Chủ Nghĩa Xã Hội Là Gì? Xây Dựng Chủ Nghĩa Xã Hội Như Thế Nào?
Có thể bạn quan tâm
Chủ nghĩa xã hội bao gồm các tư tưởng chính trị ủng hộ một hệ thống kinh tế-xã hội mà trong đó các sở hữu và các tài sản là thuộc quyền điều khiển của toàn thể cộng đồng nhằm mục đích tiến đến sự công bằng trong xã hội và trong kinh tế cũng như tiến đến một sự hợp tác tốt hơn.
Quyền điều khiển có thể là trực tiếp qua một tập thể như hình thức công đoàn hay gián tiếp qua hình thức nhà nước. Nhìn theo khía cạnh kinh tế thì chủ nghĩa xã hội có đặc tính là sự sở hữu của các phương tiện sản xuất đã được "cộng đồng hóa".
Phong trào xã hội hiện nay bắt đầu từ phong trào của giai cấp lao động trong cuối thế kỷ 19. Trong thời gian đó, cụm từ "chủ nghĩa xã hội" thường được dùng để nói về những phê phán của các nhà phê bình xã hội châu Âu khi họ phê bình về chủ nghĩa tư bản và về khái niệm sở hữu riêng. Đối với Karl Marx, người đã đóng góp một phần lớn trong việc xây dựng phong trào xã hội hiện đại, thì chủ nghĩa xã hội sẽ là một hệ thống kinh tế-xã hội sau khi một cuộc cách mạng đã nổ ra để chuyển quyền điều khiển các phương tiện sản xuất từ tay của một số ít sang tay của một tập thể. Sau đó, xã hội đó sẽ tiến sang chủ nghĩa cộng sản.
Quan niệm về chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Marx: (góc độ lý luận):
- Là tổng hợp các tư tưởng phản ảnh các cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột giữa giai cấp bị áp bức, bóc lột và giai cấp bóc lột đang là giai cấp thống trị.
- Là tổng hợp các tư tưởng phản ảnh những ước mơ, nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu của con người mà trước hết là những người lao động nghèo khổ về một xã hội tương lai tốt đẹp không có áp bức bóc lột.
- Là tổng hợp những (phương pháp, cách thức, con đường) giải pháp khả thi để đi đến xã hội mong muốn đó.
* Việc xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn cần phải xuất phát từ sự cụ thể hóa mục tiêu bao trùm đó, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu: là một xã hội do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;... Việc định hình ngày càng chính xác mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ định hướng cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta đi tới thành công.
Trong những năm trước đổi mới, ở Việt Nam và các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, người ta thường nhắc tới khái niệm mô hình chủ nghĩa xã hội. Vào thời kỳ đó, đã có lúc mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trở thành hình mẫu lý tưởng cho các nước đang phát triển đi theo con đường này. Nhưng, đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, giới lý luận marxism ở Việt Nam đã tiến hành phân tích một loạt nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan và đi đến kết luận rằng, đó là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể về chủ nghĩa xã hội chứ không phải là sự sụp đổ của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội. Trong suốt một thời gian dài, khoảng hơn 20 năm, ít người nói đến mô hình chủ nghĩa xã hội. Nhưng, đến những năm gần đây, cùng với những thành công to lớn của công cuộc đổi mới, cải cách, mở cửa ở Việt Nam và Trung Quốc, giới lý luận hai nước đã đặt lại vấn đề mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc. Vậy, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có những đặc trưng và đặc điểm gì?
Trước hết, để hiểu thế nào là mô hình chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần làm rõ khái niệm mô hình phát triển xã hội là gì?
Mô hình phát triển xã hội là khái niệm để chỉ chủ thể của hoạt động xã hội sử dụng các phương tiện, phương thức để đạt được mục tiêu phát triển trong thực tiễn phát triển xã hội, là những khái quát chung nhất về mục tiêu và con đường hay cách thức để hiện thực hóa quá trình chuyển biến của xã hội từ trình độ thấp sang trình độ cao.
Xét trên phương diện phổ quát nhất, mô hình phát triển xã hội bao gồm các phương diện chủ yếu sau: thứ nhất, nhìn từ góc độ bản chất, mô hình phát triển xã hội là sự thống nhất giữa mục tiêu phát triển và con đường hiện thực hóa mục tiêu; thứ hai, nhìn từ góc độ nội dung, mô hình phát triển xã hội là chỉnh thể hữu cơ của các mô hình phát triển trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, như mô hình phát triển kinh tế, mô hình phát triển chính trị, mô hình phát triển xã hội, mô hình phát triển văn hóa...; thứ ba, nhìn từ góc độ hình thức, mô hình phát triển xã hội hết sức đa dạng, có những biểu hiện đặc thù do điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của từng quốc gia dân tộc quy định.
Trên thực tế, thế giới đã từng chứng kiến hai mô hình phát triển xã hội tiêu biểu nhất, đã được hiện thực hóa, song song tồn tại, đó là mô hình chủ nghĩa tư bản và mô hình chủ nghĩa xã hội. Nhưng bản thân các mô hình chủ nghĩa tư bản lẫn mô hình chủ nghĩa xã hội cũng luôn có những dạng cụ thể khác nhau. Đối với mô hình của chủ nghĩa tư bản, ngoài những đặc trưng chung nhất để phân biệt nó với mô hình chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể kể ra một số dạng thức cụ thể của mô hình này như sau:
Một là, mô hình chủ nghĩa tư bản châu Âu truyền thống. Đây là mô hình của một số nước phát triển ở Tây Âu với mục tiêu gắn sự phát triển xã hội với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đặc trưng chủ yếu của loại mô hình này là phát triển kinh tế thị trường xã hội, đề cao tầm quan trọng về tầm nhìn và sự điều tiết của nhà nước đối với phát triển kinh tế; coi trọng sự vận hành lành mạnh và ổn định của nền kinh tế, nhấn mạnh đến công bằng thị trường; chú trọng việc xây dựng phúc lợi xã hội; v.v..
Hai là, mô hình kinh tế thị trường tự do Mỹ. Nền tảng của loại mô hình này là đề cao sự tự điều chỉnh của thị trường, song vẫn chấp nhận sự điều tiết vĩ mô, bao gồm cả việc can thiệp của nhà nước và điều hành của chính phủ. Đặc trưng của loại mô hình này là nhấn mạnh đến tính tích cực và lợi ích của việc bảo vệ kinh doanh tư nhân, từ đó dẫn đến việc chủ thể của mô hình nằm trong tầm kiểm soát và chi phối của tư nhân, bị tư nhân lũng đoạn, đồng thời nhà nước có chức năng phục vụ cho sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Ba là, mô hình chính phủ chủ đạo của Nhật Bản. Nét đặc trưng của loại mô hình này là lấy điều tiết thị trường làm tiền đề; trên cơ sở đó, nhấn mạnh tác dụng chỉ đạo và dẫn dắt của chính phủ đối với nền kinh tế. Điểm khác biệt của loại mô hình này với mô hình của các nước phát triển khác được thể hiện tập trung ở hai điểm: thứ nhất, chính phủ đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành của nền kinh tế; thứ hai, tính dân chủ của các quyết sách được thể hiện ở chỗ, mọi quyết sách đều được công khai lấy ý kiến và bảo đảm lợi ích của các bên; về cơ bản, các quyết sách đều xuất phát từ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và lợi ích dân chủ.
Bốn là, mô hình Đông Á. Về mặt kinh tế, loại mô hình này đề cao quan điểm phát triển kinh tế hoặc đi theo chủ nghĩa ưu tiên kinh tế, sử dụng chiến lược chú trọng xuất khẩu; đồng thời, duy trì kinh tế thị trường dưới sự chỉ đạo của nhà nước. Về mặt chính trị, loại mô hình này sử dụng thể chế chính trị của chủ nghĩa uy quyền; đồng thời, sử dụng phương thức điều hành đất nước cả bằng người tài lẫn bằng luật pháp, nêu cao tiến trình dân chủ hoá từng bước. Về mối quan hệ giữa hành pháp và tư pháp ở các nước phát triển theo mô hình loại này, đặc trưng lớn nhất là hành pháp giữ vai trò chủ đạo. Trên thực tế, ở các nước đó, hành pháp quyết định cả lập pháp lẫn tư pháp.
Mô hình chủ nghĩa xã hội hay loại hình chủ nghĩa xã hội (Socialist model; Socialist mode; Socialist pattern) là khái niệm chỉ các mô hình chủ nghĩa xã hội khác nhau được tiến hành ở các nước khác nhau trên thế giới. Điều đó có nghĩa là, các nước khi tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội đều có hình thức, phương hướng và con đường của riêng mình. Do có sự khác biệt giữa các nước về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa cho đến dân số, điều kiện tự nhiên,… nên mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước, thậm chí ngay trong một nước nhưng ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau, cũng có những hình thức khác nhau với những nét đặc trưng riêng. Mỗi nước xã hội chủ nghĩa căn cứ vào điều kiện thực tế của đất nước mình mà đề ra mục tiêu và phương thức phát triển khác nhau trong từng giai đoạn cụ thể.
Mô hình chủ nghĩa xã hội có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, mô hình chủ nghĩa xã hội là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm về mục tiêu, phương tiện (cách thức) và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nói chung. Theo nghĩa hẹp, mô hình chủ nghĩa xã hội là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm về mục tiêu, phương tiện và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong một giai đoạn, một hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước.
Mô hình chủ nghĩa xã hội trong thời gian qua cũng có nhiều loại khác nhau và có thể được khái quát thành hai loại tiêu biểu sau:
Một là, mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô (đại diện cho các nước Đông Âu). Trong loại mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu này, chúng ta thấy có hai giai đoạn tương đối nổi bật, đó là giai đoạn Lenin và giai đoạn Stalin, hay còn gọi là mô hình chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Lenin và mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung cao độ tư tưởng Stalin. Mô hình chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Lenin có các đặc trưng chủ yếu sau: thứ nhất, nhà nước trực tiếp sở hữu và sử dụng tư liệu sản xuất; thứ hai, nhà nước quyết định kế hoạch, giám sát quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm của toàn xã hội, toàn thể người dân (trong độ tuổi lao động) cùng lao động, cùng thụ hưởng trong một tiêu chuẩn và điều kiện lao động chung; thứ ba, biến xây dựng đất nước thành một bộ máy quản lý, tạo nên một cơ chế quản lý từ trên xuống dưới. Cho đến trước khi Liên Xô ra đời, tất cả các mô hình chủ nghĩa xã hội đã được nêu ra, kể từ các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đầu thế kỷ XVI cho đến chủ nghĩa xã hội khoa học của K. Marx và F. Engels, đều chưa trở thành hiện thực. Mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô trước đây là mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên được hiện thực hoá.
Mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung cao độ theo tư tưởng Stalin (hay còn gọi là mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung cao độ) bao gồm một số đặc trưng chủ yếu: thứ nhất, thực hiện chế độ công hữu đơn nhất, loại bỏ toàn bộ các thành phần kinh tế khác; thứ hai, xây dựng nền kinh tế hiện vật chứ không phải là nền kinh tế hàng hóa, sử dụng mô hình quản lý tập trung cao độ trên phương diện tổ chức quản lý; thứ ba, thực hiện chuyên chính vô sản trên phương diện đời sống chính trị, coi động lực phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Kiểu mô hình chủ nghĩa xã hội này mang những đặc trưng của thể chế thời chiến mà cơ bản là dựa trên nguyên tắc lý luận và lý tưởng cách mạng. Điểm yếu khá nghiêm trọng của mô hình này là xa rời thực tiễn cuộc sống.
Hai là, mô hình chủ nghĩa xã hội Trung Quốc. Mô hình này cũng có hai giai đoạn là giai đoạn Mao Trạch Đông và giai đoạn cải cách, mở cửa, hay còn gọi là mô hình chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Mao Trạch Đông và mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Mô hình chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Mao Trạch Đông là mô hình chủ nghĩa xã hội với thể chế kế hoạch hành chính trung ương tập trung cao độ. Loại mô hình này chịu một số ảnh hưởng của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô, tạo ra những nét đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc, song nhìn chung, vẫn không vượt qua được khuôn khổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô, đặc biệt là trên phương diện thể chế kinh tế. Còn mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc như hiện nay là mô hình phát triển xã hội gắn với lý luận Đặng Tiểu Bình, thuyết “ba đại diện” và quan điểm phát triển một cách khoa học. Điểm nhấn mạnh của mô hình này là đổi mới mạnh mẽ về mặt tư tưởng, tập trung mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, mà các nhà lý luận của Trung Quốc gọi là phát triển lực lượng sản xuất. Một trong những đột phá lý luận quan trọng nhất của Đặng Tiểu Bình là việc xác lập được lý luận kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Việc xác lập này không chỉ đột phá vào lý luận kinh tế kế hoạch truyền thống - lý luận đã phủ nhận quan hệ hàng hoá, tiền tệ, phủ định vai trò của kinh tế thị trường, mà còn đột phá vào lý luận kinh tế thị trường truyền thống vốn coi điều tiết thị trường là của riêng sở hữu tư nhân. Sau lý luận của Đặng Tiểu Bình và tư tưởng “ba đại diện” của Giang Trạch Dân, tư tưởng xã hội hài hòa của Hồ Cẩm Đào được coi là bước phát triển mới trên con đường nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc.
Nội dung của quan điểm về xã hội hài hoà được thể hiện ở 4 điểm cơ bản sau: thứ nhất, “xã hội hài hoà là thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, là bảo đảm quan trọng nhất cho sự giàu mạnh của quốc gia, hưng thịnh của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân”; thứ hai, xã hội hài hoà là mục tiêu phấn đấu không ngừng của Đảng Cộng sản và của nhân dân Trung Quốc; thứ ba, “xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa là một quá trình liên tục điều hoà không ngừng các mâu thuẫn xã hội”; thứ tư, “xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa là xã hội hài hoà do toàn thể nhân dân xây dựng, toàn thể nhân dân hưởng thụ”. Mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc hiện nay đang đạt được nhiều thành tựu lớn lao, được cả thế giới ghi nhận.
Ngoài hai hệ thống mô hình trên, hiện nay mô hình “con đường thứ ba” trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang thu hút sự quan tâm, chú ý. Mô hình “con đường thứ ba” có các đặc trưng cơ bản sau: một là, lấy cân bằng giữa tác dụng của thị trường và sự điều tiết của nhà nước làm nguyên tắc để tạo ra nền kinh tế mới; hai là, lấy cân bằng giữa trách nhiệm và quyền lợi làm nguyên tắc để xây dựng hệ thống phúc lợi mới; ba là, lấy cân bằng giữa hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội làm nguyên tắc để đề xuất chính sách mới; bốn là, lấy cân bằng giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế làm nguyên tắc trong thực thi chính sách đối ngoại.
Hiện nay chưa có một hệ thống lý luận chặt chẽ về mô hình “con đường thứ ba”. “Con đường thứ ba” xuất hiện là do xuất phát từ điều kiện thực tế của chủ nghĩa tư bản trong quá trình toàn cầu hóa, các chính đảng cánh tả của phương Tây phải đưa ra các giải pháp để xử lý các vấn đề hiện thực trong xã hội tư bản, phản ánh hiện tượng và xu thế tả khuynh của hình thái ý thức chính trị các nước phương Tây. Về thực chất, đây là một sự thỏa hiệp chính trị giữa chủ nghĩa tư bản tự do và chủ nghĩa xã hội dân chủ, là một phong trào tư tưởng của chủ nghĩa tư bản vượt ra ngoài cả “tả” và “hữu” trong điều kiện toàn cầu hóa nhằm khắc phục những vấn đề nội tại của chính mình. Mặc dù mô hình này có một số nội dung và đặc điểm mới, song về bản chất, nó xuất phát từ tiền đề bảo vệ chủ nghĩa tư bản, tập trung vào điều chỉnh phương thức quản lý và cách thức điều hành đất nước.
Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, Việt Nam đã chủ động tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, hoàn thiện dần mô hình mới về chủ nghĩa xã hội với những mục tiêu và phương tiện xác định để từng bước đạt tới mục tiêu đó. Căn cứ vào các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là các Văn kiện của Đại hội XI, chúng ta có thể phác họa mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam với những nội dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất, mục tiêu bao trùm và thể hiện bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, mục tiêu đó được cụ thể hóa bằng một loạt các đặc trưng cơ bản trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đó là:
1- Do nhân dân làm chủ;
2- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
3- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
4- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
5- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
6- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
7- Có quan hệ và hợp tác với các nước trên thế giới.
Các đặc trưng trên đây thể hiện một cách toàn diện những nét căn bản nhất các lĩnh vực khác nhau của một xã hội, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Các đặc trưng đó là sự kế thừa quan điểm của Đảng tại Đại hội X; đồng thời, có sự bổ sung và phát triển mới cho phù hợp với thực tiễn.
Vấn đề đặt ra là, nếu mô hình chủ nghĩa xã hội về các đặc trưng như trên thì ngoài các đặc trưng đó, còn có các đặc trưng nào khác? Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được thay đổi và bổ sung nhiều lần, vậy còn có những vấn đề gì cần tiếp tục thảo luận?)
Xã hội, hiểu theo nghĩa tổng quát, bao gồm các lĩnh vực khác nhau, như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Vấn đề đặt ra là, ngoài mô hình tổng quát về chủ nghĩa xã hội, có thể nói về mô hình phát triển của từng lĩnh vực cụ thể hay không? Sở dĩ đặt vấn đề như vậy là vì, trong thời gian gần đây, ở Việt Nam, nhiều học giả đã đặt vấn đề nghiên cứu mô hình chính trị, mô hình kinh tế, mô hình xã hội và mô hình văn hóa của Việt Nam. Chẳng hạn, nhiều nhà kinh tế khẳng định mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ của Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu cách đặt vấn đề trên đây là đúng thì nội dung cụ thể của các mô hình phát triển trong từng lĩnh vực là gì?
Theo chúng tôi, những vấn đề nêu trên cần được tiếp tục tìm hiểu và làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn. Đây là một điều hết sức bình thường, bởi nhận thức là một quá trình. Chính việc phát hiện những vấn đề mới nảy sinh và tìm cách giải quyết chúng một cách thỏa đáng sẽ góp phần quan trọng vào việc định hình ngày càng chính xác mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, từ đó định hướng cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta đi tới thành công./.
Từ khóa » Khái Niệm Chủ Nghĩa Là Gì
-
Chủ Nghĩa - Wiktionary Tiếng Việt
-
Chủ Nghĩa Xã Hội – Wikipedia Tiếng Việt
-
Quan Niệm Của Hồ Chí Minh Về Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam
-
Chủ Nghĩa Xã Hội Là Gì? Đặc Trưng Và Con đường Lên CNXH?
-
Chủ Nghĩa Xã Hội Là Gì? - Học Luật OnLine
-
Chủ Nghĩa Là Gì? Hiểu Thêm Văn Hóa Việt - Từ điển Tiếng Việt
-
Chủ Nghĩa Xã Hội Là Gì? - Luật Hoàng Phi
-
[PDF] Chủ Nghĩa Xã Hội Và Thời Kỳ Quá độ
-
Tìm Hiểu Về Chủ Nghĩa Mác – Lênin Và Một Số Khái Niệm Liên Quan
-
Bài Viết Trả Lời Các Câu Hỏi “chủ Nghĩa Xã Hội Là Gì?” Và “tại Sao Việt ...
-
Một Số Vấn đề Lý Luận Và Thực Tiễn Về Chủ Nghĩa Xã Hội Và Con đường ...
-
Chủ Nghĩa Cá Nhân Là Gì ? Chủ Nghĩa Cá Nhân Trong Chính Trị Và Kinh ...
-
Quan Niệm Của Hồ Chí Minh Về Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam
-
Nhận Thức Về Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng Cộng Sản Việt Nam