Chương 3: II. Chăn Trâu đốt Lửa - Vị Cứu Tinh Của Thơ Lục Bát - Kilopad
Có thể bạn quan tâm
Trong cuộc đời văn chương của tôi, có ba bốn tao ân ái, mà tôi không sao quên được. Đúng là:
Ý chừng duyên nợ với nhau đây
Chao ôi! Ba bốn tao ân ái
Đã đủ tan tành một kiếp trai
Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ
Đành phụ nhau thôi, kẻo đến ngày...
(Thơ Nguyễn Bính)
Khoảng 1992-1993, Đồng Đức Bốn gặp tôi. Lúc này, anh đang ở giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời mình. Tang cha, tang mẹ, tang con... Răng đau: dấu hiệu đầu tiên của tuổi già... Cuộc sống bấp bênh... Niềm khao khát thơ ca cháy bỏng khôn nguôi... Tế nhị, nhạy cảm, túi rỗng không, giàu tự trọng và đa nghi như Tào Tháo...
Đồng Đức Bốn đã ở trong gia đình tôi một thời gian ngắn. Chúng tôi nói chuyện với nhau nhiều về cuộc sống và thơ ca. Tôi nhận ra anh là một nhà thơ lục bát có một không hai.
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
*
* *
Chiều nay Hồ Tây có giông
Tôi ngồi trên sóng mà không thấy chìm.
*
* *
Vẫn còn thấy ở ca dao
Y nguyên hai múi bưởi đào em cho
Vẫn còn trong nắng thập thò
Tôi và em xuống con đò ban mai...
Lục bát của Đồng Đức Bốn có một cái gì khác người, hiếm và lạ.
Chúng ta biết rằng lục bát là một thể thơ cổ truyền đặc biệt Việt Nam, niêm luật nguyên thủy của nó cực kỳ chặt chẽ. Nhịp bình thường của câu thơ là nhịp đôi, câu sáu có ba nhịp (Chiều nay / Hồ Tây / có giông), câu tám có bốn nhịp (Tôi ngồi / trên sóng / mà không / thấy chìm). Đôi khi câu sáu có hai nhịp ba (Vẫn còn thấy / ở ca dao), câu tám có hai nhịp ba và một nhịp hai (Y nguyên hai / múi bưởi đào / em cho). Một quy định nữa là trong mỗi câu, cứ chữ cuối của nhịp trước là bằng thì chữ cuối của nhịp sau là trắc và ngược lại. Các chữ cuối nhịp phải là bằng, trắc lần lượt xen nhau. Riêng chữ thứ sáu và chữ thứ tám trong câu tám tuy đều là bằng nhưng không được cùng một thanh (chữ này là phù bình than thì chữ kia là trầm bình thanh hoặc ngược lại).
Tuy quy định niêm luật chặt chẽ nhưng lục bát lại là một thể thơ dễ làm, ai cũng làm được (đương nhiên để làm cho hay thì không phải dễ!). Căn bệnh mà nhiều người làm thơ lục bát thường mắc là nhiều chữ quá, khôn chữ quá. Càng dụng công bao nhiêu thì thơ họ làm càng thiếu tự nhiên, càng dở bấy nhiêu. Tác giả giống như một người đang chơi trò chơi trí uẩn: anh ta nặn óc tìm cách sắp xếp các con chữ, các âm vận, âm điệu, cố khuôn nó vào ở trong niêm luật. Tôi đã từng gọi kiểu làm thơ này là thuộc môn phái trí năng, làm thơ bằng trí. Đồng Đức Bốn thuộc vào loại mà tôi gọi là môn phái ngộ năng, làm thơ bằng gì thì chịu: có lẽ bằng tình chăng? Có lẽ bằng quán âm (lắng nghe âm thanh bên trong) chăng?
Thế nào là trí năng, thế nào là ngộ năng? Để cho dễ hiểu, tôi xin ví dụ như sau:
Loại trí năng:
Làng ta phong cảnh hữu tình
Dân cư đông đúc như hình con long
Nhờ giời hạ kế sang đông
Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi...
*
* *
Cái gì nó bé nó cay
Cái gì nó bé nó hay cửa quyền
Hạt tiêu nó bé nó cay
Đồng tiền nó bé nó hay cửa quyền...
Loại trí năng có vẻ ở câu sáu như thế này thì ở câu tám phải như thế kia, những liên tưởng dễ dắt nhau lôgic và có lý, đọc câu sáu người ta luận được câu tám. Những người nhiều chữ, những trí thức làm thơ, hoặc học đòi trí thức làm thơ thường ở loại này.
Loại ngộ năng:
Hôm kia anh đến chơi nhà
Thấy mẹ nằm võng, thấy cha nằm giường
Thấy em nằm đất anh thương
Anh ra kẻ chợ đóng giường tám thang
Bốn góc thì anh thếp vàng
Bốn chân thếp bạc, tám thang chạm rồng
Bây giờ phải bỏ giường không
Em đi lấy chồng phí cả công anh.
Gió bay đôi giải yếm đào
Anh thò tay vào bắt lấy nhạn xanh
Thế nào nàng nói cùng anh
Thì anh mới thả nhạn xanh cho về.
Loại ngộ năng vị tình, lấy tình át chữ, đọc câu sáu mà không đoán ra được câu tám thế nào. Ngộ năng có phần hay hơn trí năng.
Thực ra làm thơ lục bát cần tinh thông trí năng, nhưng trí năng học tập được, rèn luyện được, ngộ năng thì chịu, dứt khoát trời cho. Bởi vậy, lục bát mà ngộ năng thì hiếm quý. Ngộ năng đương nhiên bao gồm trí năng, nhưng trí năng không thể bao gồm ngộ năng được.
Trong lịch sử làm thơ lục bát ở Việt Nam, theo tôi tính thì đến 99,9% đều là ở diện trí năng. Môn phái trí năng đông đúc, thông minh, hùng hậu, và vì đông đúc, đương nhiên sẽ dung tục hơn. Số người làm thơ ở diện ngộ năng có thể đếm trên đầu ngón tay. Nguyễn Du là người số một, là thiên tài độc nhất vô nhị. Nguyễn Du ngộ năng (đương nhiên bao gồm cả trí năng nữa).
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Đến đầu thế kỷ XX, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu là ngộ năng:
Nước non nặng một nhời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ nhời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không...
Ở thế kỷ XX, Nguyễn Bính và có lẽ Bùi Giáng nữa đều là ngộ năng. Đây là Nguyễn Bính:
Em ơi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa...
Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
Láng giềng đã đỏ đèn dầu
Đợi em ăn giập miếng giầu em sang
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng đi một ngõ vội vàng chi anh
Em nghe họ nói phong thanh
Hình như họ biết chúng mình với nhau
Ai làm cả gió đắt cau
Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non...
Đây là Bùi Giáng:
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa
Gọi tên là một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
Dạ thưa phố Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.
Rằng xưa ký ức đàn bà
Tên là thiếu nữ, tuổi là dấn thân.
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau...
Trường hợp Bùi Giáng là một trường hợp đặc biệt, tôi tiếc chưa được gặp ông.
Khi gặp Đồng Đức Bốn, anh đã đọc cho tôi nghe chừng hơn 100 bài thơ anh làm. Tôi đã gạt đi tất cả những bài thơ tự do của anh và chỉ chọn ra 45 bài thơ lục bát để in thành tập thơ Chăn trâu đốt lửa. Về sau Đồng Đức Bốn đã đưa vào thêm 20 bài nữa để cho tập thơ dày dặn lên. Đồng Đức Bốn cho đến bây giờ vẫn không phải là người biết tự giới. Anh không bao giờ là người biết tự giới. Đồng Đức Bốn không phải là người được học hành, đỗ đạt. Tôi không chắc anh học hết phổ thông trung học. Vốn từ của anh loanh quanh khoảng 600 từ. Anh đi theo con đường trí năng là anh thất bại hoàn toàn, sẽ lấm lưng, trắng bụng như chơi! Giống như nhân vật Lý Quỳ trong truyện Thủy Hử, đánh nhau trên bờ thì thắng, xuống nước lập tức thua ngay!
Chăn trâu đốt lửa xuất bản năm 1993, là một tập thơ thuần lục bát. Tập thơ như một kỷ niệm bè bạn: họa sĩ Lương Xuân Đoàn vẽ bìa và tôi viết tựa. Do nhiều lý do nên lời tựa có nhiều chỗ chưa đúng nguyên văn, nhân đây xin in lại lời tựa ấy.
Từ khóa » Chăn Trâu đốt Lửa
-
Bài Thơ: Chăn Trâu đốt Lửa (Đồng Đức Bốn) - Thi Viện
-
"CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA" MỘT VÀI CẢM NHẬN - Tô Ngọc Thạch
-
Viết đoạn Văn Ghi Lại Cảm Xúc Về Một Bài Thơ Lục Bát Chăn Trâu đốt Lửa
-
Chăn Trâu đốt Lửa Trên đồng Rạ Rơm Thì ít Gió đông Thì Nhiều Mải Mê ...
-
Chăn Trâu đốt Lửa Trên đồngRạ Rơm Thì ít, Gió đông Thì Nh....... Mải Mê ...
-
Bài Thơ "Chăn Trâu đốt Lửa" Của Nhà Thơ Đồng Đức Bốn
-
Soạn Văn Lớp 6 Làm Một Bài Thơ Lúc Bát - Chân Trời Sáng Tạo
-
"Chăn Trâu đốt Lửa" - Sâu Sắc Một Triết Lý Nhân Sinh - Tho Luc Bat
-
Bài Thơ Chăn Trâu Đốt Lửa - Soạn Bài Làm Một Bài Thơ Lúc Bát
-
CẢM NHẬN BÀI THƠ CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA
-
Nhớ Quá Tuổi Thơ Tôi! | Pháp Luật
-
Tìm Một Vần Có Thể điền Vào Cả 3 Chỗ Trống Dưới đây: C