Chương II: Thọ Uẩn - Site Title

 Sách: Bài Kinh Về Đặc Tính Vô Ngã

Thiền sư Mahashi Sayadaw

Người dịch: Diệu Pháp (Sudhamma).

 

     CHƯƠNG II : THỌ UẨN 

“Vedanā bhikkhave anattā, vedanā ca hidaṁ bhikkhave attā abhavissa nayidaṁ vedanā ābādhāya saṁvatteyya labbhetha ca vedanāya evaṁ me vedanā hotu evaṁ me vedanā mā ahosīti. Yasmā ca kho bhikkhave vedanā anattā tasmā vedanā ābādhāya saṁvattati na ca labbhati vedanāya evaṁ me vedanā hotu evaṁ me vedanā mā ahosīti.”

“Này các tỳ khưu, Thọ uẩn vedanā không phải là bản ngã, linh hồn hay một thực thể sống.”

Cảm thọ có ba loại:

  1. Sukha vedanā — thoải mái, vui (thọ lạc)
  2. Dukkha vedanā — khó chịu, buồn (thọ khổ)
  3. Upekkhā vedanā — thản nhiên (thọ xả: chẳng thoải mái cũng chẳng khó chịu, chẳng vui, chẳng buồn). Chúng ta thường nhận ra thọ lạc và thọ khổ, nhưng khó nhận ra loại thọ xả chẳng vui chẳng buồn.

Khi trời nóng bức, một luồng gió mát hay một dòng nước lạnh chạm vào người sẽ gây ra cảm giác khoan khoái. Khi trời lạnh lẽo, ta cảm thấy ấm áp, dễ chịu khi quấn mình trong chăn nệm êm ấm. Để xua đi cảm giác căng cứng, ta duỗi tay, duỗi chân và cảm thấy thoải mái. Tất cả những cảm giác khoan khoái, dễ chịu, thoải mái khi tiếp xúc với những đối tượng như thế gọi là thọ lạc. Và chúng sinh lầm tưởng thọ lạc này là thực thể sống, nghĩ rằng: “Tôi cảm thấy thoải mái”, “Tôi cảm thấy sung sướng” và rồi săn đuổi, tìm kiếm những cảm giác này.

Cảm giác không thoải mái sinh khởi do tiếp xúc với những đối tượng như nóng, lạnh, ngứa, mệt mỏi… Khi những cảm giác không thoải mái sinh khởi, người ta cho rằng: “Chính tôi kinh nghiệm thọ khổ”, “Tôi cảm thấy nóng”, “Tôi cảm thấy ngứa”, “Tôi cảm thấy khó chịu”… Vì vậy, chúng sinh luôn tránh tiếp xúc với những đối tượng không đem đến sự thoải mái này.

Những điều Sư (ngài Mahasi) mô tả ở trên chỉ liên quan đến thọ khổ và thọ lạc nơi thân. Nhưng có một loại cảm thọ khác thuộc về tâm. Khi suy nghĩ về những đối tượng làm cho ta thỏa thích, cảm giác hạnh phúc, vui sướng (thọ lạc) sinh khởi nơi tâm. Và khi suy nghĩ về những điều làm cho ta thất vọng, chán nản, đau khổ hay sợ hãi, cảm giác buồn bã (thọ khổ) sinh khởi nơi tâm. Khi làm những công việc thường nhật, cảm giác bình thản thọ xả sinh khởi.

Cả ba loại cảm thọ này cũng phát sinh khi chúng ta suy nghĩ hay tưởng tượng điều gì. Và khi cảm thọ sinh khởi, chúng sinh cho cảm thọ là một thực thể sống, nghĩ rằng: “Tôi cảm thấy vui”, “Tôi cảm thấy buồn”, “Tôi cảm thấy chẳng vui chẳng buồn”…

Thọ lạc cũng sinh khởi vào lúc năm căn (mắt, tai, mũi, lưỡi và thân) tiếp xúc với những đối tượng hài lòng trong tiến trình thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm. Và những loại thọ lạc này được đồng hóa với một bản ngã, một thực thể sống rằng: “Tôi thấy khoan khoái, dễ chịu”, “Tôi cảm thấy vui”… Vì lẽ đó, con người theo đuổi, tìm kiếm những điều tốt đẹp để tận hưởng thọ lạc trong đời. Họ đến những nơi vui chơi giải trí, dùng hoa thơm hay dầu thơm, sẵn sàng bỏ nhiều thời gian công sức và chấp nhận cả những nguy hiểm chỉ để thỏa mãn những cảm giác khoan khoái, vui vẻ mà mình muốn.

Khi những đối tượng không hài lòng được thấy, nghe, ngửi, nếm… thọ khổ sinh khởi. Và người ta nghĩ rằng: “Tôi là người đau khổ.” Do vậy, con người cố gắng tránh những đối tượng gây ra đau khổ này.

Với những cảnh tượng chúng ta thấy thường ngày, nghe thường ngày hay với những đối tượng chẳng có gì đặc biệt, thọ xả sẽ sinh khởi. Và loại thọ xả này cũng bị đồng hóa với một bản ngã, một cái tôi, cho rằng: “Tôi chẳng thấy vui, chẳng thấy buồn.” Người ta không thích có loại thọ xả như vậy, cho nên họ luôn tìm kiếm những cảm thọ làm họ vui thích.

CẢM THỌ TRONG VI DIỆU PHÁP và TẠNG KINH

Theo Vi Diệu Pháp, thọ xả sinh khởi vào lúc thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm. Tuy nhiên có những bài kinh mô tả cả ba loại cảm thọ (xả, lạc và khổ) sinh khởi ở sáu căn. (Không những mô tả ba cảm thọ), có những bài kinh còn dạy chúng ta quan sát các cảm thọ này vào lúc thấy, nghe… để hiểu được bản chất thật sự của chúng.

Phụ Chú Giải của quyển Thanh Tịnh Đạo giải thích về ba loại cảm thọ sinh khởi vào lúc thấy, nghe như sau:

“Dù nói rằng tâm thấy (Nhãn Thức) sinh khởi với thọ xả, nhưng nếu đây là quả của một hành động bất thiện (trong quá khứ), thì bản chất của nó phải là khổ, không thể là lạc. Tương tự như vậy, dù nói rằng tâm thấy (là quả của một hành động thiện trong quá khứ) sinh khởi với thọ xả, nhưng vì quả thiện có bản chất an lạc, nên tất cả những thiện nghiệp đều trổ quả thiện và sinh khởi với thọ lạc.”

Giải thích trên của Phụ Chú Giải xem chừng hợp lý nhất và điều này có thể kiểm nghiệm qua kinh nghiệm cá nhân. Khi có một đối tượng hài lòng sinh khởi, vào lúc chúng ta thấy đối tượng này, cảm giác vui sướng (thọ lạc) trở nên nổi bật. Khi thấy đối tượng ghê gớm, kinh dị, đáng ghét, cảm giác sợ hãi hay giận dữ (thọ khổ) trở nên nổi bật. Những kinh nghiệm này trở nên rõ ràng hơn trong tiến trình nghe: một âm thanh ngọt ngào, êm dịu tạo ra cảm giác thỏa thích, âm thanh chói tai gây ra sự bực bội không chịu nổi nơi người nghe. Tuy nhiên, những cảm thọ này biểu hiện rõ ràng hơn hết trong tiến trình ngửi: với một mùi hương nhẹ thoảng qua mũi, cảm giác khoan khoái lập tức sinh khởi, trong khi mùi hôi thối lập tức gây ra sự buồn nôn, chóng mặt hay những triệu chứng khác. Một làn hơi độc thoảng qua có thể gây ra cái chết. Và những cảm thọ này cũng có thể được kinh nghiệm trong khi ăn: với thức ăn ngon hợp khẩu vị, ta kinh nghiệm cảm giác thỏa thích nơi lưỡi, vị đắng của thuốc gây cho ta cảm giác khó chịu. Một chất liệu độc hại có thể gây ra cảm giác đau khổ quằn quại, thậm chí có thể dẫn đến cái chết.

“Do vậy, dầu nói rằng tâm thấy sinh khởi với thọ xả, nhưng nếu tâm thấy thọ xả này là quả của hành động bất thiện trong quá khứ, ta sẽ thấy những hình ảnh không tốt đẹp, và do đó, tâm thấy này có bản chất đau khổ. Tương tự như vậy, nếu loại tâm thấy thọ xả này là quả của hành động thiện trong quá khứ, ta sẽ thấy những hình ảnh đẹp đẽ, do vậy tâm thấy này có bản chất an vui.”

Qua đó chúng ta thấy rằng những giải thích từ Phụ Chú Giải là hợp lý nhất.

Theo tạng Kinh, ba loại cảm thọ có thể phát sinh vào lúc đối tượng được ghi nhận qua các căn. Và vì một trong ba loại cảm thọ này sinh khởi vào lúc chúng ta tạo nghiệp (với Tốc Hành tâm javana, trong tiến trình tâm sinh khởi nơi mắt, tai, mũi…), cho nên một số bài kinh đã nói rằng: cả ba loại cảm thọ có thể phát sinh trong lúc chúng ta ghi nhận đối tượng.

LẦM TƯỞNG THỌ UẨN LÀ BẢN NGÃ, LINH HỒN hay THỰC THỂ SỐNG

Khi thâu nhận đối tượng qua các căn, hay nói cách khác: khi thấy, nghe, xúc chạm, suy nghĩ… cảm thọ sinh khởi. Kinh nghiệm cảm giác dễ chịu, ta bám níu vào một cái tôi hay bản ngã, cho rằng: “Tôi cảm thấy dễ chịu.” Kinh nghiệm cảm giác khó chịu, ta bám níu vào một cái tôi, cho rằng: “Tôi cảm thấy khó chịu” hoặc: “Trước kia tôi cảm thấy dễ chịu nhưng bây giờ tôi cảm thấy khó chịu.” Khi thọ xả sinh khởi, chúng ta cũng bám níu vào một cái tôi hay bản ngã, cho rằng: “Tôi chẳng cảm thấy khó chịu hay dễ chịu.” Những hình thức bám níu vào một cái tôi có liên quan đến Thọ uẩn như thế được gọi là vedaka attā niềm tin cho rằng có một bản ngã hay linh hồn cảm nhận thọ lạc, thọ khổ hoặc thọ xả.

Người đời thường bám níu vào đức tin về một bản ngã hay linh hồn như thế. Trong văn hóa Ấn Độ, Thọ uẩn được mô tả như một linh hồn, hoặc có bản chất của một linh hồn. Ở Miến Điện, điều này không được viết vào văn tự, tuy nhiên người ta cũng tin có một thực thể sống như thế. Chẳng hạn như trong điều kiện thuận lợi vui vẻ, họ nói rằng: “Chính tôi là người tận hưởng những đối tượng làm cho tôi hài lòng”, và trong những hoàn cảnh khó khăn, họ nói rằng: “Chính tôi là người đau khổ.” Những tà kiến này chỉ sinh khởi với đối tượng hữu tình (chúng sinh), bởi lẽ những đối tượng vô tình như đá, cây… không cảm nhận được sự nóng lạnh, chẳng cảm thấy vui buồn trong những điều kiện tốt hay xấu. Ngược lại, những đối tượng hữu tình hay chúng sinh (loài có tâm thức) kinh nghiệm buồn vui trong những hoàn cảnh tốt, xấu. Do vậy, người ta nghĩ rằng phải có một linh hồn hay một thực thể sống ngự trị trong chúng sinh biết vui, buồn như thế.

Trong thực tế, thọ không phải là bản ngã, không phải là linh hồn hay một thực thể sống, mà chỉ là những hiện tượng sinh khởi và hoại diệt duyên theo những điều kiện tạo ra nó. Do vậy, Đức Phật tuyên bố một sự thật cao thượng rằng: “Này các tỳ khưu, Thọ uẩn không phải là bản ngã, không phải là linh hồn hay thực thể sống.” Và Ngài tiếp tục giải thích lý do:

“Này các tỳ khưu, nếu thọ này là bản ngã, linh hồn hay thực thể sống, thì nó sẽ không làm cho ta đau khổ hay phiền muộn và ta có thể sai bảo nó rằng: “Hãy để cho những cảm thọ của tôi như thế này (luôn vui vẻ, thoải mái) mà đừng để cho cảm thọ của tôi như thế kia (đừng để cho đau đớn, buồn khổ). Ta có thể sai bảo, điều khiển thọ này theo ý ta muốn.”

Thật vậy, nếu Thọ uẩn này là bản ngã, linh hồn hay thực thể sống, nó có thể làm theo ý chúng ta muốn và chẳng gây đau khổ cho ta, vì chẳng ai muốn gây ra đau khổ cho chính mình. Do vậy Đức Phật dùng mệnh đề: “Nếu Thọ uẩn là bản ngã, linh hồn…” Nếu cảm thọ không có khuynh hướng làm khổ chúng ta, nếu chỉ có thọ lạc sinh khởi và thọ khổ không hề sinh khởi (như chúng ta muốn), thì ta có thể nghĩ rằng: cảm thọ là linh hồn hay thực thể sống thật sự. Giả định: “Nếu Thọ uẩn là bản ngã, là linh hồn hay thực thể sống” làm chúng ta phải dừng lại để suy nghĩ xem cảm thọ có làm khổ chúng ta hay không và chúng ta có thể điều khiển nó theo ý chúng ta muốn hay không. Cẩn thận quan sát, ta sẽ thấy rằng hầu như lúc nào cảm thọ cũng làm khổ chúng ta, nó sinh khởi không vì chúng ta muốn mà vì sự có mặt của những điều kiện làm cho nó sinh khởi.

Qua kinh nghiệm cá nhân, chúng ta có thể thấy rõ bản chất áp đảo của Thọ uẩn. Ta không thể nào muốn mọi thứ xảy ra theo ý ta để ta thỏa thích tận hưởng những hình ảnh đẹp, âm thanh hay, mùi thơm, thức ăn ngon và sự xúc chạm êm ái. Chúng ta cũng phát hiện ra rằng thọ khổ xảy ra thường xuyên hơn thọ lạc. Và ta không thể nào có được cảm thọ như ý muốn bởi vì nó không là linh hồn hay thực thể sống.

Đức Phật tiếp tục giải thích vì sao cảm thọ không phải là tôi, ta như sau:

“Trong thực tế, thọ không phải là linh hồn hay thực thể sống. Vì nó không phải là tôi, ta, linh hồn hay thực thể sống nên nó có khuynh hướng áp đảo chúng ta và ta không thể sai bảo nó rằng: hãy để những cảm thọ như thế này mà đừng như thế kia.”

Dù cảm thọ áp đảo chúng ta và dầu ta không điều khiển được nó, nhiều người vẫn chấp chặt vào tà kiến tin vào một thực thể sống nơi Thọ uẩn. Vì tham muốn có thọ lạc, họ tin rằng thọ lạc là “tôi” và thỏa thích với nó. Nhưng khi quan sát một cách cẩn thận, chúng ta thấy rằng cảm giác hạnh phúc, vui vẻ là vô cùng ngắn ngủi và khan hiếm so với những đau khổ và phiền muộn mà ta kinh nghiệm trong đời.

NHỮNG ĐAU KHỔ DO THỌ UẨN GÂY RA

Để có được cảm giác thoải mái, ta phải liên tục điều chỉnh, thay đổi tư thế. Khi giữ thân này ở một tư thế trong một thời gian, sự cứng, tê, nóng, đau sinh khởi làm ta khó chịu. Chỉ khi chúng ta thay đổi tư thế thì cái đau này mới mất đi. Bản chất áp đảo của Thọ uẩn cũng biểu hiện rõ ràng nơi mắt, vốn cần nhắm và nháy liên tục. Không có sự điều chỉnh như vậy, mắt trở nên mệt mỏi không chịu nổi. Những cơ quan khác nơi cơ thể cũng cần có sự điều chỉnh như vậy. Trong một số trường hợp, dẫu ta cố gắng thay đổi và điều chỉnh cơ thể này, nhưng những đau khổ tột cùng do Thọ uẩn gây ra có thể đưa đến bệnh nặng và cái chết. Lắm lúc, người bệnh muốn tự tử chỉ vì không chịu nổi những cơn đau.

Đau đớn nơi thân và những đau khổ, buồn phiền nơi tâm không chỉ do Thọ uẩn gây ra mà Sắc uẩn cũng góp phần vào trong đó, bởi lẽ Sắc uẩn là nền tảng làm đau khổ phát sinh. Vì vậy, ba loại cảm thọ cũng được đề cập đến khi nói về những đau khổ do Sắc uẩn gây ra trong chương trước.

Tuy nhiên, buồn phiền và đau khổ nơi tâm là do Thọ uẩn gây ra mà không có sự tham dự của Sắc uẩn. Trong trường hợp những người thân yêu (cha mẹ, vợ chồng, con cái…) qua đời, Thọ uẩn gây ra nhiều đau khổ và phiền muộn. Sự mất mát của cải cũng gây ra lắm đau khổ, thậm chí dẫn đến cái chết. Sự rối rắm, bất mãn do không thể giải quyết những vấn đề trong đời, do phải xa cách bè bạn, do những ước nguyện không thành là những hình thức đau khổ do Thọ uẩn  gây ra.

Ngay cả những hạnh phúc đem đến cho ta cảm giác thỏa thích cũng là nguyên nhân gây ra buồn phiền, bởi lẽ cảm giác này lập tức mất đi ngay sau khi nó vừa sinh khởi. Khi hạnh phúc mất đi, người ta sẽ đau khổ sống với những kỷ niệm và hoài mong hạnh phúc này trở lại. Nỗ lực duy trì những hạnh phúc mà ta muốn có cũng gây ra lắm mệt mõi, phiền muộn. Bám níu vào thọ lạc, con người luôn theo đuổi những trạng thái thỏa thích, vừa long, dù có phải đánh đổi mạng sống của mình đi nữa. Và khi người ta dùng những thủ đoạn bất hợp pháp và vô đạo đức để có được cái mình muốn, thì hậu quả của những ác nghiệp này sẽ giáng vào cuộc đời của họ trong kiếp này và các kiếp sau nơi bốn cảnh khổ. Vậy thọ lạc gây ra lắm đau khổ và phiền muộn.

Cũng giống như thọ lạc, thọ xả upekkhā vedanā đem đến cho ta cảm giác thoải mái và an lạc. Vì nó đem đến sự thoải mái, an lạc nên ta muốn tận hưởng loại thọ xả này. Nhưng cả hai: thọ lạc và thọ xả chỉ tồn tại trong một thời gian vô cùng ngắn ngủi. Vì chúng có bản chất tạm bợ, không tồn tại lâu, ta phải nỗ lực duy trì, gìn giữ chúng. Duy trì và gìn giữ sao cho cảm thọ ở lại với ta quả là khổ sở và mệt mỏi (saṅkhāra dukkha), bởi lẽ mọi hiện tượng sinh khởi theo cách thức và điều kiện riêng của chúng. Vậy cả ba loại cảm thọ có cùng bản chất áp đảo, gây ra lắm phiền muộn.

Khi không có cảm thọ, đau đớn hay thoải mái nơi thân và tâm sẽ không sinh khởi, và do vậy đau khổ không thể phát sinh. Một cục gỗ, một cái cột, một hòn đá và một ụ đất không kinh nghiệm đau khổ vì chúng không có những cảm thọ. Dù bị nghiền nát hay đốt cháy chúng cũng không đau khổ.

Vì luồng tâm và vật chất luôn sinh khởi với những cảm thọ và cảm thọ gây phiền muộn cho ta bằng nhiều cách, Thọ uẩn rõ ràng chẳng phải là linh hồn hay thực thể sống.

KHÔNG THỂ ĐIỀU KHIỂN THỌ UẨN

Các cảm thọ không thể điều khiển theo ý ta muốn. Ta không thể dàn xếp để chỉ thấy và nghe những điều hài lòng, chỉ ngửi và nếm những gì thơm ngon. Và cho dù ta gắng sức, bỏ công để có được những đối tượng thấy, nghe, ngửi, nếm mà ta thích nhất, chúng cũng chẳng tồn tại lâu. Ta chỉ có thể thỏa thích hưởng thụ chúng trong khoảng thời gian cực kỳ ngắn ngủi trước khi chúng biến mất. Ta không thể kiểm soát và duy trì một trạng thái mà trong đó chỉ có những đối tượng đem đến sự vui thích, hài lòng ở lại với ta mãi mãi. Khi những hợp đối tượng tốt đẹp đem đến cho ta nhiều hứng thú mất đi, những đối tượng mà ta không thích, lập tức sinh khởi gây ra đau khổ. Như đã nói ở phần trên, những âm thanh chói tai làm chúng ta bực bội hơn là những hình ảnh xấu xa, mùi hôi làm chúng ta khó chịu hơn là âm thanh chói tai, và vị nếm dở là tệ hơn hết. Hơn nữa, hơi độc có thể gây ra cái chết. Và tệ nhất là những cảm giác đau đớn xúc chạm qua thân khi ta bị thương tích do tai nạn xe cộ, vũ khí, lửa hay bệnh tật. Có những cơn đau quá mức trên thân không thể diễn tả nổi, lắm khi đến mức độ làm cho người này rên la than khóc, đi đến chết. Ta không thể nào cấm những thọ khổ như vậy đừng sinh khởi. Với cái gì không thể điều khiển được, cái đó chắc chắn không phải là tôi, ta hay linh hồn. Do vậy cảm thọ không phải là bản ngã, linh hồn hay thực thể sống. Bám níu vào nó, coi nó như là một thực thể sống bên trong quả là một sai lầm lớn.

Đến đây, Sư (ngài Mahasi) đã mô tả các cảm thọ kinh nghiệm ở cõi người. Nhưng những cảm thọ sinh khởi ở bốn cảnh khổ[1] còn khủng khiếp hơn nhiều. Trâu, bò, gà, heo… luôn luôn bị hành hạ và chẳng ai giúp đỡ, bảo vệ chúng khỏi những đau đớn, phiền muộn. Ngạ quỷ đau khổ hơn thú vật, nhưng chúng sinh trong cảnh địa ngục là đau khổ nhất. Chúng ta không thể dửng dưng nghĩ rằng bốn cảnh khổ này chẳng liên quan đến chúng ta. Chỉ đến khi đạt được Thánh đạo quả đầu tiên, ta mới không tái sinh vào bốn cảnh khổ này.

Trong mỗi kiếp sống, cảm thọ luôn áp đảo, làm khổ chúng ta, nên cảm thọ không thể là tôi, ta hay một thực thể sống bên trong. Thọ khổ hay những buồn phiền mà ta không mong cầu cứ tự động sinh khởi theo đường lối riêng của chúng. Và ta không thể ngăn chận những thọ khổ đừng sinh khởi. Tất cả những điều này biểu hiện bản chất không điều khiển được của Thọ uẩn. Do vậy cảm thọ không thể là một linh hồn hay thực thể sống nào bên trong ta.

Như đã ghi chép trong kinh điển, các cảm thọ được cảm nhận trong thân có khuynh hướng gây ra đau khổ và không thể nào điều khiển được, và do vậy, Thọ uẩn không thể là bản ngã, linh hồn hay thực thể sống. Dù vậy, người đời thường bám vào tà kiến cho rằng: “Chính tôi là người đau khổ sau khi kinh nghiệm những hạnh phúc”, “Chính tôi là người hạnh phúc sau khi trải qua những căng thẳng, phiền muộn”… Chẳng dễ gì loại trừ tà kiến tin vào một thực thể sống như vậy. Niềm tin rằng cảm thọ là linh hồn hay một thực thể sống đã có từ lâu đời và ăn sâu trong tiềm thức. Niềm tin sai lầm này chỉ có thể được loại trừ khi người ta nhận ra được bản chất thật sự của Thọ uẩn. Và bản chất thật sự của Thọ uẩn chỉ có thể được nhìn thấy qua hành thiền Minh Sát Satipaṭṭhāna Vipassanā, còn gọi là Trung Đạo, do Đức Phật chỉ dạy. Bây giờ, chúng ta sẽ nói về cách thức loại trừ sự bám níu vào một cái tôi bằng cách quán chiếu Thọ uẩn.

QUÁN TƯỞNG CÁC CẢM THỌ

Hướng dẫn hành thiền Minh Sát đã được mô tả ngắn gọn trong Chương I. Ghi nhận phồng, xẹp, ngồi… như được chỉ dẫn, thiền sinh sẽ nhận ra thọ khổ qua sự đau, cứng hay nóng nơi thân. Vào lúc này, thiền sinh cần tập trung quan sát những cảm thọ khác nhau khi chúng sinh khởi và ghi nhận: “đau, đau”, “cứng, cứng” hay “nóng, nóng”. Trong giai đoạn đầu, khi sự định tâm chưa được mạnh mẽ, những cảm giác khó chịu này dường như tăng lên. Tuy nhiên, thiền sinh cần kiên nhẫn chịu đựng các cảm giác khó chịu này càng nhiều càng tốt và liên tục quan sát ngay khi chúng sinh khởi. Khi sự định tâm gia tăng, những cảm giác khó chịu như vậy giảm dần và biến mất. Với sự định tâm mạnh mẽ, các cảm thọ đột nhiên biến mất hoàn toàn như thể ta lấy tay gỡ chúng đi ngay khi đang quan sát, đang ghi nhận chúng. Và chúng sẽ không trở lại làm phiền thiền sinh thêm nữa. Trong câu chuyện liên quan tới bài kinh Thất Giác Chi (Bojjhaṅga Sutta), Đại đức Đại Ca Diếp và các vị khác bệnh nặng và vô cùng đau đớn, nhưng khi nghe bài kinh Thất Giác Chi nói về năng lực của bảy yếu tố dẫn đến giác ngộ thì các vị lành bệnh ngay lập tức.

Trước khi có được sự định tâm mạnh mẽ như vậy, thiền sinh nhận thấy rằng cái đau sinh khởi ở nơi này biến mất để rồi cái đau lại sinh khởi ở một nơi khác. Cẩn thận quan sát những cảm giác khó chịu liên tục sinh và diệt trong một thời gian, thiền sinh nhận ra rằng Thọ uẩn có bản chất áp đảo và gây ra phiền muộn. Ta không thể nào ngăn cản thọ khổ đừng sinh khởi. Cả hai thọ khổ và thọ lạc do vậy không thể nào là linh hồn hay một thực thể sống. Đây chính là tuệ suy tưởng về vô ngã.

Nhớ lại sự biến mất nhanh chóng của cảm thọ trong khi ghi nhận, thiền sinh hiểu rằng các cảm thọ mất đi không phải vì mình muốn nó mất đi, cũng không phải vì nó nghe lời điều khiển của mình. Thiền sinh hiểu rằng cảm thọ biến mất là vì những điều kiện làm phát sinh sự định tâm có mặt vào lúc đó. Do vậy, cảm thọ là không điều khiển được. Thiền sinh cũng hiểu rằng mọi cảm thọ, dù là lạc hay khổ, là một tiến trình tự nhiên sinh khởi theo chiều hướng riêng của chúng. Nó chẳng phải là “tôi”, linh hồn hay thực thể sống gì cả. Và rồi khi ghi nhận sự sinh diệt liên tục của các cảm thọ, thiền sinh phát hiện ra rằng Thọ uẩn có bản chất vô ngã.

Đến tuệ Sinh Diệt Udayabbaya ñāṇa, thiền sinh thấy rằng việc hành thiền ghi nhận những đề mục sinh khởi bỗng trở nên dễ dàng, thoải mái và không còn kinh nghiệm những đau đớn, khổ sở nữa. Dễ chịu và thoải mái là biểu hiện của thọ lạc. Và dù thiền sinh muốn sự thoải mái, dễ chịu này kéo dài, một khi sự định tâm trở nên yếu dần, thọ lạc này tự động biến mất. Và thọ lạc có thể không sinh khởi trở lại cho dù thiền sinh có ao ước, khát khao bao nhiêu đi nữa. Từ đó, thiền sinh phát hiện ra rằng: cảm thọ không sinh khởi vì mình muốn, và vì cảm thọ là không điều khiển được, nó không phải là “tôi”, linh hồn hay thực thể sống. Thiền sinh hiểu được bản chất vô ngã của Thọ uẩn qua kinh nghiệm hành thiền của chính mình như thế.

Thiền sinh cũng thấy rõ bản chất vô ngã của Thọ uẩn vì nó liên tục mất đi sau mỗi lần ghi nhận. Trong giai đoạn đầu của việc hành thiền, thiền sinh rất đau khổ vì những cảm giác cứng, ngứa hay nóng nơi thân. Đôi khi thiền sinh cũng khổ sở vì những phiền muộn, thất vọng, sợ hãi, chán nản… Liên tục ghi nhận những cảm giác khổ này, thiền sinh sẽ phát hiện ra rằng: trong khi thọ khổ sinh khởi, thọ lạc không sinh khởi.

Trong khi hành thiền, đôi lúc thiền sinh kinh nghiệm cảm giác khoan khoái, thoải mái nơi thân tâm. Vào lúc nghĩ về những điều vui, cảm giác này (thọ lạc) sinh khởi. Thiền sinh cần liên tục ghi nhận thọ lạc này khi nó sinh khởi. Và rồi người này phát hiện ra rằng: trong khi thọ lạc sinh khởi, thọ khổ không sinh khởi.

Ngoại trừ những lúc thọ lạc và thọ khổ sinh khởi, thọ xả thường xuyên sinh khởi trong những tiến trình tâm và vật chất thông thường, chẳng hạn như trong tiến trình phồng xẹp. Vào lúc quan sát sự sinh diệt trong tiến trình phồng xẹp, có khi thiền sinh thấy thọ xả trở nên nổi bật. Khi thọ xả sinh khởi, thiền sinh nhận thấy thọ lạc và thọ khổ không sinh khởi.

Qua những kinh nghiệm hành thiền như thế, thiền sinh phát hiện ra rằng cảm thọ chỉ sinh khởi trong khoảnh khắc và lập tức biến mất. Do vậy, cảm thọ có bản chất tạm bợ, không phải là linh hồn, không phải là một cái tôi tồn tại vĩnh viễn.

Bây giờ, Sư (ngài Mahasi) muốn dùng bài kinh Dīghanaka Sutta để minh họa cho việc thành tựu đạo quả. Nhân vật chính trong bài kinh là Đại đức Xá Lợi Phất. Và trước hết, chúng ta sẽ nói về việc ngài Xá Lợi Phất chứng đắc các tuệ Minh Sát cao siêu ra sao.

CÔNG CUỘC TÌM KIẾM TRÍ TUỆ  CAO SIÊU CỦA NGÀI XÁ LỢI PHẤT

Hai người bạn trẻ là Upatissa và Kolita (sau này trở thành hai đại đệ tử của Đức Phật là ngài Xá Lợi Phất và ngài Mục Kiền Liên) rủ nhau tìm kiếm sự bất tử không già và không chết. Trong công cuộc tìm kiếm đó, họ trở thành đạo sĩ dưới sự hướng dẫn của vị thầy tên là Sañjaya. Chỉ trong vài ngày, cả hai đã học hết những gì mà vị thầy có thể dạy cho họ, và rồi nhận ra rằng phương pháp mà vị này truyền dạy chẳng giúp đạt đến điều họ đang tìm kiếm. Do vậy, cả hai từ giã thầy của mình và rong ruổi suốt miền trung du với hy vọng tìm ra chân lý.

Chẳng tìm ra chân lý nơi đâu, họ trở lại thành Vương Xá. Tại đây, đạo sĩ Upatissa gặp Đại đức Assaji, vị tỳ khưu trẻ nhất trong nhóm năm tỳ khưu đầu tiên, vào lúc vị này đang đi khất thực. Upatissa lập tức theo sau và đến nơi mà vị này ngồi dùng cơm trưa. Upatissa soạn chỗ ngồi, dâng nước uống và hỏi về người thầy cũng như giáo pháp mà vị này đã theo học. Đại đức Assaji trả lời rằng thầy của mình là một Đấng Toàn Giác, là Đức Phật. Tuy nhiên, Đại đức trở thành đệ tử của Đức Phật, chẳng bao lâu, nên chỉ biết chút ít để nói về giáo pháp của Ngài.

Upatissa thỉnh cầu rằng: “Hãy nói cho con biết cho dù nó ít ỏi đốn đâu, con sẽ tự mình suy gẫm để hiểu thêm.”

Nghe vậy, Đại đức Assaji nói những lời vắn tắt như sau:

“Ye dhammā hetuppabhavā, tesaṁ hetuṁ tathāgato āha. Te sañjā yo nirodho. Evaṁ vādi Mahāsamaṇo.”

“Có những hiện tượng sinh khởi vì những nguyên nhân nhất định, và Thầy của chúng tôi, Đấng Toàn Giác, đã nói về những nguyên nhân này. Và có một trạng thái mà mọi hiện tượng và những nguyên nhân của nó không còn (Niết Bàn), và Thầy của chúng tôi, Đấng Toàn Giác, cũng nói với chúng tôi về sự chấm dứt này. Đây là lời dạy của thầy chúng tôi, một bậc xuất gia cao thượng.”

Đại đức Assaji nói một cách ngắn gọn như vậy, rất ngắn gọn: “Tất cả các pháp sinh khởi do những nguyên nhân, và thầy của chúng tôi đã dạy về những nguyên nhân này.”  Nhưng những lời này đủ để đạo sĩ Upatissa thấy được ánh sáng của giáo pháp và đạt được đạo quả đầu tiên, trở thành vị Thánh Nhập Lưu. Quả là một thành tựu cực nhanh.

Thời nay, Sư (ngài Mahasi) thấy các thiền sinh không có tiến bộ nào đáng kể sau khi hành thiền trọn ngày trọn đêm. Chỉ sau bảy ngày gắng sức hành thiền, họ mới bắt đầu biết chút ít về tiến trình tâm-vật chất và bản chất vô thường, khổ, vô ngã. Hầu hết các thiền sinh phải mất hết một tháng rưỡi để đạt đến Thánh tuệ đầu tiên, trong khi những người khác phải mất đến hai tháng rưỡi hay ba tháng mới có được tuệ này. “Quả là lâu quá, phải không?”

Sự thành tựu nhanh chóng của đạo sĩ Upatissa có thể là do vị này đã tu tập và gần đạt tới Thánh Đạo, Thánh Quả trong các kiếp quá khứ. Đáng lẽ vị này đã đắc đạo quả trong các kiếp quá khứ, nhưng vì lời thề nguyện trở thành đại đệ tử của Đức Phật nên đạo quả chưa thành. Đến kiếp cuối cùng khi lời thề nguyện kia trở thành sự thật, vị này nhanh chóng đạt đạo quả do năng lực thiền Minh Sát trong các kiếp quá khứ thúc đẩy. Do vậy, dù giáo pháp được nghe vô cùng ngắn ngủi, nhưng nó chứa đựng một thông điệp rõ ràng giúp vị này phát triển nhanh chóng tuệ Minh Sát.

Trước khi Đức Phật tuyên giảng giáo pháp, mọi người tin rằng trong mỗi cá nhân có một thực thể sống, một cốt lõi hay một linh hồn tồn tại vĩnh viễn và không bị hoại diệt. Họ không hiểu rằng chỉ có những hiện tượng sinh khởi từ những nguyên nhân (liên tục sinh diệt), mà cho rằng có một cái gì đó tồn tại vĩnh viễn. Đại đức Assaji tuyên bố rằng không có một thực thể sống tồn tại vĩnh viễn mà chỉ có tiến trình tâm và vật chất. Chính tâm và vật chất này là khổ (Khổ Đế). Và tham ái (taṅhā), chấp thủ (upādāna) là nguyên nhân, nguồn gốc của mọi đau khổ (Tập Đế). Với tham ái và chấp thủ là nguyên nhân, tâm và vật chất trong mỗi cá nhân sinh khởi. Và rồi vì có tâm và vật chất này nên có sự thấy, nghe…

Upatissa bỗng hiểu ra rằng: từ lúc sinh ra đến giờ, tất cả những gì sinh khởi ở sáu căn chỉ là những tiến trình sinh diệt của tâm và vật chất. Và tâm-vật chất này sinh khởi vì sự tham ái, bám níu vào cuộc sống. Chúng ta cần hiểu rằng trong khi lắng nghe những lời Đại đức Assaji nói, Upatissa ghi nhận sự thay đổi, sinh diệt của các hiện tượng tâm và vật chất, và vì vậy lập tức kinh nghiệm Thánh đạo, Thánh quả, trở thành Thánh Nhập Lưu.

Sau khi trở thành Thánh Nhập Lưu, Upatissa muốn biết Đức Phật hiện đang ở nơi đâu. Khi Đại đức Assaji dùng cơm trưa xong và chuẩn bị đi, Upatissa nói rằng mình sẽ đến gặp Đức Phật, rồi vội vã trở về gặp người bạn Kolita của mình. Kolita để ý thấy tư cách tĩnh lặng, tự tại, sáng sủa nơi người bạn của mình nên hỏi rằng: “Này bạn, chắc là bạn đã tìm ra bất tử?” Upatissa tuyên bố rằng mình đã tìm ra bất tử và kể lại cho bạn mình nghe chuyện gì đã xảy ra. Khi Upatissa đọc lại những câu kệ của Đại đức Assaji, Kolita lắng nghe và trở thành vị Thánh Nhập Lưu.

Cả hai quyết định đến gặp Đức Thế Tôn. Trước khi đi, họ đến mời vị thầy Sañjaya của mình cùng đi. Sañjaya từ chối, nói rằng: “Ta chẳng muốn đi chút nào. Từ một cái bể chứa to, ta không muốn trở thành một cái bình chứa nước nhỏ. Ta không muốn trở thành đệ tử của kẻ khác”. Hai người bạn nhắc nhở vị thầy của mình rằng Đức Thế Tôn là một Đấng Giác Ngộ, và mọi người sẽ tìm đến Ngài. Nghe vậy, Sañjaya nói rằng:

“Đừng lo, có nhiều người ngu hơn là người khôn trên thế giới này. Người khôn sẽ đi tìm đạo sĩ Cồ Đàm, còn những người ngu, chiếm đa số, sẽ đến gặp ta. Hãy đi đi.”

Sư (ngài Mahasi) nói rằng ngày nay có lắm người mạo nhận mình là đạo sư nhưng có lối suy nghĩ giống như đạo sĩ Sañjaya vậy. Cho nên mọi người cần cảnh giác trước những vị thầy như thế.

Rồi Upatissa và Kolita cùng đi với 250 đạo sĩ, là tín đồ của họ, đến gặp Đức Thế Tôn. Sau khi nghe một thời pháp do Đức Thế Tôn giảng, 250 vị này trở thành A La Hán. Hai vị dẫn đầu cùng với 250 vị A La Hán này xin được gia nhập tăng đoàn và Đức Phật đã làm lễ xuất gia theo cách “Ehi Bhikkhu”, tức là gọi rằng: “Hãy đến đây, các tỳ khưu”. Từ đó trở đi, đạo sĩ Upatissa được gọi là Đại đức Xá Lợi Phất và đạo sĩ Kolita trở thành Đại đức Mục Kiền Liên.

Sau khi xuất gia, họ tiếp tục hành thiền. Đại đức Mục Kiền Liên đạt được quả vị A La Hán sau bảy ngày. Đại đức Xá Lợi Phất vẫn còn tiếp tục hành thiền Minh Sát theo phương pháp anupada dhamma (ôn duyệt và quan sát, ghi nhận cảm thọ sinh khởi với mỗi tâm thiền từ thấp đến cao) cho đến ngày rằm tháng hai thì đắc được đạo quả A La Hán (tức là hai tuần sau khi xuất gia).

Cũng vào ngày trăng tròn tháng hai ấy, đạo sĩ Dīghanakha, người ở lại với vị thầy Sañjaya, nghĩ rằng: “Bất cứ khi nào chú của mình là Upatissa đi gặp một đạo sư nào đó, chú luôn sớm trở về. Nhưng đến viếng sa môn Cồ Đàm lần này, chú đã ở lại đó hai tuần rồi mà không có tin tức. Ta nên đến đó tìm hiểu xem có gì đặc biệt trong giáo pháp của Đức Phật Cồ Đàm.” Nghĩ vậy, đạo sĩ tìm đến nơi Đại đức Xá Lợi Phất đang cư ngụ để tìm hiểu giáo pháp của Đức Phật.

KINH DĪGHANAKHA

Lúc đó, Đức Thế Tôn đang ở tại động Sukarakhātā ở đỉnh Linh Thú. Đại đức Xá Lợi Phất đứng phía sau, quạt nhẹ cho Ngài. Đạo sĩ Dīghanakha tiến đến chào hỏi Đức Thế Tôn và nói rằng: “Đức tin của tôi là như thế này, thưa ngài Cồ Đàm: tôi không thích gì cả.”

Đạo sĩ Dīghanakha muốn nói rằng mình không thích những đức tin cho là có sự tái sinh sau khi chết. Nhưng vì câu nói “tôi không thích gì cả” không diễn tả rõ ràng ý nghĩ của ông, cho nên ta có thể dựa vào đó mà lý luận rằng vị này cũng không thích đức tin của chính mình. Do đó, Đức Thế Tôn hỏi: “Vậy ông không thích luôn đức tin ‘không thích gì hết’ của ông có phải không?”

Nghe vậy, Dīghanakha trả lời một cách lập lờ rằng: “Cho dù tôi thích đức tin của tôi đi nữa, thì nó cũng vậy thôi.” Đây là cách trả lời của những người luôn cho rằng đức tin của mình là đúng, và khi nhận ra đức tin này là sai thì không dám nhìn nhận.

Để phân tích, giải thích về đức tin của vị đạo sĩ này, Đức Thế Tôn nói rằng: “Tin vào sự trường tồn (sassata) là gần với tham ái, gần với trói buộc, gần với sự thỏa thích, bám níu và chấp chặt. Tin vào sự đoạn tuyệt (uccheda) là không gần với tham ái, trói buộc, thỏa thích, là không bám níu và không chấp chặt.”

Nghe vậy, Dīghanakha vui mừng nói rằng: “Đạo sư Cồ Đàm khen ngợi đức tin của tôi.”

Nhưng Đức Thế Tôn chỉ muốn nêu lên mặt tốt và mặt xấu của hai quan điểm này mà thôi. Những người tin vào thuyết Trường Tồn tránh làm những điều xấu vì họ không muốn nhận lãnh những hậu quả xấu trong các kiếp sống sau. Dù làm những điều tốt, họ vẫn thỏa thích, say đắm trong những thú vui thế gian, và chính sự thỏa thích này làm cho vòng sinh tử của họ kéo dài. Và như các Chú Giải đã nói, những người này khó lòng bỏ được đức tin của họ. Cho dù có theo Phật Pháp, họ cũng khó lòng chấp nhận rằng không có một cái tôi, một linh hồn, một thực thể sống mà chỉ có một tiến trình tâm và vật chất sinh khởi liên tục. Với các vị A La Hán hoàn toàn diệt trừ tham ái và chấp thủ, không có một tiến trình tâm và vật chất nào sinh khởi nữa sau khi các vị này qua đời. Nhưng những người theo thuyết Trường Tồn tin rằng sau khi nhập diệt, các vị A La Hán vẫn tiếp tục tồn tại trong một hình thức tâm và vật chất đặc biệt nào khác.

Chú Giải giải thích về điều này như sau:

“Những người theo thuyết Trường Tồn biết rằng có kiếp sống hiện tại và những kiếp sống tương lai. Họ biết là làm điều tốt sẽ gặt quả tốt và làm điều xấu sẽ chịu quả xấu. Do vậy, họ cố gắng làm điều tốt và tránh làm những điều ác. Tuy nhiên, họ vẫn còn thỏa thích hưởng thụ những thú vui trong đời, và điều này dẫn tới tái sinh thêm nhiều lần nữa. Cho dù gặp được Đức Phật hay các đệ tử của Ngài, họ cũng khó lòng từ bỏ đức tin của mình.

Vì vậy nói rằng những người theo thuyết Trường Tồn khó lòng từ bỏ đức tin của mình, dù những sai lầm trong thuyết Trường Tồn không nặng nề lắm.

Ngược lại, những người tin vào thuyết Đoạn Tuyệt không biết rằng có những chúng sinh từ cõi khác tái sinh vào cõi người và có các kiếp sống trong tương lai. Họ không biết rằng làm điều tốt sẽ gặt quả tốt và làm điều xấu sẽ chịu quả xấu, cho nên họ không làm điều tốt và họ không sợ làm điều ác. Tuy nhiên, họ không thỏa thích trong các thú vui thế gian vốn dẫn đến tái sinh trong tương lai (bởi lẽ họ không tin có các kiếp sống trong tương lai). Do vậy, khi gặp Đức Phật hay các đệ tử của Ngài, họ dễ dàng từ bỏ tà kiến của mình dù những sai lầm trong thuyết Đoạn Tuyệt rất nặng nề.”

Dīghanakha không hiểu ý của Đức Phật. Ông cho rằng Đức Thế Tôn khen ngợi đức tin “chẳng có gì sau cái chết” của ông, nên nói rằng: “Đạo sư Cồ Đàm khen ngợi đức tin của tôi.”

Để giúp Dīghanakha từ bỏ tà kiến của mình, Đức Phật tiếp tục chê trách ba loại tà kiến thời đó. Đó là thuyết Trường Tồn cho rằng “tôi thích mọi thứ”, thuyết Đoạn Tuyệt cho rằng “tôi chẳng thích cái gì” và một hình thức tin vào thuyết Trường Tồn khác cho rằng “tôi thích một ít và tôi không thích một ít”. Điều Đức Phật giải thích được tóm tắt như sau: “Bám níu vào một trong ba loại tà kiến sẽ sinh ra bất đồng với hai tà kiến còn lại. Bất đồng sẽ đưa đến tranh luận và rồi cãi vã. Một khi có cãi vã thì sẽ có tổn thương.” Vì vậy, Đức Phật khuyến khích từ bỏ ba loại tà kiến trên.

Câu hỏi được đặt ra nơi đây là: Quan điểm “Những khởi sinh mới phát sinh ở kiếp sống mới do nghiệp tạo duyên” trong Phật giáo chẳng giống với quan điểm của thuyết Trường Tồn hay sao? Câu trả lời là: Không. Phật giáo không tin có một cái tôi, một thực thể sống, một linh hồn di chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. “Những sinh khởi mới” có nghĩa là những sinh khởi của tâm và vật chất trong kiếp sống mới do nghiệp của quá khứ tạo duyên. Nhưng thuyết Trường Tồn lại cho rằng có một linh hồn di chuyển từ kiếp sống cũ sang kiếp sống mới. Do vậy, hai quan điểm này hoàn toàn khác nhau.

Một câu hỏi khác được đặt ra nơi đây là: Quan điểm trong Phật giáo cho rằng: “Khi một vị A La Hán qua đời, luồng tâm và vật chất chấm dứt và sẽ không có luồng tâm- vật chất mới nào sinh khởi thêm nữa” chẳng giống với quan điểm của thuyết Đoạn Tuyệt cho rằng chẳng còn gì sau cái chết hay sao? Câu trả lời là: Hai quan điểm này không giống nhau. Theo thuyết Đoạn Tuyệt, có một thực thể sống tồn tại trước khi cái chết đến, và thực thể sống này sẽ mất đi sau cái chết. Và vì thực thể sống này sẽ tự động biến mất, người ta không cần ra sức làm gì để nó mất đi cả.

Ngoài ra, những người theo Chủ Nghĩa Duy Vật cho rằng: “Đau khổ chỉ sinh khởi trước khi cái chết đến.” Tin rằng những đau khổ hay hạnh phúc sinh khởi trước khi cái chết đến là tin vào một tự ngã, một linh hồn. Theo Phật giáo, chỉ có luồng tâm và vật chất sinh khởi liên tục trong một vị A La Hán trước khi Ngài qua đời, chứ không có linh hồn hay thực thể sống nào trong đó. Vậy vui hay buồn, hạnh phúc hay đau khổ chỉ là những biểu hiện tự nhiên của cảm thọ, và những cảm thọ này cứ liên tục sinh khởi. Sau khi vị A La Hán qua đời, luồng tâm và vật chất không còn sinh khởi. Vậy sự ngừng nghỉ, chấm dứt của luồng tâm và vật chất này không tự động xảy ra. Sự chấm dứt này có được là do những ô nhiễm trong tâm và luồng nghiệp lực, vốn là nguyên nhân làm tâm- vật chất sinh khởi, đã bị năng lực của Thánh Đạo loại trừ. Khi nguyên nhân làm phát sinh luồng tâm và vật chất bị loại trừ, sẽ không có luồng tâm và vật chất mới nào sinh khởi được nữa. Do đó, sự chấm dứt (không sinh khởi) của luồng tâm và vật chất sau khi vị A La Hán qua đời trong Phật giáo và quan điểm ‘chết là hết’ trong thuyết Đoạn Tuyệt khác xa nhau một trời một vực!

Một câu hỏi khác được đặt ra nơi đây là: Nếu như những người theo thuyết Trường Tồn tranh cãi với những người theo thuyết Đoạn Tuyệt, chẳng lẽ không có sự tranh cãi giữa những người tin có linh hồn và những người không tin có linh hồn (tin vào thuyết vô ngã) hay sao? Câu trả lời là: Giảng giải chánh kiến không phải là tranh cãi. Giảng dạy chánh kiến là chỉ ra sự thật nhằm đem lại lợi lạc cho nhiều người. Theo học thuyết vô ngã, chỉ có tiến trình tâm và vật chất liên tục sinh khởi, thay đổi từ cũ sang mới chứ không có một linh hồn tồn tại vĩnh viễn. Sự hiểu biết đúng đắn này chính là chánh kiến. Với sự hiểu biết đúng đắn về vô ngã như thế, người này sẽ không còn muốn tham gia vào những cuộc tranh cãi, biện luận gì nữa. Chúng ta sẽ có dịp hiểu thêm về điều này qua lời Đức Phật dạy ở phần cuối bài kinh này.

Sau khi giải thích ba loại tà kiến trên, tức là tà kiến về sự trường tồn, tà kiến về sự đoạn tuyệt và tà kiến một phần liên quan đến sự trường tồn và một phần liên quan đến sự đoạn diệt, Đức Phật khuyên mọi người từ bỏ những tà kiến này và đừng tham đắm, yêu chuộng cơ thể vật chất này nữa. Ngài dạy rằng:

“Aggivessana, thân thể vật chất này là do bốn yếu tố[2] tạo thành, sinh khởi từ máu và tinh trùng của mẹ cha, được nuôi dưỡng từ thức ăn như gạo, bánh mì… Vì nó có bản chất thay đổi vô thường, ta cần xoa bóp, thoa dầu cho thân này để gìn giữ và bảo quản nó. Dù cố làm vậy, nó vẫn bị hư hoại. Cho nên thân này cần được quán tưởng là thay đổi vô thường, là đau khổ, là một ổ bệnh tật, là gai nhọn, là ung nhọt, là tai họa, là phiền muộn, là cái gì xa lạ, là hư hoại và vô ngã. Khi quán tưởng như vậy, tham ái nơi thân này sẽ bị loại trừ.”

Nói về bản chất của thân như vậy, Đức Thế Tôn tiếp tục dạy về bản chất của tâm:

“Này Aggivessana, có ba loại cảm thọ nơi thân này là thọ lạc, thọ khổ và thọ xả. Khi kinh nghiệm một trong ba loại cảm thọ này, ta sẽ không kinh nghiệm hai loại cảm thọ kia. Và vì mỗi loại cảm thọ sinh khởi riêng rẽ, cho nên ta cần hiểu rằng nó có bản chất vô thường, do điều kiện mà phát sinh (saṅkhata), tùy thuộc vào nhân duyên (paṭiccasammuppāda), có khuynh hướng bị hủy hoại, biến mất (khaya, vaya), tan biến và chấm dứt (virāga, nirodha).”

Chúng ta nên hiểu rằng Đức Thế Tôn dùng những từ ngữ này để chỉ dẫn cách thức quán tưởng các cảm thọ. quán tưởng như thế, người này thấy rằng cảm thọ sinh khởi tùy thuộc vào những điều kiện, và cảm thọ lập tức biến mất ngay khi vừa sinh khởi.

Trong khi ghi nhận tiến trình tâm và vật chất nơi phồng xẹp như đã được chỉ dẫn, thiền sinh cần quan sát các cảm thọ. Thiền sinh quan sát và ghi nhận “đau, đau” khi cái đau sinh khởi, quan sát và ghi nhận “buồn, buồn” khi buồn sinh khởi, quan sát và ghi nhận “vui, vui” khi vui sinh khởi, quan sát và ghi nhận “thoải mái” khi thoải mái sinh khởi. Vào lúc thọ lạc (vui, thoải mái…) và thọ khổ (đau, buồn…) không biểu hiện rõ ràng, thiền sinh cần hướng tâm vào quan sát thân hay bất kỳ trạng thái tâm nào đang sinh khởi nổi bật.

Cẩn thận ghi nhận các cảm thọ như thế, thiền sinh thấy rõ rằng: thọ lạc và thọ khổ liên tục sinh khởi và nhanh chóng biến mất, giống như những giọt mưa tuôn đổ lên người đang đi dưới mưa và tan mất. Cũng giống như những giọt mưa bên ngoài, những “giọt mưa bên trong” (các cảm thọ) liên tục tuôn đổ như thể chúng từ bên ngoài rơi rớt vào thân này vậy. Thấy những hiện tượng diễn ra rõ ràng như thế, thiền sinh nhận ra rằng các cảm thọ là vô thường, bất toại nguyện vì chúng liên tục sinh diệt, và vô ngã vì không có một thực thể sống nào trong đó.

Thấy và hiểu như vậy, tuệ Nhàm Chán bắt đầu sinh khởi. Đức Thế Tôn tiếp tục giải thích về sự nhàm chán sinh khởi qua việc quán tưởng các cảm thọ như sau:

TUỆ NHÀM CHÁN SINH KHỞI  NHỜ QUÁN THỌ

“Aggivessana, khi hiểu ba loại cảm thọ này là vô thường, người này nhàm chán thọ lạc, thọ khổ và thọ xả.”

Chúng ta cần ghi khắc lời dạy này trong tâm. Mục đích của việc hành thiền Minh Sát là để phát triển tuệ Nhàm Chán (nibbbidā ñāṇa). Khi nào bản chất sinh diệt của các hiện tượng được nhìn thấy rõ ràng, khi đó đặc tính vô thường mới được hiểu trọn vẹn, và rồi tuệ Nhàm Chán bắt đầu sinh khởi.

Vì bài kinh Dīghanakha Sutta không nói gì về việc quan sát những thành phần riêng rẽ nơi thân, do đó thân thể này cần được quan sát như là một uẩn. Từ những trích dẫn trên của bài kinh, chúng ta biết rằng tuệ Nhàm Chán có thể sinh khởi mà không cần quan sát từng bộ phận riêng rẽ nơi thân như được mô tả trong Vi Diệu Pháp.

Nói về quán tâm, bài kinh chỉ nói đến ba loại cảm thọ mà không nhắc đến các tâm vương và tâm sở khác. Vậy tuệ Nhàm Chán có thể sinh khởi khi ta ghi nhận các cảm thọ vào lúc chúng sinh khởi. Nhưng ta không nên chọn quan sát thọ khổ mà thôi. Chúng ta cần quán sát ba loại cảm thọ vì cả ba đều sinh khởi trong tiến trình tâm và vật chất.

Và Đức Phật tiếp tục giải thích cách thức Thánh Đạo, Thánh Quả cùng với tuệ Ôn Duyệt Lại (Paccavekkhanañāṇa) sinh khởi sau khi tuệ Nhàm Chán phát sinh.

ĐẠO QUẢ SINH KHỞI DO NHÀM CHÁN

Khi tuệ Nhàm Chán sinh khởi, vì có sự nhàm chán mà tham ái yếu dần trong tâm thiền sinh. Nói một cách khác, khi người này không còn tham ái, Thánh đạo tuệ sinh khởi. A La Hán đạo có năng lực tận diệt tham ái và người này được giải thoát khi A La Hán quả sinh khởi. Được giải thoát, tri kiến sinh khởi và người này hiểu rằng tâm đã thoát khỏi mọi ô nhiễm. Với tuệ Ôn Duyệt Lại, vị A La Hán hiểu rằng: “Tái sinh đã chấm dứt, cuộc sống thánh thiện đang diễn ra, điều cần làm đã được làm, không có gì sinh khởi thêm nữa.”

Trong đoạn này, Đức Thế Tôn mô tả cách thức quả vị A La Hán được thành tựu và tuệ Ôn Duyệt Lại phát sinh. Và Ngài tiếp tục giải thích rằng sau khi đạt được đạo quả giải thoát A La Hán, vị này không muốn tham dự vào những cuộc biện luận, tranh cãi nữa:

“Aggivessana, một tỳ khưu đã thoát khỏi những phiền não, ô nhiễm trong tâm sẽ không còn muốn tranh luận với ai. Dù vẫn còn dùng những danh từ chế định như ‘tôi’, ‘bạn’, ‘đàn ông’ hay ‘đàn bà’, người này không còn nghĩ rằng những danh từ này là sự thật tuyệt đối nữa.[3]  Người này không còn tranh cãi với ai bởi vì người này đã hiểu được sự thật và chỉ nói về sự thật mà thôi.”

Chúng ta tìm thấy thông điệp này trong bài kinh Puppha Sutta thuộc phẩm Khandha vagga trong Tương Ưng Bộ Kinh (Saṁyutta Nikāya) như sau:

“Nahaṁ bhikhave lokena vivadāmi. Lokova mayā vivadati. Na bhikhave dhammavādī kenaci lokasmiṁ vivadati.”

“Này các tỳ khưu, Như Lai không tranh luận với thế gian. Chỉ có thế gian tranh luận với Như Lai. Này các tỳ khưu, một người có thói quen chỉ nói về sự thật sẽ không tham dự vào những cuộc tranh luận bàn cãi với ai trên thế giới này nữa.”

Nói một cách khác, khi người này nói về sự thật, ta không thể nói rằng người này đang tranh cãi.

 

ĐẠI ĐỨC XÁ LỢI PHẤT ĐẠT ĐẠO QUẢ A LA HÁN

Đức Phật dạy đạo sĩ Dīghanakha cách quán tưởng ba loại cảm thọ, nói rằng nhờ quán tưởng ba loại cảm thọ như trên, người này có thể đạt đến quả vị A La Hán. Đứng bên cạnh quạt hầu Đức Thế Tôn, Đại đức Xá Lợi Phất, vốn đã là thánh Nhập Lưu, chăm chú lắng nghe và đạt được đạo quả A La Hán.

Bài kinh Anupada Sutta mô tả tiến trình đạt đạo quả A La Hán của Đại đức Xá Lợi Phất như sau: Ngài tuần tự nhập nhất thiền, nhị thiền, các tầng thiền Sắc giới và Vô Sắc giới. Vào nhất thiền, Ngài ra khỏi nhất thiền và với phương pháp thiền Minh Sát, Ngài quán sát bản chất của tầng thiền này. Tuần tự như thế từ thấp đến cao, Ngài quán tưởng bản chất của các tầng thiền và đạt quả vị A La Hán trong ngày thứ 15.

Trong một bài kinh khác, Đại đức Xá Lợi Phất giải thích rằng Ngài đạt đạo quả A La Hán khi quan sát tiến trình tâm và vật chất sinh khởi trong thân tâm của mình. Từ ba bài kinh trên, chúng ta có thể thấy rằng Đại đức Xá Lợi Phất đã nhập các tầng thiền Định khi lắng nghe bài pháp của Đức Phật giảng về ba loại cảm thọ. Và mỗi lần ra khỏi các tầng thiền Định đó, Ngài quan sát các cảm thọ sinh khởi với các tầng thiền Định này. Nhờ vậy, Ngài đạt được các Thánh đạo và Thánh quả cao hơn.

Người cháu của Đại đức là đạo sĩ Dīghanakha trở thành Thánh Nhập Lưu trong khi lắng nghe Đức Phật giảng. Chúng ta cần hiểu rằng vị này trở thành Thánh Nhập Lưu vì năng lực thiền Minh Sát phát sinh trong khi quán sát những cảm thọ sinh khởi nơi thân tâm vị ấy vào lúc nghe pháp thoại.

Sau thời pháp, Đức Thế Tôn xuống núi Linh Thứu và triệu tập cuộc họp với các chư tăng đệ tử. Nhờ thần thông, Đại đức Xá Lợi Phất biết được ý định của Đức Phật nên bay đến tịnh xá Trúc Lâm. Đặc điểm của cuộc họp này là:

  1. Diễn ra vào ngày rằm tháng hai khi chòm sao Sư Tử rạng tỏ
  2. Chư tăng tự động đến dự mà không có lời mời
  3. Các chư tăng đến dự đều là những bậc A La Hán chứng đắc sáu thần thông[4]
  4. Các chư tăng đều thọ giới tỳ khưu theo cách thức “Ehi Bhikkhu“, tức là: “Hãy đến đây các tỳ khưu”

Kinh điển ghi lại rằng có 1.250 chư tăng đến dự cuộc họp do Đức Thế Tôn tổ chức.

Chúng ta đang nói đến Bài Kinh về Đặc Tính Vô Ngã, và bài Kinh Dīghanakha Sutta này được đưa vào để làm sáng tỏ thêm một số điểm trong Bài Kinh về Đặc Tính Vô Ngã. Sư (ngài Mahasi) muốn kết thúc bài giảng hôm nay bằng cách lập lại thông điệp nói rằng Thọ uẩn là vô ngã:

“Này tỳ khưu, Thọ uẩn không phải là bản ngã, linh hồn hay thực thể sống. Nếu thọ này là bản ngã, linh hồn hay thực thể sống, nó không gây ra đau khổ, buồn phiền, và ta có thể sai bảo thọ rằng: ‘hãy để thọ như thế này mà đừng như thế kia.’ Nhưng ta không thể sai khiến, điều khiển cảm thọ như thế được.”

— o0o –

[1] A tu la, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục

[2] Đất, nước, gió, lửa

[3] Theo Phật pháp, chẳng có ai thật sự tồn tại trên thế gian, cho nên chẳng có anh, em, tôi, đàn ông, đàn bà, thú… gì cả. Bốn sự thật tuyệt đối hay cái thật sự có mặt chỉ là: vật chất (tạo nên cái gọi là ‘thân thể’ này), tâm, tâm sở (đồng sinh khởi với tâm) và Niết Bàn. Vì thấy không có ai thật sự tồn tại, vị A La Hán không muốn tranh cãi chi nữa.

[4] Gồm: Biến Hoá Thông (Iddhividha): đi trên mặt nước, lặn xuống đất, bay trên không…, Thiên Nhĩ Thông (Dibbasota): nghe được những âm thanh từ rất xa hay nghe tiếng nói của chúng sinh ở cõi khác…, Tha Tâm Thông (Cetopariyañāṇa): hiểu được tâm của người khác…, Túc Mạng Thông (Pubbenivāsānassatiñāṇa): thấy được kiếp quá khứ…, Thiên Nhãn Thông (Dibbacakkhu): thấy được chúng sinh vô hình hay chúng sinh thuộc cõi khác… và Lậu Tận Thông (Āsavakkhayañāṇa): hiểu ô nhiễm đã bị loại trừ.

Share this:

  • X
  • Facebook
Like Loading...

Related

Từ khóa » Thọ Uẩn Là Gì