Chứng Khoán Là Gì? Đặc điểm Của Chứng Khoán - Luật Hoàng Phi

Mục lục bài viết

Toggle
  • Sự xuất hiện của chứng khoán 
  • Chứng khoán là gì?
  • Đặc điểm của chứng khoán
  • Bản chất chứng khoán 
  • Các loại chứng khoán hiện nay          
  • Lợi ích của chứng khoán và thị trường chứng khoán là gì?

Hiện nay, với sự phát triển của thị trường chứng khoán nhiều người bắt đầu có xu hướng tìm hiểu về chứng khoán và những vấn đề liên quan. Tuy nhiên, bước đầu không phải ai cũng hiểu rõ Chứng khoán là gì? Vì vậy bài viết dưới đây chúng tôi sẽ cùng quý vị tìm hiểu về chủ đề này. Hãy cùng theo dõi nhé.

Sự xuất hiện của chứng khoán 

Trong đời sống kinh tế, thuật ngữ chứng khoán (stock, security) được tìm hiểu theo những yêu cầu, mục đích khác nhau. Đây là khái niệm phức tạp vì bản thân nó đã hàm chứa hàng loạt quan hệ kinh tế phức tạp phát sinh giữa người cần vốn và người có vốn.

Chứng khoán lần đầu tiên xuất hiện ở châu Âu vào giữa thế kỉ XV tại Bruges (Bỉ), theo đó, các thoả thuận được xác lập cho các giao dịch thực hiện ngay và các giao dịch được thực hiện sau khoảng thời gian nhất định. Đây cũng chính là những loại chứng khoán phức tạp tồn tại hiện nay dưới dạng “hợp đồng giao ngay” hoặc “hợp đồng giao sau”.

Ở châu Mỹ (nơi có quốc gia với nền kinh tế chiếm tỉ trọng lớn nhất của nền kinh tế toàn cầu), sau khi đăng quang (1789), Tổng thống Gieorge Washington công bố việc phát hành công trái; sau đó các loại cổ phiếu cũng được phát thành để hình thành các tổ chức kinh tế.

Ở Việt Nam, cụm từ chứng khoán đã xuất hiện khá lâu ngay từ thời kì Pháp thuộc do hiện tượng du nhập các mô hình tổ chức kinh tế từ Pháp, Anh, sau năm 1945 tại miền Nam Việt Nam có sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Hoa Kỳ. Việc thành lập ngân hàng cổ phần, các công ty trong thời kì đó là ví dụ. Cho đến nay, thuật ngữ chứng khoán đã trở nên rất quen thuộc với các dạng như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư…

Chứng khoán là gì?

Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành, chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử.

Việc định nghĩa chứng khoán có thể khác nhau nhất định ở từng quốc gia, tuỳ theo mục đích khi điều chỉnh loại tài sản đặc biệt này. Theo Black Law’s Dictionary, chứng khoán được hiểu là công cụ chứng minh quyền sở hữu công ti (ví dụ như cổ phiếu), quyền chủ nợ với công ti hoặc chính phủ (ví dụ như trái phiếu) | hoặc các quyền khác của người nắm giữ (ví dụ như quyền chọn).

Điều 2 luật chứng khoán và thị trường chứng khoán Nhật Bản quy định tới 11 loại khác nhau, trong khi đó, Điều 1 Luật chứng khoán Hoa Kỳ năm 1933 không xác định thế nào được coi là chứng khoán mà xác định các trường hợp sẽ không được coi là chứng khoán (điều này có nghĩa, số lượng các loại chứng khoán sẽ do chính thực tiễn quyết định).

Ở Việt Nam, pháp luật hiện hành quy định: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: 

– Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ

– Chứng quyền, chứng quyền có bảo đảm, quyền mua cổ phần, chứng chỉ lưu ký

– Chứng khoán phái sinh

– Các loại chứng khoán khác do Chính phủ quy định

Cách xác định hiện hành là sự kế thừa, phát triển của quá trình hình thành các phương tiện huy động vốn. Giai đoạn đầu của chặng đường đổi mới, pháp luật Việt Nam công nhận chứng khoán bao gồm cổ phiếu, trái phiếu (tại Luật công ti năm 1990, các văn bản pháp luật quy định về phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp). Từ năm 1998, bằng việc ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998, xuất hiện thêm loại chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán.

Từ năm 2010, luật chứng khoán thừa nhận thêm loại chứng khoán mới đó là hợp đồng góp vốn đầu tư. So với khái niệm chứng khoán theo luật chứng khoán hiện nay, xu hướng các nhà làm luật nới rộng việc xác định các loại chứng khoán sẽ hình thành và tồn tại ở nước ta đã rõ ràng.

Đặc điểm của chứng khoán

Chứng khoán thường mang các đặc điểm sau:

-Tính sinh lời:

Thể hiện ở việc người phát hành ra chúng phải trả cho người sở hữu chứng khoán khoản lợi tức trong tương lai để nhận về mình quyền sử dụng vốn. Tính sinh lời của chúng khoán là động lực thúc đẩy người đầu tư mua chứng khoán và cũng là tiền đề xuất hiện chứng khoán. Tính sinh lời còn xuất hiện khi người nắm giữ chứng khoán giao dịch chứng khoán như loại tài sản được phép. Nếu chỉ dừng lại ở tính sinh lời thì cơ hội đầu tư cũng như hiệu quả đầu tư chưa đạt được.

– Tính thanh khoản:

Được hiểu là khả năng cho phép người sở hữu chứng khoán có thể bán chứng khoán để nhận được khoản tiền nhất định. Đặc điểm này tạo cho người sở hữu chứng khoán chuyển đổi dạng tài sản từ chứng khoán sang tiến thông qua giao dịch tại thị trường thứ cấp hoặc thông qua nghiệp vụ ngân hàng. Tính thanh khoản tạo ra sự hấp dẫn đối với người đầu tư, thoả mãn nhu cầu của họ đồng thời cũng hạn chế rủi ro làm giảm sút giá trị tiền tệ của chứng khoán. Tính thanh khoản của chúng khoán phụ thuộc vào uy tín của chủ thể phát hành, vào chi phí chuyển đổi và sự biến động của thị trường.

– Tính rủi ro

Tính rủi ro của chứng khoán, thể hiện ngay ở bản chất của hoạt động đầu tư vốn. Cũng như bất kì hoạt động đầu tư, kinh doanh nào khác, việc kinh doanh chứng khoán là “đầu tư lượng tiền trong hiện tại và chỉ có thể thu hồi trong tương lai” thì cả quãng thời gian đó cũng chính là thời gian chứa đựng rủi ro. Mức độ rủi ro tiềm tàng đến đâu còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như thời gian đầu tư, chủ thể nhận vốn cùng các cam kết khác chính là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới độ rủi ro. Mức độ rủi ro của chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với tính sinh lời và tính thanh khoản của chứng khoán.

Bản chất chứng khoán 

Chứng khoán xuất hiện do nhu cầu của các giao dịch vốn giữa các chủ thể. Bên cạnh đó, chứng khoán cũng liên quan đến việc hưởng lợi của “người” đang nắm giữ chúng. Vì vậy, cần phải xem xét bản chất chứng khoán dưới góc độ kinh tế và dưới góc độ pháp lí.

– Theo phương diện kinh tế, chứng khoán được coi là loại “tư bản giả“.

Điều này có nghĩa, lượng vốn (tư bản thật) đã được nhà đầu tư (người nắm giữ chứng khoán) chuyển cho các tổ chức phát hành và họ chỉ nắm giữ những phương tiện thể hiện có một lượng tư bản đang tồn tại thực tế mà thôi. Xác định chứng khoán là “tư bản giả” cũng có nghĩa, các nguồn vốn được tích tụ tập trung bởi các nhà phát hành đều hướng tới mục tiêu đầu tư, mục tiêu kinh tế nhất định, điều này hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc hoạt động tài chính của các chủ thể trong xã hội đương đại cũng như trong các thời kì trước đây.

– Theo phương diện pháp li, chứng khoán là loại tài sản với đầy đủ đặc tính của nó.

Từ khi xuất hiện, do tự phát hay tự giác, chứng khoán đã được công nhận là một loại tài sản, với những đặc điểm là “giấy tờ có giá”. Người sở hữu chứng khoán có thể chuyển nhượng, kiếm lợi, tặng cho… chứng khoán như bất kì loại tài sản nào khác. Điều này không mâu thuẫn với việc có những loại chứng khoán, khả năng được sở hữu, chuyển nhượng bị hạn chế, cũng giống như bất kì loại tài sản nào, trong những trường hợp đặc biệt, việc sở hữu, chuyển nhượng, kể cả các tài sản hữu hình cũng có hạn chế nhất định. Bên cạnh đó, Điều 165 Bộ luật dân sự quy định rõ: “tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” đồng thời Điều 321 Bộ luật dân sự xác định giấy tờ có giá gồm “trái phiếu, cổ phiếu, kì phiếu và các giấy tờ có giá khác...“.

Với những quyền năng và quy định của pháp luật nêu trên, chứng khoán được khẳng định là loại tài sản. Việc xác định bản chất của chứng khoán có ý nghĩa pháp lí quan trọng. Ở góc độ pháp lý kinh tế, các đối tượng có liên quan sẽ quan tâm tới hiệu quả việc vận hành các nguồn tư bản thật để quyết định có tiếp tục hay không việc nắm giữ các tư bản giả, đầu tư lượng tự bản của mình vào tổ chức phát hành nào là hữu ích… Dưới góc độ pháp lí, xác định chứng khoán là tài sản cũng đồng nghĩa với việc áp dụng các chế độ tài sản và các chế định có liên quan đối với đối tượng này cho phù hợp.

Các loại chứng khoán hiện nay          

Căn cứ vào quyền của người sở hữu chứng khoán đối với người phát hành, chứng khoán bao gồm hai loại: chứng khoán vốn và chứng khoán nợ.

Chứng khoán vốn là loại chứng khoán xác nhận sự góp vốn và quyền liên quan đến phần vốn góp của chủ sở hữu chứng khoán đối với đối tượng phát hành ra nó. Loại chứng khoán này có đặc điểm nhà đầu tư không xác định được thời gian thu hồi vốn, mức thu nhập từ việc đầu tư nhưng lại có cơ hội tham gia vào kiểm soát hoặc trực tiếp kinh doanh phần vốn đã thu hút. Chứng khoán vốn tồn tại dưới hai dạng cơ bản là cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư. Ngoài ra còn có các chứng khoán phái sinh từ loại chứng khoán vốn như chứng quyền.

Cổ phiếu (stock, share) là loại chứng khoán xác nhận số cổ phân mà cổ đông đó nắm giữ tại một công ty cổ phần và quyền được hưởng một phần lợi nhuận dưới hình thức cổ tức cũng như quyền tham gia quản lý công ty. Cổ phần là phần lợi ích sở hữu của cổ động đối với tổ chức phát hành. Cổ phần trong công ti rất đa dạng về thể loại và tính chuyển nhượng. Cổ phần phổ thông (common stock) không quy định trước về cổ tức mà cổ đông có thể được hưởng và gắn liền với kết quả kinh doanh của công ti nhưng cổ đông nắm giữ lại được hưởng đầy đủ quyền và lợi ích so với các loại cổ phần khác.

Cổ phần ưu đãi (preference stock) xác nhận một số ưu đãi (về tài chính, về một số quyền ưu tiên khác) đồng thời cũng chịu những hạn chế nhất định về quản lí công ti. Do nội dung ưu đãi khác nhau nên cũng hình thành nhiều loại cổ phiếu ưu đãi khác nhau như cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi biểu quyết.

Chứng chỉ quỹ đầu tư (investment unit) là loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ hoặc các quỹ đầu tư phát hành, xác nhận phần vốn góp và quyền hưởng lợi của người đầu tư đối với quỹ. Trường hợp quỹ đầu tư không tồn tại độc lập, không có tư cách pháp nhân, mặc dù đều là chứng khoán vốn; chứng chỉ quỹ đầu tư khác với cổ phiếu ở chỗ chứng chỉ quỹ đầu tư mang lại cho người đầu tư lợi nhuận không trực tiếp từ hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể phát hành mà từ toàn bộ hoạt động đầu tư của quỹ. |

Chứng khoán nợ là loại chứng khoán rất phổ biến, tạo ra sự ổn định tương đối trong giao dịch trên thị trường là trái phiếu.

Trái phiếu (bond, bill, notes) là phương tiện vay nợ, theo đó chủ thể phát hành ra nó cam kết sẽ trả lại cả gốc và lãi vào thời gian nhất định trong tương lai. Với tính chất là một hợp đồng vay, người cấp vốn được hưởng khoản lãi cố định không phụ thuộc vào kết quả sử dụng vốn của người nhận vốn nhưng không có quyền tham gia hoạt động quản lí đối với bên nhận vốn. Do có sự khác biệt về mệnh giá, về lãi suất, về quyền đối với chủ thể phát hành mà người đầu tư có thể lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp nhất.

Trên thực tế tồn tại rất nhiều loại trái phiếu khác nhau, tuỳ thuộc vào vị thế của người phát hành cũng như các cam kết đi kèm của nhà phát hành. Trái phiếu chính phủ có độ an toàn cao, lãi suất loại trái phiếu này thường là cơ sở để các doanh nghiệp tính toán lãi suất trái phiếu dự định phát hành. Trái phiếu doanh nghiệp do doanh nghiệp phát hành nhằm tăng vốn vay để mở rộng sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ, có những khác biệt nhất định so với trái phiếu của các tổ chức tín dụng. Trong mỗi loại trái phiếu, tuỳ mục đích thu hút đầu tư mà nhà phát hành có thể lựa chọn những loại trái phiếu cụ thể khác nhau. Ngoài những chứng khoán cơ bản nêu trên, có những loại chứng khoán khác như chúng quyền hoặc bảo chứng phiếu; hợp đồng lựa chọn, hợp đồng giao sau, hợp đồng góp vốn đầu tư. Chứng quyền hay bảo chứng phiếu đều nhằm tới quyền mua chứng khoán của sở hữu chủ chứng khoán hiện hữu của nhà phát hành, mặc dù nội dung cụ thể có khác nhau.

Hợp đồng lựa chọn và hợp đồng giao sau thường chỉ được giao dịch ở các thị trường phát triển và hình thức thể hiện cụ thể cũng có nhiều lai tạp. Nếu như pháp luật trước đây chỉ xác định loại chứng khoán này mang tính hình thức” vì chưa tồn tại thực tế trên thị trường chứng khoán Việt Nam thì luật chứng khoán đã nhận diện chúng một cách chính thức để đảm bảo cơ sở giải quyết những vấn đề pháp lý có thể phát sinh trong tương lai.

Quyền chọn mua cho phép người nắm giữ được lựa chọn quyền được mua, quyền được bán lượng chứng khoán nhất định trong thời gian nhất định với mức giá được xác định trước. Hợp đồng tương lại là cam kết mua hoặc bán chứng khoán, nhóm chứng khoán, hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai.

Hợp đồng góp vốn đầu tư là hợp đồng góp vốn bằng tiền hoặc tài sản giữa các nhà đầu tư với tổ chức phát hành hợp đồng nhằm mục đích lợi nhuận và được phép chuyển đổi thành chứng khoán khác. Như vậy, việc nhận dạng các loại chứng khoán phái sinh hoặc chứng khoán đặc trưng cho nền kinh tế thị trường phát triển, sự phức tạp đã thể hiện rõ ràng đồng thời cũng chỉ rõ sự khác biệt của những loại chứng khoán mới và các hợp đồng tương tự tại các thị trường có tổ chức cao (các sàn giao dịch hàng hoá tương lai, hợp đồng quyền chọn đối với các loại hàng hoá tại loại thị trường này).

– Căn cứ vào khả năng xác định người sở hữu chứng khoán, chứng khoán có thể là loại ghi danh hoặc loại vô danh. Chứng khoán ghi danh có đặc điểm người sở hữu chứng khoán chính là người được ghi tên trên chứng khoán đó và việc chuyển nhượng, giao dịch chứng khoán này cần phải thực hiện theo những trình tự nhất định. Chứng khoán vô danh không ghi tên người sở hữu chứng khoán, những ai đang nắm giữ chứng khoán một cách hợp pháp, chính là người sở hữu chứng khoán. Tổ chức phát hành tuỳ theo mục đích của mình, có thể có những lựa chọn loại chứng khoán cho từng đợt phát hành.

– Căn cứ vào hình thái biểu hiện, có thể có chứng khoán chứng khoán chứng chỉ và chứng khoán ghi sổ. Chứng khoán chứng chỉ được thể hiện bằng các chứng từ, với đầy đủ các thông tin về tổ chức phát hành, mệnh giá, thời gian phát hành và các thông tin khác. Chứng khoán ghi sổ có đặc điểm trên đó tổng hợp chứng khoán (theo từng tài khoản) của người sở hữu chứng khoán. Chứng khoán ghi sổ tạo điều kiện cho việc cất giữ (lưu kí) và chuyển nhượng chứng khoán nhanh, thuận lợi; chứng khoán chứng chỉ tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ, có nhu cầu giao dịch chứng khoán không thường xuyên.

Lợi ích của chứng khoán và thị trường chứng khoán là gì?

Chứng khoán và thị trường chứng khoán hiện nay đã và đang tác động nhiều đến nền kinh tế ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Đây được xem như một thước đo sức mạnh của nền kinh tế. Từ đó tạo điều kiện tốt hơn cho Chính phủ kiểm soát hoạt động của nền kinh tế và hoạt động của các công ty niêm yết.

Với việc phát hành chứng khoán, các doanh nghiệp có thể huy động được những nguồn vón dài hạn thay vì chỉ đi vay ngân hàng. Đồng thời đây cũng là môi trường tiềm năng để các nhà đầu tư tham gia để tạo ra lợi nhuận cho bản thân mình và doanh nghiệp.

Trên đây, Luật Hoàng Phi đã mang tới cho Quý khách hàng những thông tin cơ bản để giải đáp cho câu hỏi Chứng khoán là gì? Là người mới tham gia vào thị trường chứng khoán thì chắc hẳn những thông tin này sẽ giúp quý vị hiểu rõ hơn Chứng khoán là gì? cùng các vấn đề xoay quanh. Để được tư vấn và giải đáp chi tiết tất cả những vướng mắc, Quý khách hàng đừng ngần ngại liên hệ với Luật Hoàng Phi qua tổng đài 1900  6557.

Từ khóa » Tư Bản Tồn Tại Dưới Hình Thức Chứng Khoán Có Giá Và Mang Lại Thu Nhập Cho Người Sở Hữu Nó Là