủ trẻ nhất kể từ thời Michael Laudrup.[70] Ngày 28 tháng 5 năm 2010, huấn luyện viên Morten Olsen đã đưa Eriksen vào danh sách 23 cầu thủ tham dự World Cup 2010 tại Nam Phi.[71] Điều này giúp anh trở thành cầu thủ trẻ nhất tại giải đấu.[6][72] Tại World Cup 2010, Eriksen thi đấu hai trận vòng bảng với Hà Lan và Nhật Bản, chung cuộc Đan Mạch bị loại sau trận thua 1-3 trước đội tuyển Nhật.[73][74]

Ngày 9 tháng 2 năm 2011, trong trận giao hữu thua đội tuyển Anh 1-2, Eriksen được chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu và nhận được nhiều lời khen ngợi từ Frank Lampard[75], Rio Ferdinand (on Twitter)[76], huấn luyện viên Morten Olsen và truyền thông Đan Mạch cũng như Anh.[77] Ngày 4 tháng 6 năm 2011 Eriksen ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển trong chiến thắng 2-0 trước Iceland tại vòng loại Euro 2012. Bàn thắng này giúp anh trở thành cầu thủ Đan Mạch trẻ nhất ghi bàn tại vòng loại Euro, kỷ lục trước đó thuộc về Michael Laudrup năm 1983.[78]

Ngày 7 tháng 11 năm 2011, anh được trao danh hiệu Cầu thủ Đan Mạch xuất sắc nhất năm sau khi giúp Ajax vô địch Eredivisie mùa giải 2010-11 và có một chiến dịch vòng loại Euro 2012 cực kỳ thành công với đội tuyển Đan Mạch. Eriksen nói trong lễ trao giải:"Tôi rất tự hào khi đứng ở bục trao giải tối nay. Tôi thực sự bất ngờ vì giải thưởng này và nó rất ý nghĩa với tôi. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các đồng đội ở tuyển quốc gia và ở Ajax".[79]

UEFA Euro 2012

[sửa | sửa mã nguồn]

Eriksen tham dự Euro 2012 với sự đánh giá cao và kỳ vọng rất lớn sẽ tỏa sáng[80] khi là cầu thủ đầu tiên trong lịch sử đội tuyển Đan Mạch đạt đến cột mốc 25 lần khoác áo đội tuyển quốc gia khi mới 20 tuổi.[81] Tuy nhiên mặc dù đã được ra sân ở cả ba trận đấu tại bảng đấu tử thần, song chỉ có vỏn vẹn ba cú sút với không bàn thắng và không pha kiến tạo.[82][83]

World Cup 2018

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Bảng E Vòng loại World Cup 2018, Eriksen ghi được 8 bàn sau 10 trận để giúp Đan Mạch đứng nhì bảng giành quyền dự tranh play-off tham dự World Cup với Cộng hòa Ireland.[84] Trong trận lượt đi hai đội hòa nhau 0-0 nhưng trong trận lượt về Eriksen đã lập hat-trick giúp Đan Mạch đánh bại Ireland 5–1.[85] Với 11 bàn thắng, Eriksen là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ ba tại vòng loại World Cup khu vực châu Âu, sau Robert Lewandowski (16 bàn) và Cristiano Ronaldo (15 bàn).[86]

Tại World Cup 2018, anh chỉ có được một bàn thắng trong trận hòa 1-1 trước Úc ở lượt trận thứ hai vòng bảng.[87] Trước đó trong trận đấu đầu tiên ở giải đấu với Peru, anh là người có đường chọc khe cho Yussuf Poulsen ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu.[88] Đội tuyển Đan Mạch sau đó lọt vào vòng 16 đội và thua Croatia ở loạt sút penalty sau 120 phút hòa 1-1, trong đó Eriksen đá hỏng quả penalty đầu tiên khi không đánh bại được thủ môn Danijel Subašić.[89]

Sự cố ngưng tim tại UEFA Euro 2020

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong trận đấu mở màn Euro 2020 của Đan Mạch với Phần Lan vào ngày 12 tháng 6 năm 2021, Eriksen ngã xuống đất dù không va chạm với bất kỳ cầu thủ nào trên sân và được hồi sức tim phổi. Trận đấu bị tạm dừng.[90] Ngay sau đó, Eriksen đã được chuyển đến Rigshospitalet và đã dần ổn định. Tuy nhiên sau khi xuất viện, anh vẫn phải về nhà nghỉ ngơi một thời gian dài[91] Từ đó, Eriksen đã phải chia tay Euro 2020.

Vào ngày 26 tháng 3 năm 2022, Anh trở lại đội tuyển quốc gia sau một thời gian dài nghỉ thi đấu vì sự cố ở Euro 2020 trong trận thua 2–4 trước Hà Lan, anh vào sân ở hiệp 1 và ghi bàn thắng 2 phút sau đó. Ba ngày sau đó, anh đóng góp bàn thắng cuối cùng trong chiến thắng 3–0 trước Serbia.

Phong cách thi đấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Huấn luyện viên Ajax Martin Jol đã so sánh Eriksen với các thế hệ cầu thủ đi trước cũng trưởng thành từ Ajax là Wesley Sneijder và Rafael van der Vaart. Ông đánh giá cầu thủ người Đan Mạch đọc trận đấu rất tốt và là một số 10 cổ điển như hai tiền vệ kể trên và huyền thoại bóng đá Đan Mạch Michael Laudrup.[15][92] Khả năng kiến tạo thành bàn là điểm mạnh nhất của Eriksen.[93]

Tuy nhiên điểm yếu của Eriksen là phong độ trong những trận đấu lớn. Khi còn chơi bóng ở giải vô địch quốc gia Hà Lan, anh thường tỏa sáng khi Ajax chạm trán những đối thủ trung bình như nhưng cần tới 3 năm mới có thể chọc thủng lưới PSV Eindhoven, một đội bóng lớn tại Hà Lan.[94]

Thống kê sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn] Tính đến 19 tháng 5 năm 2024[95][96]
Câu lạc bộ Mùa giải Giải đấu Cúp quốc gia Cúp liên đoàn Châu Âu1 Khác2 Tổng cộng
Giải đấu Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Ajax 2009–10 Eredivisie 15 0 4 1 2 0 21 1
2010–11 28 6 6 1 12 1 1 0 47 8
2011–12 33 7 2 0 8 1 1 0 44 8
2012–13 33 10 4 2 8 1 45 13
2013–14 4 2 0 0 0 0 1 0 5 2
Tổng cộng 113 25 16 4 30 3 3 0 162 32
Tottenham Hotspur 2013–14 Premier League 25 7 1 0 1 0 9 3 36 10
2014–15 38 10 2 0 4 2 4 0 48 12
2015–16 38 6 4 1 1 0 7 1 50 8
2016–17 36 8 3 1 1 2 8 1 48 12
2017–18 37 10 2 2 1 0 6 2 46 14
2018–19 35 8 0 0 4 0 12 2 51 10
2019–20 20 2 0 0 1 0 5 1 14 2
Tổng cộng 226 51 15 4 13 4 51 10 305 69
Inter Milan 2019–20[97] Serie A 17 1 3 1 6[a] 2 26 4
2020–21[98] 26 3 4 1 4[b] 0 34 4
Tổng cộng 43 4 7 2 10 2 60 8
Brentford 2021–22[99] Premier League 11 1 0 0 11 1
Manchester United 2022–23[100] 19 1 2 0 4 1 6[a] 0 31 2
2023–24[101] 22 1 2 0 0 0 4[b] 0 28 1
Tổng cộng 50 2 6 0 4 1 12 0 72 3
Tổng cộng sự nghiệp 443 83 44 10 17 5 103 15 3 0 610 113

1 Bao gồm UEFA Champions League và UEFA Europa League. 2 Bao gồm Johan Cruijff Shield.

Đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn] Tính đến ngày 29 tháng 6 năm 2024[102]
Đội tuyển quốc gia Đan Mạch
Năm Trận Bàn
2010 10 0
2011 10 2
2012 11 0
2013 11 2
2014 7 1
2015 8 1
2016 11 6
2017 9 9
2018 10 4
2019 10 6
2020 8 5
2021 6 0
2022 11 3
2023 6 1
2024 8 2
Tổng cộng 134 42

Bàn thắng cho đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]
# Ngày Địa điểm Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1. 4 tháng 6 năm 2011 Laugardalsvöllur, Reykjavík, Iceland  Iceland 2–0 2–0 Vòng loại UEFA Euro 2012
2. 10 tháng 8 năm 2011 Hampden Park, Glasgow, Scotland  Scotland 1–1 1–2 Giao hữu
3. 5 tháng 6 năm 2013 Nordjyske Arena, Aalborg, Đan Mạch  Gruzia 2–1 2–1
4. 14 tháng 8 năm 2013 PGE Arena Gdańsk, Gdansk, Ba Lan  Ba Lan 1–1 2–3
5. 22 tháng 5 năm 2014 Sân vận động Nagyerdei, Debrecen, Hungary  Hungary 2–2
6. 8 tháng 6 năm 2015 Sân vận động Viborg, Viborg, Đan Mạch  Montenegro 2–1
7. 7 tháng 6 năm 2016 Sân vận động bóng đá thành phố Suita, Suita, Nhật Bản  Bulgaria 2–0 4–0 Cúp Kirin 2016
8. 3–0
9. 4–0
10. 4 tháng 9 năm 2016 Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch  Armenia 1–0 1–0 Vòng loại FIFA World Cup 2018
11. 11 tháng 11 năm 2016  Kazakhstan 2–1 4–1
12. 4–1
13. 6 tháng 6 năm 2017 Sân vận động Brøndby, Brøndby, Đan Mạch  Đức 1–0 1–1 Giao hữu
14. 10 tháng 6 năm 2017 Astana Arena, Astana, Kazakhstan  Kazakhstan 2–0 3–1 Vòng loại FIFA World Cup 2018
15. 1 tháng 9 năm 2017 Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch  Ba Lan 4–0 4–0
16. 4 tháng 9 năm 2017 Sân vận động Cộng hòa Vazgen Sargsyan, Yerevan, Armenia  Armenia 2–1 4–1
17. 5 tháng 10 năm 2017 Sân vận động Goricom, Podgorica, Montenegro  Montenegro 1–0 1–0
18. 8 tháng 10 năm 2017 Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch  România 1–1
19. 14 tháng 11 năm 2017 Sân vận động Aviva, Dublin, Ireland  Cộng hòa Ireland 2–1 4–0
20. 3–1
21. 4–1
22. 9 tháng 6 năm 2018 Sân vận động Brøndby, Brøndby, Đan Mạch  México 2–0 2–0 Giao hữu
23. 21 tháng 6 năm 2018 Cosmos Arena, Samara, Nga  Úc 1–0 1–1 FIFA World Cup 2018
24. 9 tháng 9 năm 2018 Idrætspark, Aarhus, Đan Mạch  Wales 2–0 UEFA Nations League 2018–19
25. 2–0
26. 21 tháng 3 năm 2019 Sân vận động Fadil Vokrri, Pristina, Kosovo  Kosovo 1–1 2–2 Giao hữu
27. 10 tháng 6 năm 2019 Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch  Gruzia 2–1 5–1 Vòng loại UEFA Euro 2020
28. 5 tháng 9 năm 2019 Sân vận động Victoria, Gibraltar  Gibraltar 2–0 6–0
29. 3–0
30. 15 tháng 11 năm 2019 Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch 5–0
31. 6–0
32. 7 tháng 10 năm 2020 MCH Arena, Herning, Đan Mạch  Quần đảo Faroe 2–0 4–0 Giao hữu
33. 11 tháng 10 năm 2020 Laugardalsvöllur, Reykjavík, Iceland  Iceland 3–0 UEFA Nations League 2020–21
34. 14 tháng 10 năm 2020 Sân vận động Wembley, London, Anh  Anh 1–0 1–0
35. 15 tháng 11 năm 2020 Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch  Iceland 2–1
36. 2–1
37. 26 tháng 3 năm 2022 Johan Cruyff Arena, Amsterdam, Hà Lan  Hà Lan 2–3 2–4 Giao hữu
38. 29 tháng 3 năm 2022 Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch  Serbia 3–0 3–0
39. 22 tháng 9 năm 2022 Sân vận động Maksimur, Zagreb, Croatia  Croatia 1–1 1–2 UEFA Nations League 2022–23
40. 7 tháng 9 năm 2023 Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch  San Marino 4–0 4–0 Vòng loại UEFA Euro 2024
41. 5 tháng 6 năm 2024  Thụy Điển 2–1 2–1 Giao hữu
42. 16 tháng 6 năm 2024 MHPArena, Stuttgart, Đức  Slovenia 1–0 1–1 UEFA Euro 2024

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Ajax

  • Eredivisie: 2010–11, 2011–12, 2012–13
  • KNVB Cup: 2009–10[18]
  • Johan Cruyff Shield: 2013

Inter Milan

  • Serie A: 2020–21

Manchester United

  • FA Cup: 2023–24[103]
  • EFL Cup: 2022–23

Cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của AFC Ajax: 2010
  • Cầu thủ xuất sắc nhất năm của AFC Ajax: 2011[27]
  • Cầu thủ xuất sắc nhất năm của bóng đá Hà Lan (1): 2011[29]
  • Cầu thủ Đan Mạch xuất sắc nhất năm lứa tuổi U-17: 2008[13]
  • Cầu thủ Đan Mạch xuất sắc nhất năm (4): 2011, 2013, 2014, 2017
  • Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Tottenham Hotspur (2): 2013–14, 2016–17
  • Đội hình xuất sắc nhất giải Ngoại hạng Anh trong mùa của Hiệp hội Cầu thủ Chuyên nghiệp Anh (PFA): 2017-18
  • Bàn thắng đẹp nhất tháng Giải bóng đá Ngoại Hạng Anh: tháng 4 năm 2018

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “FIFA World Cup Russia 2018: List of Players: Denmark” (PDF). FIFA. ngày 15 tháng 7 năm 2018. tr. 8. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2019.
  2. ^ “Christian Eriksen”. Barry Hugman's Footballers.
  3. ^ “Christian Eriksen: Overview”. Premier League. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  4. ^ “Tottenham confirm the signing of midfielder Christian Eriksen from Ajax” (bằng tiếng Anh). Sky Sports. ngày 31 tháng 8 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2017.
  5. ^ Sandford, Daniel (ngày 2 tháng 4 năm 2019). “HERE TO ASSIST Christian Eriksen assists: Tottenham playmaker equals Manchester United legend David Beckham's Premier League record”. talkSport. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  6. ^ a b “World Cup squads: The story of the stats | FIFA World Cup 2010 |”. STV Sport. ngày 2 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2010.
  7. ^ “Tottenham's Christian Eriksen one of the world's top 10 players, says Denmark boss Age Hareide”. Sky Sports. ngày 15 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2017.
  8. ^ Pender, Kieran (ngày 1 tháng 7 năm 2018). “Croatia's Luka Modric fluffs big line but still prevails in duel with Eriksen”. The Guardian. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  9. ^ “OB.dk tabte bronzekamp ved Drenge DM” (bằng tiếng Đan Mạch). OB.dk. ngày 7 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010.[liên kết hỏng]
  10. ^ “Dansk Mesterskab til OB's 1. drenge” (bằng tiếng Đan Mạch). OB.dk. ngày 13 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010.[liên kết hỏng]
  11. ^ “FC Barcelona kigger på OB-talent” (bằng tiếng Đan Mạch). B.T. ngày 4 tháng 4 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2013.
  12. ^ 'De eerste stap moest niet te groot zijn, Ajax was fantastische optie'” (bằng tiếng Hà Lan). Voetbalzone.nl. ngày 28 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2011.
  13. ^ a b “Danish starlet Eriksen opts for Ajax”. UEFA.com. ngày 17 tháng 10 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
  14. ^ “Wenger eager to sign up Ajax starlet after Bergkamp's endorsemsent”. Sport.co.uk. ngày 23 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2010.
  15. ^ a b “Eriksen puts faith in Ajax way by Berend Scholten”. UEFA.com. ngày 13 tháng 3 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  16. ^ “Eriksen fik debut i Ajax” (bằng tiếng Đan Mạch). Danmarks Radio. ngày 17 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2010.
  17. ^ “Eriksen tot 2014 bij Ajax” (bằng tiếng Hà Lan). Telegraaf.nl. ngày 10 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010.
  18. ^ a b “Report: Feyenoord Rotterdam vs Ajax Amsterdam – Dutch Cup”. ESPN Soccernet. ngày 6 tháng 5 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2010.
  19. ^ “Denmark – Christian Eriksen profile”. Soccerway. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2013.
  20. ^ “Ajax maakt rugnummers bekend” (bằng tiếng Hà Lan). Parool.nl. ngày 19 tháng 7 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2010.
  21. ^ “De Graafschap vs. Ajax”. Soccerway. ngày 29 tháng 8 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011.
  22. ^ “Ajax vs. Veendam”. Soccerway. ngày 11 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011.
  23. ^ “Christian Eriksen er Årets Talent 2010” (bằng tiếng Đan Mạch). Dr.dk. ngày 7 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011.
  24. ^ “Vitesse vs. Ajax”. Soccerway. ngày 12 tháng 12 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011.
  25. ^ “Ruthless Ajax make Anderlecht pay the penalty”. UEFA.com. ngày 17 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  26. ^ “Willem II vs. Ajax”. Soccerway. ngày 13 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  27. ^ a b “Stekelenburg Ajacied van het Jaar, Christian Eriksen Talent van het Jaar” (bằng tiếng Hà Lan). Ajax.nl. ngày 15 tháng 5 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  28. ^ “Euro 2012: The players to look out for - Denmark - Christian Eriksen”. Football.co.uk. ngày 8 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2013.
  29. ^ a b Berend Scholten (ngày 23 tháng 5 năm 2011). “Janssen named Netherlands' finest –”. Uefa.com. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  30. ^ “Stylish Ajax eliminate Dinamo”. UEFA. ngày 2 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  31. ^ “De statistieken van ruim vier jaar Eriksen”. Ajax Showtime. ngày 30 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  32. ^ “Eriksen Arrives”. Tottenham Hotspur. ngày 30 tháng 8 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2013.
  33. ^ “CHÍNH THỨC: Tottenham mua Eriksen với giá 11,5 triệu bảng”. Thể thao và Văn hóa. ngày 31 tháng 8 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2013.
  34. ^ “Tottenham 2 Norwich 0: Christian Eriksen shines as Spurs begin life without Bale”. Daily Star. ngày 14 tháng 9 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2013.
  35. ^ “Eriksen proves life goes on for Spurs after Bale”. Reuters. ngày 14 tháng 9 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2013.
  36. ^ “Christian Eriksen scores wonderful debut goal vs Tromsø”. Inside World Soccer. ngày 20 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2013.
  37. ^ “Tottenham Hotspur 1-1 West Bromwich Albion - as it happened”. Sports Mole. ngày 26 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2013.
  38. ^ “Tottenham: Đã đến thời của Eriksen”. Bóng Đá +. ngày 2 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2014.
  39. ^ “Tottenham Hotspur 3–2 Southampton”. BBC Sport. ngày 23 tháng 3 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2014.
  40. ^ “West Brom 3–3 Tottenham”. BBC Sport. ngày 12 tháng 4 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2014.
  41. ^ “Sunderland 2-2 Tottenham Hotspur”. BBC Sport. ngày 13 tháng 9 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2014.
  42. ^ “Sheff Utd 2–2 Tottenham”. BBC Sport. ngày 28 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2016.
  43. ^ “Christian Eriksen named Danish Player of the Year for record third year in row”. ESPN FC. ngày 11 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2016.
  44. ^ “Chelsea 2-1 Tottenham Hotspur”. BBC Sport. ngày 26 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2016.
  45. ^ “Tottenham 5-0 Swansea: Harry Kane and Christian Eriksen both score twice as Spurs return to winning ways at White Hart Lane”. Daily Mail Online. ngày 3 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2016.
  46. ^ “Thắng sát nút, Tottenham tiếp tục bám đuổi Chelsea”. VnExpress. ngày 27 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2017.
  47. ^ “Những chân chuyền tốt nhất châu Âu mùa giải 2016-2017”. VnExpress. 7 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2017.
  48. ^ “Christian Eriksen happy to move Nicklas Bendtner to the side after his record-breaking goal against West Ham”. The Independent. ngày 24 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= (trợ giúp)
  49. ^ “Tottenham thắng trận đầu tiên tại Wembley”. VnExpress. 15 tháng 10 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2017.
  50. ^ 'We've had knocks' - Christian Eriksen admits Spurs' players had to get used to something new”. Football.london. ngày 15 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2018.
  51. ^ Floyd, Thomas (ngày 31 tháng 1 năm 2018). “Eriksen scores after 11 seconds for Spurs against Man Utd”. Goal.com. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2018.
  52. ^ “Eriksen scores after 11 seconds for 3rd fastest EPL goal”. The Washington Times. ngày 31 tháng 1 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2018.
  53. ^ Pearlman, Michael (ngày 17 tháng 3 năm 2018). “Swansea City 0–3 Tottenham Hotspur”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2018.
  54. ^ “WATCH: Christian Eriksen's 'rainbow' stunner in Tottenham's win over Chelsea”. Sky Sports. ngày 1 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2018.
  55. ^ “Christian Eriksen wins Goal of the Month for strike in Tottenham win over Chelsea”. Sky Sports. ngày 9 tháng 5 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2018.
  56. ^ “Man City trút giận lên Tottenham”. VnExpress. ngày 15 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2018.
  57. ^ “Manchester City players dominate PFA team of the year”. BBC Sport. ngày 18 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2018.
  58. ^ “Christian Eriksen: Inter Milan midfielder not allowed to resume career in Italy due to ICD”. tv.com. 29 tháng 10 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2021.
  59. ^ “Christian Eriksen: Inter Milan midfielder 'training by himself' at former club Odense Boldklub”. Sky Sports. 2 tháng 12 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2021.
  60. ^ “Inter Milan terminate Eriksen contract”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2021.
  61. ^ “Inter Milan và Eriksen đồng ý chấm dứt hợp đồng”. ZingNews.vn. 17 tháng 12 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2021.
  62. ^ “Brentford confirm signing of Christian Eriksen”. Brentford F.C. 31 tháng 1 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2022.
  63. ^ “Eriksen returns in Brentford defeat”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2022.
  64. ^ “U/17-landsholdet til Internordisk Cup” (bằng tiếng Đan Mạch). DBU.dk. ngày 9 tháng 7 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010.
  65. ^ “Tre point mod Færøerne” (bằng tiếng Đan Mạch). DBU.dk. ngày 31 tháng 7 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010.
  66. ^ a b “Lumb og Eriksen nyeste Arla Landsholdstalenter” (bằng tiếng Đan Mạch). DBU.dk. ngày 5 tháng 12 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010.
  67. ^ “Danmarks fire største talenter” (bằng tiếng Đan Mạch). DBU.dk. ngày 24 tháng 10 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010.
  68. ^ “Christian Eriksen: Det er helt vildt” (bằng tiếng Đan Mạch). Bold.dk. ngày 26 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010.
  69. ^ “Eriksen: Helt specielt med debut – TV 2 Sporten” (bằng tiếng Đan Mạch). Sporten-dyn.tv2.dk. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010.
  70. ^ “A-landsholdspillere – Yngste debutant” (bằng tiếng Đan Mạch). www.haslund.info. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2010.
  71. ^ “Olsen names final Denmark squad”. UEFA.com. ngày 28 tháng 5 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2010.
  72. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên youngest2
  73. ^ “Netherlands vs. Denmark”. Soccerway. ngày 17 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011.
  74. ^ “Denmark vs. Japan”. Soccerway. ngày 24 tháng 6 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011.
  75. ^ “Stjerne: Eriksen kan blive topspiller” (bằng tiếng Đan Mạch). spn.dk. ngày 9 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2011.
  76. ^ “Ferdinand skamroser Eriksen på Twitter” (bằng tiếng Đan Mạch). Sporten.dk. ngày 9 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2011.
  77. ^ “Engelske medier jubler over Eriksen” (bằng tiếng Đan Mạch). spn.dk. ngày 9 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2011.
  78. ^ “Ajacied Eriksen speelt Laudrup uit de boeken” (bằng tiếng Hà Lan). Ad.nl. ngày 16 tháng 5 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  79. ^ “Eriksen and Pedersen honoured in Denmark”. UEFA. ngày 8 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  80. ^ “5 cầu thủ gây thất vọng nhất vòng bảng Euro 2012”. Dân trí. ngày 21 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2013.
  81. ^ "Chứng nhân lịch sử" Christian Eriksen: 2 vạn người chọn ra một người”. Báo Thể thao và Văn hóa. ngày 17 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2013.
  82. ^ “Đội hình sao gây thất vọng nhất EURO 2012”. Báo Điện tử An Ninh Thủ Đô. ngày 30 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2013.
  83. ^ “Vì sao M.U không nên mua Eriksen?”. Báo Công lý. ngày 17 tháng 7 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2013.
  84. ^ “Christian Eriksen is danger for Ireland”. The Irish Times. 18 tháng 10 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2017.
  85. ^ Hafez, Shamoon (ngày 14 tháng 11 năm 2017). “Republic of Ireland 1–5 Denmark (agg: 1–5)”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2017.
  86. ^ “Tottenham's Christian Eriksen one of the world's top 10 players, says Denmark boss Age Hareide”. Sky Sports. ngày 15 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2017.
  87. ^ “Denmark 1-1 Australia”. BBC Sport. ngày 21 tháng 6 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2018.
  88. ^ “Đan Mạch may mắn hạ Peru ở trận ra quân World Cup 2018”. VnExpress. ngày 17 tháng 6 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2018.
  89. ^ Pender, Kieran (ngày 1 tháng 7 năm 2018). “Croatia's Luka Modric fluffs big line but still prevails in duel with Eriksen”. The Guardian. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2018.
  90. ^ “Euro 2020: Eriksen 'awake' in hospital after collapsing on pitch”. BBC Sport. ngày 12 tháng 6 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2021.
  91. ^ “Christian Eriksen: Denmark player 'awake and stabilised' in hospital after being given CPR following on-pitch collapse”. Sky News. ngày 12 tháng 6 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2021.
  92. ^ “Christian Eriksen: The new Laudrup”. IMScouting. ngày 27 tháng 5 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2010.
  93. ^ “Oscar vs. Eriksen: Nhạc trưởng so đũa chỉ huy”. Thể thao và Văn hóa. ngày 28 tháng 9 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2013.
  94. ^ “Eriksen và Mata – hai số phận trái ngược”. Bóng Đá +. ngày 29 tháng 9 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  95. ^ “Christian Eriksen”. ESPN. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2012.
  96. ^ “Christian Eriksen”. Soccerbase. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2012.
  97. ^ “Trận thi đấu của Christian Eriksen trong 2019/2020”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2022.
  98. ^ “Trận thi đấu của Christian Eriksen trong 2020/2021”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2022.
  99. ^ “Trận thi đấu của Christian Eriksen trong 2021/2022”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2022.
  100. ^ “Trận thi đấu của Christian Eriksen trong 2022/2023”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2023.
  101. ^ “Trận thi đấu của Christian Eriksen trong 2023/2024”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2024.
  102. ^ Christian Eriksen tại National-Football-Teams.com
  103. ^ “Manchester City 1–2 Manchester United: Line-ups”. BBC Sport. 25 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Christian Eriksen.
  • Christian Eriksen tại National-Football-Teams.com
  • Thông tin về Christian Eriksen tại đội tuyển quốc gia Đan Mạch Lưu trữ 2010-07-01 tại Wayback Machine
  • Thông tin về Christian Eriksen tại Voetbal International Lưu trữ 2010-07-26 tại Wayback Machine
  • x
  • t
  • s
Tài năng Ajax Amsterdam trẻ xuất sắc nhất năm (Giải thưởng Marco van Basten)
  • 1994: Oulida
  • 1995: Kanu
  • 1996: Wooter
  • 1997: Melchiot
  • 1998: McCarthy
  • 1999: Knopper
  • 2000: Chivu
  • 2001: Van der Vaart
  • 2002: Maxwell
  • 2003: Pienaar
  • 2004: Mitea
  • 2005: Maduro
  • 2006: Emanuelson/Vermaelen
  • 2007: Babel
  • 2008: Vertonghen
  • 2009: Van der Wiel
  • 2010: Alderweireld
  • 2011: Eriksen
  • 2012: Van Rhijn
  • 2013: Fischer
  • 2014: Klaassen
  • 2015: El Ghazi
  • 2016: Bazoer
  • 2017: Dolberg
  • 2018: De Ligt
  • 2019: Mazraoui
  • 2020: Dest
  • 2021: Gravenberch
  • 2022: Timber
  • 2023: Taylor
  • x
  • t
  • s
Manchester United F.C. – đội hình hiện tại
  • Bayındır
  • Lindelöf
  • Mazraoui
  • De Ligt
  • Maguire
  • Martínez
  • Mount
  • Fernandes (c)
  • Højlund
  • 10 Rashford
  • 11 Zirkzee
  • 12 Malacia
  • 14 Eriksen
  • 15 Yoro
  • 16 Diallo
  • 17 Garnacho
  • 18 Casemiro
  • 20 Dalot
  • 21 Antony
  • 22 Heaton
  • 23 Shaw
  • 24 Onana
  • 25 Ugarte
  • 35 Evans
  • 36 Wheatley
  • 37 Mainoo
  • 41 Amass
  • 43 Collyer
  • 44 Gore
  • Huấn luyện viên: Amorim
  • x
  • t
  • s
Cầu thủ xuất sắc nhất Đan Mạch
  • 1961: H. Nielsen
  • 1963: Petersen
  • 1964: Madsen
  • 1965: K. Poulsen
  • 1966: L. Nielsen
  • 1967: J. Hansen
  • 1968: H. Jensen
  • 1969: Michaelsen
  • 1970: Larsen
  • 1971: Pedersen
  • 1972: Røntved
  • 1973: Aabech
  • 1974: Holmstrøm
  • 1975: H. Jensen
  • 1976: Ahlberg
  • 1977: A. Hansen
  • 1978: Kjær
  • 1979: Bertelsen
  • 1980: Bastrup
  • 1981: A. Hansen
  • 1982: M. Laudrup
  • 1983: M. Olsen
  • 1984: Elkjær
  • 1985: M. Laudrup
  • 1986: M. Olsen
  • 1987: J. Jensen
  • 1988: L. Olsen
  • 1989: B. Laudrup
  • 1990: Schmeichel
  • 1991: Vilfort
  • 1992: B. Laudrup
  • 1993: Schmeichel
  • 1994: Helveg
  • 1995: B. Laudrup
  • 1996: A. Nielsen
  • 1997: B. Laudrup
  • 1998: Sand
  • 1999: Schmeichel
  • 2000: Henriksen
  • 2001: Sand
  • 2002: Tomasson
  • 2003: Wieghorst
  • 2004: Tomasson
  • 2005: C. Poulsen
  • 2006: C. Poulsen
  • 2007: Agger
  • 2008: Laursen
  • 2009: Kjær
  • 2010: Kvist
  • 2011: Kvist
  • 2012: Agger
  • 2013: Eriksen
  • 2014: Eriksen
  • 2015: Eriksen
  • 2016: K. Schmeichel
  • 2017: Eriksen
  • 2018: Eriksen
  • 2019: K. Schmeichel
  • 2020: K. Schmeichel
  • 2021: Kjær
  • 2022: Højbjerg
  • 2023: Christensen

Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/> tương ứng

Từ khóa » Tiền Vệ Người đan Mạch