Chữ Phận Của Nguyễn Du, Chữ Phận Trong Truyện Kiều
Có thể bạn quan tâm
Thứ Tư, 3 tháng 8, 2016
Chữ Phận của Nguyễn Du, chữ Phận trong Truyện Kiều
Chữ Phận của Nguyễn Du, chữ Phận trong Truyện Kiều Nguyễn Đức Mậu Truyện Kiều của Nguyễn Du có đến 42[1] lần nói đến chữ phận, còn chữ duyên 64[2], chữ thân 63 lần, chữ hiếu 6 lần, chữ tài 18, chữ mệnh 4 lần. Nghĩa là chữ phận chiếm số lượng khá cao, sau thân và duyên. Trong khi đó, các sáng tác còn lại của Nguyễn Du thì chỉ 3 lần chữ phận xuất hiện và ở trong một bài là Văn tế thập loại chúng sinh. Ba lần đó chữ phận gắn với lời than, mang sắc thái tiêu cực. Trong thơ chữ Hán trung đại, chữ phận cũng xuất hiện nhưng không nhiều, như định phận(tiệt nhiên định phận tại thiên thư) hay phận trung(Nguyễn Bỉnh Khiêm, bài 582). Đột nhiên chữ phận trong Truyện Kiều nổi lên mật độ cao nhất, nhiều và thành ấn tượng mạnh mẽ nếu đặt trong so sánh đó. Nhưng xuất hiện nhiều lần và nghĩa của khái niệm phận ở đây như tập trung vào những nội dung nhất định, nó dường như thống nhất trong cảm quan chung và quay chung quanh nhân vật nữ này. Chữ phận như vậy có liên quan nhiều đến quan niệm của tác giả, liên quan đến quan hệ cá nhân và xã hội lịch sử thời đoạn tác phẩm xuất hiện, có nghĩa là có hay không sự gửi gắm, ký ngụ, sự băn khoăn trong nhận thức và quan niệm sống, sự nhận thức lại được đặt ra ít hay nhiều. Có chăng chữ phận kết hợp với các chữ khác như là cách dung hợp tam giáo và các kết hợp khác trong đời sống, cho đời sống như duyên phận( phật giáo và nho giáo) số phận, phận số( kết hợp với dịch số) là một kết hợp khác, như phúc phận( kết hợp tinh thần nối với ông bà đời trước). Những kết hợp đó đều nhằm sử dụng cho những cắt nghĩa, lý giải đời sống, cuộc đời con người, thay cho những lý giải từ xã hội. Chữ phận có thể hình thành trong tâm lý của xã hội trật tự phận vị của nho giáo, nó mượn và thêm các kết hợp khác để duy trì ổn định trật tự này, mặt khác nó là liệu pháp tâm lý cho cá nhân trong an ủi hay là giải thích cho những khúc mắc khó giải của đời sống. Kiểu kết hợp này có thể mang tinh thần và đặc điểm Việt Nam trong tiếp nhận tư tưởng, trong việc kéo những khái niệm của tư tưởng về thành triết lí đời sống Nguyễn Du, tự trong sáng tác, khi trực tiếp phát ngôn mang tính triết lý cuộc sống mà không nói đến phận, dù hay nói( than vãn) về sự thay đổi, về tính vô nghĩa của tên tuổi trước vô hạn của thời gian. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng thường than vãn thế thái nhân tình, nhưng thơ chữ Hán của ông(582 bài) chỉ một lần nói đến phận với nghĩa số phận( Tuyệt vô hội chước phận trung an-Tuyệt không có chút tô vẽ mảnh tua mà yên theo số phận- bài 502) trong khi phận lại được ông nói đến khá nhiều trong thơ nôm[3], nhưng đó là an phận( 4 lần), phận khó, phận mới, dầu phận, phận nhàn, phận tự nhiên, phận tôi, đòi phận( 2 lần), giàu vì phận, có vì phận. Ông nhàn Nguyễn Bỉnh Khiêm, hay vị thế một trí giả, không nói về phận trong tư thế yếm thế, một người lánh xa nơi trần tục, về ẩn danh, ẩn tích tìm niềm vui của thân, của tâm một cách chủ động, không có cái nỗi niềm bị xô đẩy của phận vị. Ý thức về phận là ý thức mình trong trật tự xã hội phận vị, trên dưới bất bình đẳng của nho giáo, có thể vì vậy tâm thế yếm thế, tâm thế thua thiệt hay ý thức phận mình phải có vai trò, lại không thấy có trong tâm thức người ẩn dật. Trong ông nhàn ẩn dật, đó chỉ là yên phận, là phận khó, phận nhàn- nó ít ý nghĩa xã hội. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thì chữ phận không thế. Trong hệ thống quy ước bất thành văn của xã hội nho giáo thì “Phận vạch ranh giới cho từng người, quy định chức năng cho mỗi người được ngồi đứng, nói năng, xưng hô, ăn ở…”[4], nó cùng với Nghĩa tạo thành cái ràng buộc con người(“Nghĩa nhắc nhở mọi người trách nhiệm với người trên, kẻ dưới, với vua cầm quyền, với làng nước, họ hàng, làng xóm, với gia đình nội ngoại”[5] ). Phận trong cách hiểu như vậy, như là một biểu hiện của cái khung đạo đức, là hệ thống quy ước thể hiện của Lễ, tạo thành cái bảo vệ cái trật tự trên dưới nghiêm ngặt của xã hội Khổng giáo. Chữ phận thành quan trọng của xã hội quân chủ nho giáo, nó được kết hợp với chữ “vị” thành tên gọi: xã hội phận vị hay trật tự phận vị. Nhưng nó thành cái chức phận thiên định như phận mệnh, duyên phận, thân phận, số phận, vì thế, phận trở thành cái trở nên không thể phá vỡ bởi nó không chỉ là của xã hội, là sản phẩm của con người, nó còn được xem là thuộc quy định của thế giới siêu nhiên, mang chút linh thiêng, thiên phận( tố chất trời sinh). Khi không giải thích được bằng các nguyên nhân xã hội hay các nguyên nhân chủ quan của cá nhân thì người ta dùng chữ phận số, số phận, phận mình,..để an ủi, bấu víu, để lý giải. Nghĩa là phận trở thành công cụ tinh thần cho mỗi cá nhân trong những hoàn cảnh cùng tận, khó thay đổi. Nhìn từ góc độ xã hội, một loạt từ mang tính “pháp quy” bất thành văn dành cho phận: vượt phận, tiếm phận - nghĩa là những tội danh rất nặng nếu không ý thức về ranh giới, giới hạn của cá nhân trước lễ giáo, và: định phận, yên phận, đòi phận, chức phận, danh phận, cam phận-, trước hệ quy ước vừa pháp lý, vừa đạo đức, vừa mang yếu tố văn hóa ứng xử: phận làm con, phận làm tôi, phận làm cha, phận đàn bà,... Nó thành thứ bùng nhùng nhiều nhất của con người trong xã hội lễ giáo, không phải là xã hội pháp quyền. Phận cản trở sự hình thành cá nhân với nhân cách độc lập, tự khẳng định, và sự bình đẳng giữa các cá nhân, bình quyền trong xã hội. Như trên đã nói, chữ phận trong Truyện Kiều được Nguyễn Du dành nhiều nhất cho nữ nhân vật chính là nàng Kiều, nó theo suốt nhân vật này như bóng ma Đạm Tiên, như thiên bạc mệnh báo trước khúc đoạn trường của nàng. Nhưng phận ở Truyện Kiều thế nào? Trong bao nhiêu nghĩa của phận thì trong Truyện Kiều nghĩa than vãn vị trí, hoàn cảnh, điều kiện của con người cá nhân đã bị định vị, đành yên phận trong bổn phận, trong đặc thù giới, đặc thù tuổi tác, nghĩa là bao nhiêu cái ràng buộc và mặc nhiên phải thế. Đó là phận đàn bà, như là cái chung không thể khác, không thể gỡ, nó thuộc về phụ nữ như thuộc tính, giới tính tiên thiên. Hầu hết mấy chục câu nói về phận trong Truyện Kiều đều chỉ dành để nói về phụ nữ, riêng một câu duy nhất cho nam giới, đó là câu Từ Hải nhận định rằng về với triều đình là “bó thân”, là mất tự do, là đặt mình trước mắt bọn hàng thần lơ láo, nghĩa là tự đặt mình trong vị trí của hàng thần đồng đẳng, đặt mình trong tương quan, trong các quan hệ tòng thuộc, thì vấn đề phận( chức phận, danh phận, hay cam phận) được đặt ra để lựa chọn, để suy nghĩ và để quyết định: Bó thân về với triều đình. Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu(2466) Nghĩa là trong trật tự phận vị đó mình sẽ không có chỗ đứng độc lập. Trong khi đang “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” thì phận không đươc đặt ra, không trở thành vấn đề. Phận chỉ đặt ra trong xã hội trật tự trên dưới bất bình đẳng được/bị định vị. Kiều khuyên Từ Hải ra hàng, tự lúc đầu cũng nghĩ về mình, rồi về nhà, sau đó biện luận là về nước: Nghĩ mình mặt nước cánh bèo Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân Bằng nay chịu tiếng vương thần Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì Công tư vẹn cả hai bề ……………………………… Trên vì nước, dưới vì nhà Một là đắc hiếu hai là đắc trung Mình, cái tôi, con người cụ thể trong điều kiện nào đó mới đặt ra chữ phận, nhưng có lúc phận lại phải trở thành một công cụ. Phận thành một thứ tùy mục đích sử dụng, tùy lúc sử dụng. Khi ra hàng, Từ Hải chết đứng, Hồ Tôn Hiến dùng chữ phận để vấn an Kiều: Rằng: “Nàng chút phận hồng nhan, Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương”. phận lại là một công cụ “tâm lý chiến”, một an ủi. Trong Văn tế thập loại chúng sinh và trong Truyện Kiều đều được Nguyễn Du dùng câu than vãn về phận, phận đàn bà và xem đó là kiếp, là bạc mệnh bất di dịch: -Đau đớn thay phận đàn bà Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu ( Văn tế thập loại chúng sinh) Mở đầu lời than đầu tiên của Kiều trong Truyện Kiều là nói về phận, phận đàn bà, khi nói về Đạm Tiên, mở ra đã đau đớn, là lời giải thích cho sự bạc mệnh nằm sẵn trong phận đàn bà: -Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung ( Truyện Kiều) Sự lặp lại, hay nhắc lại này ở hai tác phẩm khác nhau, một là thể loại truyện, mang đặc điểm sáng tác hoặc ủy lời, ủy thác quan niệm cho nhân vật, qua nhân vật, một văn tế là lời nói trực tiếp của tác giả, cho thấy đây có thể là nhận thức, biểu hiện cảm xúc trực tiếp của tác giả. Phận đàn bà còn được nhắc lại trong một văn cảnh khác, một hoàn cảnh khác của nhân vật nữ: -Rằng tôi chút phận đàn bà Nước non lìa cửa lìa nhà đến đây Rồi còn là phận gái nhưng trong một tư thế khác, tư thế “xuất giá tòng phu” mà ở đây là “trai anh hùng gái thuyền quyên” sánh đôi. Chữ phận gái ở đây đã mang một giọng nói khác. Duy nhất một lần chữ « phận gái » được dùng trong giọng cảm xúc không tiêu cực như phận đàn bà, phận hồng nhan, phận nữ nhi đầy rẫy trong suốt Truyện Kiều. Kiều tự nguyện trong tư thế tích cực: -Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng( câu 2217) Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi Trong ám ảnh chữ phận nặng nề suốt cuộc đời thì lần duy nhất này chữ phận được giải phóng khỏi tiêu cực, nhưng lần ấy lại gắn với một anh hùng một cõi, biên thùy một cõi, không nằm trong một trật tự nào. Chữ phận được giải thoát khi được giải phóng khỏi trật tự hay khi nó nằm trong đỉnh cao quyền lực. Phận thuyền quyên: -Xót xa chút phận thuyền quyên( 819) Cành hoa đêm bán vào thuyền lái buôn -Lỡ làng chút phận thuyền quyên(1881) Bể sâu sóng cả có tuyền được vay? Nhưng ngoài là phận đàn bà, phận gái, còn là phận hồng nhan: -Rằng nàng chút phận hồng nhan (2541) Gặp cơn binh lửa nhiều nàn cũng thương -Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan Vô duyên là phận hồng nhan đã đành (2660) Đang thơ dại cũng là phận, phận ngây thơ, non nớt: -Thưa rằng: chút phận ngây thơ Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền -Nàng rằng: “chút phận ngây thơ (2279) Cũng may dây cát được nhờ bóng cây Cũng là non nớt, ngây thơ nhưng được diễn đạt khác, phận tơ đào: -Hổ sinh ra phận tơ đào (877) Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong Phận hèn, phận bạc, như vậy phận là số phận, là sự quy định mang tính tiên thiên, không thay đổi được: -Hạt mưa sã nghĩ phận hèn(619) Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân -Phận sao phận bạc như vôi(753) Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng -Phận sao phận bạc vừa thôi(1763) Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan -Bây giờ ván đã đóng thuyền Đã đành phận bạc khôn đền tình chung(2802) -Nàng rằng: “Phải bước lưu li” Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh(954) -Phận sao phận bạc Kiều nhi(791?) Chàng Kim về đó, con thì đi đâu Phận mỏng, phận bèo, phận hèn, phận thấp: -Sinh rằng: “Chút phận bọt bèo(1449) Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên -Phận bèo bao quản nước sa(2019) Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh -Vẻ chi chút phận bèo mây(1343) Làm cho bể ái khi đầy, khi vơi -Chị sao phận mỏng thác dày(2715) Kiếp xưa đã vậy, long này dễ ai -Bây giờ sự đã dường này Phận hèn dù rủi, dù may tại người(2072) -Kiều nhi phận mỏng như tờ(1777) Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng -Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn(411) Khuôn xanh biết có vuông tròn mà bay Phận mình, tủi phận, phận tôi: -Giận duyên tủi phận bời bời(857) Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh -Hoa trôi bèo dạt đã đành Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi(220) -Nhưng tôi có sá chi tôi Phận tôi đành vậy vốn người để đâu(1146) -Dù khi sóng gió bất bình Lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi(1512) -Bó thân về với triều đình Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?(2466) Phận con: - Cứ trong mộng triệu mà suy Phận con thôi có ra gì mai sau(234) -Dặm nghìn nước thẳm non xa Nghĩ đâu thân phận con ra thế này(1256) Phận như một thứ dùng để giải thích một định mệnh không thay đổi, bất biến, chỉ biết than vãn, chỉ biết dùng nó để an ủi, tuyệt không thấy có sự giải thích về phận để thay đổi, để đổi phận. Không giải thích cuộc sống con người về mặt xã hội, hay các mặt khác khiến nó phải chịu đựng mà cứ giải thích bằng phận. Không phải bản thân cá nhân chịu trách nhiệm trước cuộc đời của mình và xã hội phải chịu trách nhiệm trước cuộc sống thành viên của nó, mà lại là phận. Phận làm thay tất cả. Đổi phận là đổi vị trí xã hội, đổi « giới tính » kiểu « ví đây đổi phận làm trai được »( Hồ Xuân Hương), hướng đổi là bất khả, là vô vọng. Thay thân đổi phận là đổi vị trí, điều đó có thể xảy ra, nhưng đổi bậc lại có bậc cao hơn. Xã hội trật tự, phận vị là thế, nó không cho phép độc lập cho cá nhân. Kiếp đàn bà hay kiếp hồng nhan, thuyền quyên, phận ngây thơ, phận tơ đào,..thì cũng là đàn bà, nó cùng bậc với tiểu nhân trong thứ tự của đối tượng bị giáo dục : « Duy tiểu nhân nữ tử chi nan dưỡng, cận chi tắc hiệp, viễn chi tắc oán »( Chỉ có tiểu nhân và đàn bà là khó dạy, gần chúng chúng nhờn, xa chúng chúng oán). Trong cách nhìn của xã hội nho giáo, đó là định mệnh, là phận. Các loại phận khác được nói đến như một lời than, hay những lời than cùng gắn với phận: -Tháng tròn như gửi cung mây Trần trần một phận ấp cây đã liều(328) -Phận sao đành vậy cũng vầy(679) Cầm như chẳng đỗ những ngày còn xanh -Phận rầu dầu vậy cũng dầu(697) Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời -Phận đành chi dám kêu oan(1427) Đào hoen quẹn má, liễu tan tác mày -Phận bồ từ vẹn chữ tòng(1477) Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên -Sớm khuya khăn mặt lược đầu Phận con hầu giữ con hầu dám sai(1776) -Nàng rằng : « Chút phận hoa rơi(3035) Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay -Cùng là phận cải duyên kim(3067) Cùng là máu chảy ruột mềm chớ sao -Nàng rằng : « Phận thiếp đã đành(3145) Có làm cho nữa cái mình bỏ đi Than thân, trách phận, suốt Truyện Kiều là lời than gắn nhiều với trách, và hai ba chữ thân, duyên, phận trở thành số nhiều hơn trong tương quan với các khái niệm khác( xem thống kê trang1). Ba chữ này dường như hầu hết gắn liền với cá nhân, với đàn bà. Nếu duyên còn có niềm vui thì phận lại khác. Duyên kết hợp với phận thành duyên phận cũng pha nỗi buồn đau. Đặc biệt thân, phận xuất hiện phần lớn trong những hoàn cảnh tiêu cực, trong tâm lí bất lực, trong nỗi đau của con người. Hễ nỗi đau buồn xuất hiện thì có tiếng kêu phận. Phận ở vị trí nào trong quan tâm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Phận đã thành câu hỏi hay là một nỗi đau định vị, yên vị, không thay đổi? Rất có thể trong các tác phẩm thơ văn Việt Nam thì tiếng kêu về phận ở Truyện Kiều là nhiều nhất, đau đớn nhất, nhất là nó như mặc nhiên phải thế. Times city tháng 12 năm 1025 [1] . Các thống kê ở đây theo Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh [2] . Thống kê của Ts Lê Thị Thanh Tâm, xem Chữ duyên trong Truyện Kiều. Trong Từ điển Truyện Kiều ghi là 46, có lẽ bị người xếp chữ thời đó xếp ngược 64 thành 46? [3] . Văn thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng tập, Nxb Văn học, H.2014. [4] Trần Đình Hượu: Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn hóa thông tin, H.1995, Tr146 [5] Trần Đình Hượu: Nho giáo và văn học Việt Nam trung cân đại, Nxn Văn hóa thong tin, H.1995, Tr146. Nhãn: Nguyễn Du, Nguyễn Đức Mậu, Phận, Truyện KiềuKhông có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ Đăng ký: Đăng Nhận xét (Atom)Giới thiệu về tôi
Tìm kiếm Blog này
Lưu trữ Blog
- ► 2025 (4)
- ► tháng 3 (4)
- ► 2024 (5)
- ► tháng 10 (1)
- ► tháng 9 (1)
- ► tháng 3 (3)
- ► 2023 (4)
- ► tháng 11 (2)
- ► tháng 9 (1)
- ► tháng 3 (1)
- ► 2022 (4)
- ► tháng 9 (1)
- ► tháng 8 (1)
- ► tháng 4 (1)
- ► tháng 2 (1)
- ► 2021 (2)
- ► tháng 6 (1)
- ► tháng 1 (1)
- ► 2020 (11)
- ► tháng 9 (1)
- ► tháng 8 (1)
- ► tháng 6 (1)
- ► tháng 5 (1)
- ► tháng 4 (2)
- ► tháng 3 (3)
- ► tháng 2 (1)
- ► tháng 1 (1)
- ► 2019 (1)
- ► tháng 6 (1)
- ► 2018 (4)
- ► tháng 9 (1)
- ► tháng 7 (1)
- ► tháng 6 (1)
- ► tháng 5 (1)
- ► 2017 (19)
- ► tháng 11 (3)
- ► tháng 10 (1)
- ► tháng 9 (1)
- ► tháng 8 (4)
- ► tháng 7 (1)
- ► tháng 4 (3)
- ► tháng 3 (2)
- ► tháng 2 (1)
- ► tháng 1 (3)
- ► 2015 (8)
- ► tháng 12 (1)
- ► tháng 10 (1)
- ► tháng 8 (1)
- ► tháng 6 (1)
- ► tháng 5 (1)
- ► tháng 4 (2)
- ► tháng 3 (1)
- ► 2014 (2)
- ► tháng 3 (1)
- ► tháng 2 (1)
- ► 2013 (4)
- ► tháng 7 (2)
- ► tháng 4 (1)
- ► tháng 2 (1)
- ► 2012 (23)
- ► tháng 10 (1)
- ► tháng 8 (2)
- ► tháng 4 (4)
- ► tháng 3 (11)
- ► tháng 2 (3)
- ► tháng 1 (2)
- ► 2011 (25)
- ► tháng 12 (9)
- ► tháng 11 (7)
- ► tháng 7 (2)
- ► tháng 6 (4)
- ► tháng 5 (3)
Nhãn
- (MARTIN HEIDEGGER (1)
- About me (1)
- Aki Tanaka (1)
- Angelina Kratzer (1)
- anh chị (1)
- ảnh hưởng (1)
- Âm thanh- điện ảnh- Kristin Thompson- David Bordwell (1)
- Bakhtin (5)
- Bakhtin. (1)
- Bản chất nghệ thuật (1)
- bành trướng (1)
- bạo lực- L.Tolstoi (1)
- Bắc hành tạp lục (1)
- Băc Kỳ (1)
- Băn khoăn (1)
- Bậc tiểu học (1)
- biểu tượng cái chết. (1)
- Bkhtin (1)
- ca trù (1)
- Ca trù (7)
- CÁC GIAI CẤP XÃ HỘI (1)
- các hình tượng của Rabelais (1)
- các mùa (1)
- Cái bóng (1)
- cải cách (1)
- cải cách văn hóa- xã hội (1)
- cái thực (1)
- Cảm xúc- J-P. Richard (1)
- Cao Xuân Hạo (1)
- CARL GUSTAV JUNG (1)
- cận đại (1)
- câu và từ hát nói (1)
- cha mẹ (1)
- CHÂU ÂU (1)
- Châu thổ sông Hồng (1)
- chê (1)
- chế độ quân chủ (1)
- chế độ xã hội (1)
- chỉ nghĩa quốc gia chính trị (1)
- chỉ nghĩa quốc gia văn hóa (1)
- Chiến tranh (1)
- chính quyền thuộc địa (1)
- chú giải học (1)
- chú mự (1)
- chủ nghĩa cá nhân (1)
- chủ nghĩa hiện thực (1)
- chủ nghĩa nhân bản (1)
- chủ nghĩa quốc gia (1)
- Chúa Nguyễn (1)
- Chúa Trịnh (1)
- chuyển hóan văn hóa (1)
- Chuyện người con gái Nam Xương (1)
- chữ quốc ngữ thế kỷ XVII (1)
- con người (2)
- con người- nho giáo- truyền thống văn hóa (1)
- cô dượng (1)
- Cổ Loa (1)
- Cuồng vân tâp (1)
- Cuồng vân tập (2)
- danh từ (1)
- dân chủ (1)
- dân khí (2)
- dân tộc (1)
- dân trí (1)
- DHA (1)
- di dân- Hoa kiều (1)
- Di dân- người Hoa (1)
- dì dượng (1)
- di sản (1)
- diễn giải (1)
- Dostoievski (1)
- du kí (1)
- Duy tân (2)
- Đại Cồ Việt (1)
- Đại danh từ (1)
- Đại học Đông Dương (1)
- Đại từ nhân xưng (1)
- đàn đáy (1)
- đào (1)
- Đạo giáo (2)
- đào nương (1)
- Đào Trinh Nhất (1)
- điều trần (1)
- Đỗ Hải Phong (1)
- độc lập (1)
- Đối (1)
- Đông Dương (2)
- Đông kinh nghĩa thục (1)
- Đông Kinh Nghĩa Thục (2)
- Đông Ngạc (1)
- đức tin (1)
- Đường sắt (1)
- Đường sắt Đông Dương (1)
- Eikhenbaum (1)
- FreudHam muốn và ẩn ức (1)
- Fukuzawa Yukichi (1)
- Gia đình (2)
- GIẢI NOBEL (1)
- giải thích (1)
- giáo dục (1)
- giáo dục đạo đức (1)
- Giáo dục đầu thế kỉ XX- 1915 (1)
- Giáo dục thời kỳ thuộc địa (1)
- Giáo dục thời thuộc Pháp (1)
- Hà Nội (1)
- Hải Phòng (1)
- Hans Rober Jauss (1)
- Hans Robert Jauss (1)
- hát ả đào (1)
- hát nói (6)
- hậu thời phim câm (1)
- hệ thống vần Hán Việt (1)
- hiện đại hóa (1)
- Hiện tượng lại giống (1)
- hiểu (1)
- hình tượng (1)
- hình tượng cỗ tiệc (1)
- hình tượng thân thể (1)
- Hình tượng vật chất - thân xác (1)
- Hoa tiên (2)
- Hội hè dân dan (1)
- hủ nghĩa hiện sinh (1)
- HUYỀN THOẠI (1)
- Hứa Kỉ Lâm (1)
- ích kỉ (1)
- IMai AKIO (1)
- Irene Heim (1)
- Jean- Paul Sartre (1)
- JEAN-PAUL SARTRE (1)
- Jung (1)
- K.W. Taylor (1)
- Kẻ Vẽ (1)
- kép (1)
- Khái Hưng (1)
- Khen (1)
- khoa học và nghệ thuật (1)
- khoa học văn học (2)
- khoảng trống văn chương (1)
- Khổng giáo (1)
- Khổng giáo- dân chủ (1)
- khủng hoảng (1)
- kí hiệu quyển (1)
- kiêng húy (1)
- Kim Vân Kiều truyện (1)
- Kristin Thompson - David Bordwell (1)
- Kristin- David Bordwell (1)
- ký hiệu học (1)
- L.Goldmann (1)
- Lại Nguyên Ân (1)
- Lâm An (1)
- Lê Thị Thanh Tâm (1)
- Lê Thị Thanh Tâm- Trần Đông Phong- Đông Du- Du học- Nhật (1)
- Lệ thưởng đào (1)
- Lê Xuân Phương (1)
- Lịch sử ngữ âm tiếng Việt (1)
- Lịch sử văn học (2)
- Lotman (2)
- Lotman- Ký hiệu quyển (1)
- lối hát ả đào (1)
- luân lý học (1)
- MARCELLE MARINI (1)
- mặt trận (1)
- Minh Trị (1)
- Mộ phách (1)
- Nam C.Kim (1)
- Nam Cao (1)
- Nam Kỳ (2)
- ngâm khúc (1)
- nghệ thuât (1)
- nghị định (1)
- ngôn ngữ chợ búa (1)
- nguồn gốc cách đọc Hán Việt (1)
- Nguồn gốc và quá trình cách đọc Hán Việt (1)
- Nguyễn Công Trứ (4)
- Nguyễn Du (5)
- Nguyễn Dữ (1)
- Nguyễn Đức Mậu (14)
- Nguyễn Huệ (1)
- Nguyễn Huy Tự (1)
- Nguyễn Khắc Hiếu (1)
- Nguyễn Khoa Vy (1)
- Nguyễn Nam (2)
- Nguyễn Tài Cẩn (9)
- Nguyễn Thị Dung (1)
- Nguyễn Thị Thanh Xuân (1)
- Nguyễn Trường Tộ (2)
- NGuyễn Trường Tộ (1)
- Nguyễn Tự (1)
- ngữ âm tiếng Hán quãng thế kỷ 8 và 9 (1)
- Ngữ nghĩa học (1)
- ngữ pháp của tiếng Việt (1)
- Ngữ pháp Tạo sinh (1)
- Ngữ pháp tiếng Việt (1)
- người đọc (1)
- Người hào kiệt tự nhiệm (1)
- nhà chùa trong đời sống hiện đại (1)
- nhà nho (4)
- nhà nho duy tân (1)
- nhà nho tài tử (1)
- nhà nho yêu nước (1)
- nhạc điệu thơ trữ tình Nga (1)
- Nhạc Vũ Mục huỳnh (1)
- Nhất Hưu (3)
- nho giáo (11)
- Nho giáo (1)
- Nho giáo- tôn giáo- Trần Đình Hượu (1)
- Nho pháp tịnh dụng (1)
- những tổng thể nghĩa (1)
- Nohira Munehiro (1)
- nữ quyền (1)
- ông bà (1)
- Ông G-bov (1)
- ông quan (1)
- ông quan liêu (1)
- Pari (1)
- Paul Doumer (1)
- PAUL RICOEUR (1)
- Phạm Quý Thích (1)
- Phạm Quỳnh (3)
- Phan Bội Châu (1)
- Phan Châu Trinh (1)
- Phan Châu Trinh- Trần Đình Hượu (1)
- Phan Khôi (2)
- pháp gia (1)
- Phận (1)
- phân tâm học (2)
- phật giáo (2)
- PHẬT THUYẾT ĐẠI BÁO PHỤ MẪU ÂN TRỌNG KINH (1)
- PHÊ BÌNH PHÂN TÂM HỌC (1)
- phim (3)
- phong cách (1)
- phổ cập tiếng Pháp (1)
- Phùng Cung (1)
- poem in ca tru (1)
- quá trình hình thành cách đọc Hán Việt (1)
- Quá trình hình thành cách đọc Hán Việt (1)
- quan hệ tâm lý học và sáng tạo văn học (1)
- QUAN NIỆM VỀ THẾ GIỚI (1)
- quân chủ (1)
- quốc hiệu đời nhà Đinh (1)
- quốc học (1)
- quốc học Đông Á (1)
- quốc học Việt Nam (1)
- quốc ngữ (1)
- quy chế nhà lao Đông Dương (1)
- Rabelais (7)
- Ritsos- Xô nát ánh trăng (1)
- ROMAN INGARDEN (1)
- sáng tạo văn học (1)
- sĩ phu (1)
- Siêu lý tình yêu - Vladimir Soloviev (1)
- Sigismund Schlomo Freud (1)
- Simon Soloveychik (1)
- song viết (1)
- Sử Việt (1)
- tác phẩm văn học (2)
- Tản Đà (3)
- tâm lý học (1)
- tân thư (1)
- tết (1)
- Thai Sơn Đặng Nguyên Cẩn (1)
- thanh điệu Hán Việt (1)
- thành ngữ (1)
- Thanh Tâm Tài Nhân (1)
- thế hệ 1907 (1)
- thế hệ kháng chiến (1)
- Thi pháp học - Julia Kristeva (1)
- thiên hạ- Triệu Đinh Dương (1)
- thiên triều (1)
- Thính đoạn trường Tân thanh hữu cảm (1)
- thơ ca trù (1)
- thơ mới (1)
- thơ trào phúng (1)
- thơ trong ca trù (1)
- Thư gửi Kim Trọng (1)
- Thực tại (1)
- tiếng Việt (1)
- tiếp thu học thuật phương Tây (1)
- tính dục ấu thời (1)
- Tình dục và ức chế xã hội (1)
- Tịnh độ (1)
- Toàn quyền Đông Dương (1)
- Tổ chức bộ máy thuộc địa (1)
- tổ quê ca trù (1)
- tổ quốc (1)
- Tố Tâm (1)
- Trần Đình Hượu (13)
- Trần Đình Hượu- Làng xã Việt Nam- con người- con người tiểu kỷ- nho giáo- nhà nho- truyền thống- văn hóa- gia đình- công dân- cá nhân (1)
- Trần Đình Hượu- Văn hoá Việt Nam- Trương Hồng Quang (1)
- Trần Đình Sử (1)
- Trần Đình Sử- từ Hàn Việt gốc Nhật (1)
- Trần Thị Kim Anh (1)
- Trần Thị Phương Hoa (1)
- TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN VỚI NGÔN NGỮ (1)
- trí thức (1)
- Trịnh Văn Thảo (2)
- Trinh Văn Thảo- Việt Nam- Trí thức-Nho giáo- chủ nghĩa cộng sản- (1)
- Trùng Quang tâm sử (1)
- Trung Quốc (2)
- Truyện Kiều (5)
- truyện nôm (1)
- trữ tình điệu c (1)
- trữ tình điệu ngâm (1)
- trữ tình điệu nói (1)
- Tuồng Trưng nữ vương (1)
- tự cường (1)
- tự do (1)
- Tư liệu truyện Kiều (1)
- Từ loại danh từ (1)
- Tự lực văn đoàn (1)
- tư trào khải mông (1)
- Tư tưởng canh tân (1)
- tư tưởng dân chủ (1)
- từ vựng (1)
- văn bản (2)
- Văn hóa (1)
- văn hóa dân gian trung cổ (1)
- văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng (1)
- văn hóa dân tộc (1)
- Văn học giao thời (2)
- văn học thuộc địa (1)
- văn học Việt Nam trung cận đại (1)
- Văn tế trận vong tướng sĩ (1)
- vấn đề gia đình đầu thế kỷ XX (1)
- vấn đề nghệ thuật (1)
- vần và nhịp hát nói (1)
- Việt Nam (1)
- Việt ngữ học (1)
- Vladimir Soloviev (1)
- Vu Đức Nghiệu (1)
- Vũ Đức Nghiệu (2)
- Xưng hô (2)
- Ý thức phê phán (1)
Bài đăng phổ biến
- Nho giáo, ảnh hưởng của nó. Vấn đề ngày xưa và ngày nay ở nước ta
- Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930
- Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt
- MẪU HÌNH NHÀ NHO TÀI TỬ NGUYỄN CÔNG TRỨ
- CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM
- Hai cách nghĩ, hai cách hành xử trước thực tế mới - trường hợp Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa Yukichi
- Âm thanh trong điện ảnh
- HÀM Ý KHEN, CHÊ CON NGƯỜI TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
- Hát nói, thời điểm hình thành và quá trình phát triển
- Phan Châu Trinh thắp ngọn đèn dân chủ, đề xướng cải cách văn hóa – xã hội
Danh sách Blog của Tôi
Người theo dõi | Tổng số lượt xem trang |
Danh sách Blog của Tôi
-
Quach Hien Vô đề 1 tháng trước
-
Nguyen Tuan Cuong's Blog Lí lịch khoa học của Nguyễn Tuấn Cường 9 năm trước
-
Nguyen Kim Son HOAN HỶ 12 năm trước
-
Tạp chí Văn hóa Nghệ An
Từ khóa » Hoa Trôi Bèo Dạt đã đành
-
Truyện Kiều Chú Giải, 1953 — Page 53
-
Tìm Bài Thơ "hoa Trôi Bèo Dạt đã đành" (kiếm được 1 Bài) - TKaraoke
-
Em Buông Tay Anh Lặng Im Không Giữ - Hoa Trôi Bèo Dạt đã đành ...
-
CHỮ “PHẬN” TRONG TRUYỆN KIỀU - Trường Khiếm Thị
-
NÓI CHUYỆN CHUYÊN ĐỀ “DUYÊN NGHIỆP THÚY KIỀU”
-
Từ Hoa Trôi Bèo Dạt Là Gì - Tra Cứu Từ điển Tiếng Việt
-
Từ Điển - Từ Hoa Trôi Bèo Dạt Có ý Nghĩa Gì - Chữ Nôm
-
Đồn Em Hay Truyện Thuý Kiều (Khuyết Danh Việt Nam) - Thi Viện
-
Phân Tích Tám Câu Thơ Cuối Của đoạn Trích “Kiều ở Lầu Ngưng Bích”
-
Đồn Em Hay Truyện Thúy Kiều
-
Truyen Kieu (0001-0244)
-
Truyen Kieu (2739-2972)
-
TOP 11 Bài Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Trao Duyên Hay Nhất
-
Xót Thay Chút Nghĩa Bèo Bồng - Báo Công An Nhân Dân điện Tử