Chùa Hội Linh Cần Thơ - Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Quốc Gia

Chùa Hội Linh Cần Thơ- Di tích lịch sử văn hóa Quốc Gia

Cần Thơ có tổng cộng 10 di tích cấp Quốc gia gồm 04 di tích Kiến trúc – Nghệ thuật và 06 di tích Lịch sử – Văn hóa. Mỗi di tích là một dấu vết của lịch sử, một nền văn minh mang ý nghĩa to lớn của những chiến công hay nét cổ kính của lối kiến trúc xưa. Trong đó chùa Hội Linh là một trong 6 di tích Lịch sử – Văn hóa ghi dấu về thời kháng chiến anh dũng trong lịch sử dân tộc. Du lịch Cần Thơ, bạn nhớ ghé thăm chùa Hội Linh Cổ Tự để tìm về chốn bình yên nhất trong cõi tâm và chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính nhuốm màu thời gian của chùa, chắc chắn bạn sẽ thấy chuyến du ngoạn của mình thêm ý nghĩa hơn rất nhiều.

Chùa Hội Linh

Chùa Hội Linh, còn có tên gọi khác Hội Linh Cổ Tự, tọa lạc tại số 314/36 đường Cách mạng Tháng Tám (cách đường khoảng 200 mét), phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, Cách trung tâm TP. Cần Thơ khoảng 2,5 km.

Chùa được xây cất bằng tre lá vào năm 1904 (Giáp Thìn) do Hòa Thượng Thích Thanh Hương, hiệu Khánh Hưng khai sơn, có tên là Hội Long Tự, theo dòng Thiền Tông Lâm Tế. Đến năm 1914 (tháng 4 năm Giáp Dần), chùa được trùng tu lần đầu và đổi tên là Hội Linh Cổ Tự (đời cố Hòa thượng Thích Hoằng Đạo)… Đến nay tên chùa vẫn giữ nguyên, nhưng trong nhân dân quanh vùng vẫn quen gọi là chùa Xẻo Cạn, vì ngày xưa cạnh chùa có con rạch cạn, nay đã bị bồi lấp…

Về mặt kiến trúc: chùa có đầy đủ cổng tam quan, chánh điện, hậu đường, giảng đường. Khi chúng ta đi từ ngoài vào sẽ đi qua Cổng tam quan nép mình dưới bóng cây bồ đề, một loại cây hay gặp ở nhà chùa, xung quanh là dãy tường rào hình cánh cung gồm một cổng chính và hai cổng phụ. Cổng chính vươn ra phía trước có hai lớp mái, các mái ngói của cổng chính và hai cổng phụ đều là mái cong được lợp bằng ngói âm dương màu xanh rất đẹp. Trên mái ngói cổng chính được điểm tô hình lưỡng long tranh châu, một loại hình trang trí rất thường gặp ở chùa, đình Nam Bộ. Hai bên cổng chính đôi câu đối bằng chữ Hán:

“Hội thượng diên chân chùa tiếp dân thập phương quy giác lộ 

Linh sơn khai nhãn tạng đề huế tứ chúng xuất mê tân”

Hai câu có nghĩa: Chùa là nơi hội tụ mọi người không phân biệt người sang hèn ai cũng có quyền đến để nghe phật pháp, được hướng dẫn lời Phật dạy, dạy bảo con người vào con đường hiền lành, hạnh phúc sáng sủa.

Cổng chùa Hội Linh

Bước vào chánh điện và nhà hậu tổ, du khách sẽ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác về nét kiến trúc khá độc đáo của các nghệ nhân. Toàn bộ mái chùa được phủ bởi ngói đỏ (nay đã rêu phong). Hệ thống vòm mái được nâng đỡ bởi 16 cột gỗ lim tròn (chánh điện) và 20 cột gỗ lim tròn (nhà hậu tổ), đường kính 25 cm có chân đế bằng đá tảng, chạm trổ hình hoa sen, trên mỗi cột đều có những liễn, đối. Các vì kèo trên chánh điện và nhà hậu tổ đều được làm theo kiểu nhà trính, các cây trỏng được gọt đẽo đặt trên khối hình vuông, hình thang, đầu trỏng có hình cánh dơi…

Mặt tiền chánh điện được phân làm ba gian và có một lầu. Lầu được chia làm ba gian để thờ Phật Thích Ca, Quán Âm, và Địa Tạng. Mái lợp xi măng đúc thành hình vảy cá. Trên đỉnh là hình búp sen, bầu rượu, các đầu đao hình rồng, hoa lá uốn cong. Cũng giống như các ngôi chùa thuộc dòng Thiền tông Lâm tế khác, chùa Hội Linh là nơi thờ Phật Thích Ca, Di Lặc, Chuẩn Đề, Ngọc Hoàng, các vị Kim Cang… 

Chánh điện chùa Hội Linh         

Điện thờ chính có 3 gian nhỏ, bên trong tôn trí nhiều tượng Phật theo các cấp bậc rất uy nghi. Tại 3 gian thờ, có treo 3 bức hoành phi khắc bằng chữ Hán ở giữa là “Hội Linh Tự”, bên trái “Tam vô tư địa”, bên phải “Thưởng thiện phạt ác”. Gian thờ chính ở giữa, phía trước có khung bao lam sơn son thếp vàng, chạm khắc cây, hoa, lá, rồng, phụng, hưu…, và hai bên có 2 câu liễn đối bằng chữ Hán. Vị Phật được thờ chính ở đây là Phật A Di Đà. Gian bên trái thờ Bồ Tát Đại Thế Chí (thờ chính), và gian bên phải thờ Bồ Tát Quán Thế Âm (thờ chính).

Bên trong điện thờ chính

Ở giữa chánh điện còn có pho tượng Di Lặc Bồ Tát được tạo tác theo tư thế ngồi, cao 2,5 m. Phía sau lưng Đức Di Lặc là tháp đèn Dược Sư có 49 ngọn đèn. Tháp đèn được làm bằng danh mộc gồm 7 tầng, mỗi tầng 7 ngọn đèn và đều có một vị Phật Dược Sư an ngự. Phía sau tháp đèn là một khoảng trống nơi hành lễ của sư trụ trì. Đối diện tượng Di Lặc là bàn thờ Phật Thích Ca ngồi trên tòa sen. Ngoài ra trên bàn còn có các tượng: Vi Đà Hộ pháp, Tiêu Diện Đại Sĩ, Ngọc Hoàng Thượng đế, Nam Tào và Bắc Đẩu.

Phía sau 3 gian thờ chính là một gian thờ nhỏ khác thờ Hậu Tổ. Ở Giữa đặt tượng thờ Tổ Sư Đạt Ma, bên phải và bên trái thờ các vị tiền bối hữu công hộ trì Tam bảo. Trên cả 3 bàn thờ xếp nhiều bài vị của các cố Hòa thượng từng trụ trì bổn tự và các tiền bối đã quá vãng.

Bàn thờ các cố Hòa thượng từng trụ trì bổn tự.

Nối tiếp chánh điện, là hậu đường rộng 144 m², ở giữa đặt bàn thờ Tổ quốc có ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nơi này còn được dùng làm nơi tiếp khách. Liền theo đó là giảng đường, là nơi giảng kinh và thuyết pháp…Ở gian giữa có bàn thờ Phật Mẫu Chuẩn Đề. Ở gian hai bên, có bàn thờ di ảnh Hòa thượng Hoằng Đạo (trái) và Hòa thượng Pháp Thân (phải).

Ngoài các giá trị về kiến trúc nghệ thuật, trong chùa còn lưu giữ hơn trăm pho tượng lớn nhỏ rất có giá trị, bằng nhiều chất liệu khác nhau: đồng, gỗ, xi măng, thạch cao…Riêng tượng ông Giám Trai (dưới nhà trù) – người tự nguyện suốt đời ở trong nhà bếp bửa củi, nấu cơm cho chúng tăng là một tác phẩm điêu khắc độc đáo. Ngoài ra, các hiện vật quý trong chùa còn có chuông đồng, mõ, bộ binh khí (16 cái) và bộ bàn ghế gỗ cẩn xà cừ được chạm trỗ công phu.

Sau khi tham quan chiêm bái, du khách có thể tản bộ ra bên ngoài để thưởng ngoạn phong cảnh xung quanh chùa. Trước sân là hồ sen hình bán nguyệt với những bông sen hồng lung linh đưa hương thoang thoảng (vào mùa hè), ngay chính giữa hồ là tượng Phật bà Quán Âm ngự trên tòa sen uy nghiêm và trang trọng.

Tượng Phật bà Quán Âm ngự trên tòa sen

Điểm xuyết vào khung cảnh đó là những giàn cây cảnh đa dạng, phong phú được các nghệ nhân chăm sóc khéo léo, cẩn thận như: như cây duối uốn nhiều tầng được cắt tỉ công phu, 02 cây khế cổ thụ trên trăm tuổi, những cây mai chiếu thủy lâu năm xòe những chùm bông trắng tỏa hương thơm ngát tạo một không gian an lành thanh tịnh. Phía bên trái sân là tượng Phật Di Lặc với nụ cười hiền hòa bao dung, và phía sau cùng là những quần thể tháp uy nghi, cổ kính. Đây cũng là nơi an nghỉ cuối đời của các vị Hòa thượng tiền nhiệm (tháp của Hòa thượng Pháp Thân, Hòa thượng Chơn Đức, cùng các bậc tiền bối xưa có công sáng lập chùa…) và cuối cùng phía sau hậu liêu là Trai đường với kiến trúc 2 tầng khang trang (xây dựng mới vào năm 2010), kế bên là nhà trù (nhà bếp)…

Quần thể tháp uy nghi, cổ kính nơi an nghỉ cuối đời của các vị Hòa thượng tiền nhiệm.

Ngoài những nét đặc trưng về văn hóa và nghệ thuật kể trên, chùa còn ghi lại dấu ấn về lịch sử gắn liền với hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Cần Thơ nói riêng.

Từ năm 1941, chùa Hội Linh đã trở thành một cơ sở bí mật của cách mạng. Các Hòa thượng, tăng ni và bà con phật tử trong vùng che chở, đùm bọc, nuôi chứa nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng như Nguyễn Hoàng Lương, Lâm Hồng Quang, Thiều Quang Thể, Nguyễn Kim Hạnh, Trương Văn Biên… hoạt động nội thành từ thời kỳ tiền khởi nghĩa cho đến hết 9 năm kháng chiến chống Pháp.

Năm 1946, để bảo vệ cơ sở cách mạng tại đây, Hòa thượng Thích Pháp Thân đã quyết định đốt một phần ngôi chánh điện. Sự hy sinh của nhà chùa thể hiện tinh thần yêu nước, bảo vệ cán bộ, bảo vệ cơ sở cách mạng, của các vị Hòa thượng, các tăng ni.

Sau hiệp định Genève, chùa Hội Linh vẫn tiếp tục là cơ sở cách mạng vững chắc và bảo vệ an toàn cho nhiều cán bộ cách mạng bám trụ hoạt động. Chùa là địa điểm bí mật tổ chức nhiều cuộc họp triển khai đường lối chủ trương chính sách của cách mạng và nội dung hình thức đấu tranh công khai với địch. Từ cơ sở chùa Hội Linh đã tổ chức 13 hội, nghiệp đoàn như: Hội truyền bá quốc ngữ, hội tương tế… nghiệp đoàn giáo chức, nghiệp đoàn xe lôi, nghiệp đoàn nông dân, nghiệp đoàn phụ nữ mua gánh bán bưng…

Địch nghi chùa Hội Linh là cơ sở “Việt cộng nằm vùng”, từng cho một trung đội lính đến bao vây nhà chùa. Không tìm ra tang vật chứng, địch bắt Hòa thượng Thích Pháp Thân cùng với 6 vị tăng và 6 phật tử giam giữ điều tra ở nhà tù Phú Lợi hết 3 năm. Bọn ngụy quyền đã dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, tra tấn rất dã man nhưng Hòa thượng Pháp Thân và các chư tăng, phật tử đều giữ vững khí tiết một lòng kiên trung với cách mạng. Cơ sở cách mạng tại chùa Hội Linh vẫn được an toàn và tiếp tục nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng cho đến ngày 30-4-1975 giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.

Trong thời gian chống Mỹ, nhà chùa còn công khai tiếp đón, giúp đỡ, lo chu đáo về chỗ ăn chỗ ở cho hơn 200 gia đình thân nhân hằng tuần từ các nơi về đây thăm chồng con em là cán bộ chiến sĩ cách mạng bị địch bắt giam tại trại tù binh Lộ Tẻ.

Với những thành tích và nghĩa tình sâu nặng đó, vào ngày 28/04/1992, Ủy Ban Nhân dân TP. Cần Thơ đã ra quyết định công nhận chùa Hội Linh là một Địa chỉ Đỏ. Và ngày 21/6/1993, Bộ Văn Hóa Thông tin ban hành Quyết định số 774/QĐBT/1993 công nhận Chùa Hội Linh là Di tích Lịch sử Văn Hóa cấp Quốc Gia, là cơ sở Cách Mạng từ năm 1941-1975. Đặc biệt, Nhà nước đã trao tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhất cho chùa Hội Linh và ghi công liệt sĩ Dương Văn Đề (tức Hòa thượng Thích Pháp Thân) đã hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. 

Chùa Hội Linh- Di tích Lịch sử Văn Hóa cấp Quốc Gia

Hàng năm, vào các ngày lễ Tết (Tết Nguyên đán, Tết Đoan Ngọ, Lễ Vu Lan…), ngày húy kỵ của cố Đại lão Hòa thượng Thích Pháp Thân (18/08.Âl), húy kỵ Hòa thượng Thích Chơn Đức (21/09. Âl), quí chư Tôn đức và phật tử các tỉnh gần xa đến chùa tham dự rất đông. Viếng thăm chùa Hội Linh sẽ giúp bạn gạt bỏ mọi lo toan, phiền muộn của cuộc sống, thành tâm hướng Phật cầu an cho gia đình và người thân. Du Lịch Cần Thơ, đến với Chùa Hội Linh bạn sẽ được thoả sức khám phá, tìm hiểu về những trang vàng lịch sử hào hùng của người dân tại đây vào thời chiến, góp phần kiến tạo nên Cần Thơ thanh bình, xinh đẹp như ngày nay. 

Từ khóa » Giới Thiệu Về Linh