Chương XII - Đương đầu Với Chiến Lược "chiến Tranh Cục Bộ" Của đế ...

Chương XII - Đương đầu với chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ - cuộc tiến công Tết Mậu thân 1968

CHIẾN LƯỢC "CHIẾN TRANH CỤC BỘ" CỦA ĐẾ QUỐC MỸ. QUYẾT TÂM VÀ ĐỐI SÁCH CỦA TA.

Bước vào năm 1965, trên chiến trường miền Nam, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ căn bản bị đánh bại.

Tại Khánh Hòa, vào những tháng cuối năm 1965 thế và lực của địch bị suy sụp nghiêm trọng. Báo cáo tổng kết tình hình năm 1965 của Ty cảnh sát quốc gia Khánh Hòa viết: "Việt Cộng gia tăng mọi hoạt động, hạ tầng cơ sở bị địch phá vỡ, cán bộ mất tinh thần". Báo cáo ấy còn xác nhận "đành rằng Việt Cộng không chiếm được đất, mọi cuộc xuất hiện tập trung của chúng đều bị đẩy lùi khi quân đội ta hành quân đến. Nhưng khi ta rút chúng lại trở lại. Vì vậy, phải thừa nhận rằng Việt Cộng đã làm ung thối và phá vỡ đa phần cơ sở nông thôn, đẩy ta vào thể thủ, tạo cho ta thêm nhiều vấn đề nan giải". "Còn về đường giao thông thì trục Quốc lộ 1 bị chận nghẽn ở đoạn Ninh An, Ninh Thọ, làm sự giao thông từ Ninh Hòa ra Vạn Ninh bị gián đoạn".

Để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của ngụy quyền tay sai Sài Gòn, ngày 7 và ngày 11.2.1965, không quân Mỹ mở liên tiếp 2 cuộc không tập vào Quảng Bình và Vĩnh Linh. Ngày 13.2, không quân Mỹ mở cuộc hành quân "Sấm rền" ném bom và bắn phá liên tục miền Bắc nước ta. Ngày 8.3.1965, Lữ đoàn 9 thuộc Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3 của Mỹ gồm 3.500 tên đổ bộ lên Đà Nẵng.

Như vậy, đế quốc Mỹ đã chính thức phát động chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân với miền Bắc và đang từng bước chuyển cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta từ "chiến tranh đặc biệt" sang "chiến tranh cục bộ". "Chiến tranh cục bộ" là một trong ba hình thức chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, nhưng có hạn chế về quy mô và phạm vi. "Chiến tranh cục bộ" Mỹ phải đưa quân chiến đấu của chúng vào trực tiếp tham chiến. Quân đội tay sai bản xứ vẫn được duy trì, tiếp tục tăng cường, vẫn giữ một vai trò quan trọng nhưng phụ thuộc vào Mỹ. Quân Mỹ và quân ngụy là 2 lực lượng chiến lược để tiến hành chiến tranh nhưng quân Mỹ giữ vai trò chủ yếu.

Tin tưởng mù quáng vào sức mạnh mà chúng cho là ghê gớm của quân lực Huê Kỳ, ngày 9.7.1965, Tổng thống Mỹ Giôn-Xơn chuẩn y kế hoạch giành thắng lợi từ 2 năm đến 2 năm rưỡi của tướng Oét-mô-len. Kế hoạch chia làm 3 giai đoạn:

- Giai đoạn thứ nhất từ tháng 7 đến hết năm 1965, là giai đoạn triển khai quân chiến đấu Mỹ và chư hầu, giữ cho quân ngụy khỏi sụp đổ, ngăn chặn đà tiến công của ta.

- Giai đoạn thứ hai từ tháng 1 đến tháng 5.1966, quân Mỹ và chư hầu sẻ mở những cuộc tiến công lớn nhằm tiêu diệt chủ lực, phá chiến tranh du kích của ta, giành lại quyền chủ động chiến lược, đồng thời tiến hành bình định.

- Giai đoạn thứ 3 từ tháng 7.1966 đến tháng 7.1967 hoặc đến hết năm 1967, tiếp tục tấn công hoàn thành việc tiêu diệt lực lượng và phá căn cứ của ta. Quân Mỹ bắt đầu rút quân, công việc "bình định" giao lại cho quân ngụy.

Đất nước ta, dân tộc ta đứng trước những thử thách cực kỳ nghiêm trọng. Tuy nhiên, điều đó không vượt ra ngoài dự kiến của Đảng ta. Hội nghị lần thứ 11 (tháng 9.1965) và Hội nghị lần thứ 12 (tháng 12.1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã phân tách mọi mặt tình hình, đề ra nhiệm vụ cơ bản, nhiệm vụ cụ thể cho cả nước và riêng cho từng miền nhằm giữ vững thế chủ động, sẳn sàng đánh và đánh thắng địch khi chúng chuyển từ chiến lược "chiến tranh đặc biệt" sang chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, đó là quyết tâm dũng cảm, sắt đá của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên cả hai miền Nam-Bắc. Quyết tâm đó thể hiện trong Lời kêu gọi ngày 20.7.1965 của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn".

Theo đánh giá của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, dù là "chiến tranh đặc biệt" hay "chiến tranh cục bộ" cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ vẫn là một cuộc chiến tranh thực dân mới. Chúng vẫn phải dựa vào ngụy quân ngụy quyền, vẫn phải thực hiện một số chính sách mị dân nhằm lừa bịp, lôi kéo quần chúng. "Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn". Do đó, cách mạng miền Nam vẫn "giữ vững và phát triển thế chiến lược tấn công" tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng 3 mũi giáp công. Mục tiêu chủ yếu của đấu tranh vũ trang là:

- Tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng quân Mỹ làm cho nó tổn thất nặng, không làm được nòng cốt và chổ dựa cho quân ngụy, không ngăn chặn được sự tan rã của ngụy quân, ngụy quyền.

- Tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân ngụy tới mức nó không còn là lực lượng mà đế quốc Mỹ có thể dựa vào để tiếp tục chiến tranh xâm lược thực dân mới.

Ở Khu 5, đầu tháng 3.1965, khi những đơn vị đầu tiên của quân Mỹ vừa đổ vào Đà Nẵng, Thường vụ Khu ủy, Quân khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 5 căn cứ vào nhận định, hướng dẫn của Trung ương Đảng đã kịp thời phân tích, đánh giá tình hình và đề ra những biện pháp khẩn trương về công tác tư tưởng và tổ chức, nhằm chủ động chuẩn bị cho quân và dân trong Khu đánh Mỹ và mở hội nghị cán bộ trung, cao cấp toàn Quân khu để bàn việc đánh Mỹ.

Sau những ngày thảo luận sôi nổi, câu trả lời nhất trí của 200 cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị, địa phương, chiến trường là: Mỹ vào là bị động, ta có đủ khả năng đánh thắng quân chiến đấu Mỹ, hội nghị cũng nhất trí đề ra các chủ trương:

-Tranh thủ tiến công tiêu diệt và làm tan rã lớn quân ngụy, dồn quân ngụy lún sâu hơn nữa vào thế phòng ngự bị động, buộc quân Mỹ mới vào đã ở trong thế lúng túng.

- Cũng cố thế trận chiến tranh nhân dân; xây dựng "vành đai diệt Mỹ" ở những nơi có quân chiến đấu Mỹ, tổ chức đánh phủ đầu quân Mỹ.

- Nhanh chóng tăng cường lực lượng của 3 thứ quân.

- Phát động phong trào quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ trong toàn khu, phong trào thi đua giành danh hiệu "Thiện xạ diệt Mỹ", sau đó thống nhất toàn miền với tên gọi "Dũng sĩ diệt Mỹ".

QUÂN VIỄN CHINH MỸ VÀ QUÂN CHƯ HẦU NAM TRIỀU TIÊN TẠI NINH HÒA.

Trong chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp cũng như trong những năm đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược "chiến tranh đặc biệt", thị xã Nha Trang là nơi đóng các cơ quan đầu não của Vùng II chiến thuật và là căn cứ hậu cần lớn cho cả khu vực cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên của địch. Nay Mỹ leo thang gây "chiến tranh cục bộ" Nha Trang càng có vị trí quan trong hơn.

Huyện Ninh Hòa là căn cứ tiền tiêu phía Bắc của căn cứ hậu cần Nha Trang, có Quốc lộ 21 nối liền với Nam Tây Nguyên, nên vị trí huyện Ninh Hòa cũng rất quan trọng. Không những quan trọng về mặt địa lý mà Ninh Hòa còn là huyện luôn có phong trào kháng chiến rất mạnh. Năm 1965, trừ vùng giải phóng hai xã Ninh An, Ninh Thọ, Ninh Hòa đang liên tục tấn công, đồng khởi giải phóng thắng lợi liên tiếp nhiều xã ở đồng bằng của huyện như Ninh Thủy, Ninh Hưng, các thôn phía Bắc xã Ninh Đông và mở ra nhiều mảng lõng kèm, làm chủ rộng lớn khắp các vùng trong huyện. Phạm vi kiểm soát của địch ngày một thu hẹp. Bộ máy ngụy quyền cơ sở của chúng phần lớn bị phá vỡ, bị rệu rã hoang mang. Do vậy, chiếm đóng tỉnh Khánh Hòa, Mỹ-Ngụy rất chú ý đến địa bàn Ninh Hòa.

(1). Khu 5, 30 năm chiến tranh giải phóng tập II (thời kỳ 1945-4968).

Do địa bàn có vị trí quan trọng như vậy, nên chỉ trong một thời gian ngắn sau khi Lữ đoàn số 1 của Sư đoàn dù 101 Mỹ đến Cam Ranh, tháng 3.1966, quân Mỹ đã dội bom đánh phá ác liệt vùng Xuân Sơn huyện Vạn Ninh và vùng giải phóng xã Ninh An giáp với căn cứ kháng chiến Đá Bàn. Quân Nam Triều Tiên đưa công binh đến xây dựng căn cứ Hà Thanh (núi Ổ Gà) nằm giữa các xã Ninh Thọ, Ninh An, Ninh Đông, Ninh Đa và thị trấn Ninh Hòa. Tháng 6.1966, sư đoàn 9 Bạch Mã Nam Triều Tiên đưa quân đến đóng tại đây, và chỉ một tháng sau, trên chiến trường Ninh Hòa nổi lên hàng loạt cứ điểm, chốt điểm Nam Triều Tiên.

Bộ Tư lệnh và Sư đoàn bộ Sư đoàn 9 Bạch Mã, Ban chỉ huy và một tiểu đoàn cơ động của Trung đoàn 29 của sư đoàn đóng tại căn cứ Hà Thanh.

Ở Bắc Ninh Hòa, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 29 đem quân đóng trên các cao điểm: hòn Bà Giải, hòn Miễu, hòn Vung, hòn Thượng… (xã Ninh An) Giồng Thanh, núi Một Bình Sơn (xã Ninh Thọ), Giồng Cóc, gò Cây Xay (xã Ninh Thượng), hòn Chệch (xã Ninh Phú), hòn Một (xã Ninh Hà), dốc Ké, dốc Lết (xã Ninh Hải). Năm 1971, chúng đóng thêm chốt Nước Nhĩ, Lỗ Bèo và Hòn Lay trong trung tâm căn cứ Đá Bàn.

Ở Nam Ninh Hòa, Tiểu đoàn 3, có 1 đại đội đóng ở núi Bà Bái (xã Ninh Tây), 1 đại đội ở hòn Miễu (xã Ninh Hưng), 1 đại đội và Ban chỉ huy tiểu đoàn đóng ở giồng Đền (xã Ninh Bình), 1 đại đội quân báo đóng ở đèo Rọ Tượng (xã Ninh Lộc), 1 đơn vị thuộc Trung đoàn 27 (Vĩnh Xương) ra đóng ở Núi Bé, thôn Ngọc Diêm xã Vĩnh Ích (nay là xã Ninh Ích).

Đến cuối tháng 8.1966, quân Nam Triều Tiên đã đóng cứ điểm, chốt điểm, lực lượng từ trung đội, đại đội trên phần lớn các cao điểm bao xung quanh vùng đồng bằng, hình thành một hệ thống cứ điểm vòng ngoài bao vây các căn cứ của ta, ngăn cách đồng bằng với rừng núi, sử dụng mạng lưới hỏa lực dày đặc gồm pháo, cối các tầm, các cỡ, xe bọc thép M113 và trực thăng võ trang, để chi viện cho nhau bảo vệ đồng bằng, đường giao thông chiến lược (quốc lộ 1 và quốc lộ 21), bảo vệ các loại quân ngụy như địa phương quân (bảo an), nghĩa quân, dân vệ, đội bình định nông thôn, ở bên trong tiến hành bình định.

Trên quốc lộ 21 (km 14- km 20) có quân trường Lam Sơn - Dục Mỹ huấn luyện các binh chủng pháo binh, biệt động quân, bảo an, tân binh do Mỹ trực tiếp nắm. Trên mặt biển có Duyên đoàn 25 đóng căn cứ tại cảng Đông Hà, xã Ninh Hải.

Về quân ngụy, toàn huyện có 1 đại đội bảo an đóng tại trụ sở chi khu quân sự - cũng là trụ sở hành chánh quận, 3 đại đội làm nhiệm vụ cơ động trên chiến trường toàn huyện, 3 đoàn bình định nông thôn, mỗi xã 1 trung đội nghĩa quân, từ 1 đến 2 toán phòng vệ dân sự, 1 cuộc cảnh sát từ 5 đến 7 tên, ở quận lỵ còn có 1 trung đội cảnh sát dã chiến, chi thông tin, chi chiêu hồi… Toàn huyện quân ngụy có trên 5.000 tên. Ngoài bộ máy ngụy quyền thôn xã, còn có các hệ thống mật vụ, quân báo, gián điệp… của Mỹ, của Nam Triều Tiên và của ngụy quân, ngụy quyền, được tổ chức thành nhiều tầng, nhiều lớp chồng lên nhau, đan xen nhau để giám sát khống chế, thúc đẩy nhau hoạt động. Với các lực lượng nói trên, bộ máy kèm dân của địch được xây dựng, bố trí rất chặt chẽ.

Được quân Nam Triều Tiên bảo vệ vòng ngoài, bọn ngụy quân, ngụy quyền, nhất là bọn bình định nông thôn, nằm sát các thôn xã, thực hiện 3 cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với dân, giúp dân sửa nhà, dọn vườn, phun thuốc diệt muỗi nhưng thực chất là để phát hiện hầm bí mật, khống chế hoạt động của cơ sở cách mạng, thúc đẩy bộ máy ngụy quyền kìm kẹp nhân dân, đánh phá cơ sở cách mạng.

Đến lúc này, trên chiến trường Ninh Hòa có hai lực lượng chính. Một là quân chư hầu Nam Triều Tiên làm nhiệm vụ bảo vệ hậu cứ, giao thông, là lực lượng nòng cốt, chổ dựa cho lực lượng kìm kẹp bình định. Hai là ngụy quân, ngụy quyền, các đoàn bình định nông thôn… là lực lượng trực tiếp bình định, kìm kẹp quần chúng. Quân Mỹ ở Ninh Hòa chỉ có 1 bộ phận cố vấn quân sự đóng ở căn cứ Lam Sơn-Dục Mỹ và 1 đại đội pháo nòng dài 175 ly đóng ở hòn Xang (Ninh Quang).

Cả hai lực lượng ấy có chung một nhiệm vụ là bảo vệ hậu cứ, giao thông, đánh phá phong trào kháng chiến của nhân dân, nhằm chiến thắng Cộng sản. Vì vậy, Trung ương Đảng đã chỉ rõ là trong chiến tranh cục bộ ta phải coi trọng việc đánh bại cả hai lực lượng chiến lược, bao gồm quân viễn chính Mỹ, quân các nước chư hầu của Mỹ và quân ngụy.

Chiến thuật chốt điểm của quân Nam Triều Tiên gây bất lợi rất lớn cho ta trong công tác xây dựng cơ sở, bám trụ mở phong trào đồng bằng. Nó gây tổn thất lớn cho cán bộ các đội vũ trang công tác và lực lượng vũ trang của ta từ căn cứ miền núi về làng công tác, hạn chế rất nhiều khả năng tiếp xúc giữa ta và quần chúng cách mạng bên trong thôn xã.

Lính Nam Triều Tiên rất tàn ác và nham hiểm, hàng đêm chúng gài mình cơ-lay-mo trên các đường cán bộ ta đi về làng, đi vào các nhà chúng nghi là cơ sở cách mạng. Chúng mai phục rất công phu và kiền trì hết đêm này sang đêm khác, không hút thuốc, không gây tiếng động, chúng ngồi trong bọc ni-lông ngâm mình dưới ruộng nước, để phục kích những con đường mà ta không ngờ là chúng mai phục được. Những lần hành quân lùng phục, ở những đoạn đường khó tránh dấu vết, chúng đi chồng dấu lên nhau, hoặc một lính cõng một lính để giữ bí mật quân số. Khi rút quân, chúng lót lại một bộ phận để tranh thủ yếu tố bất ngờ tiêu diệt lực lượng ta. Mỗi khi đụng trận với ta, pháo binh ở các chốt điểm của chúng bắn yểm trợ cấp nập, pháo sáng nối tiếp nhau treo lơ lững trên trận địa sáng như ban ngày. Do vậy, lực lượng chúng ít nhưng rất khó bị tiêu diệt, gây cho ta nhiều khó khăn khi phảt rút quân.

Chiến thuật phục kích bộ binh kết hợp với mìn Cơ-lây-mo của quân Nam Triều Tiên một thời gian dài đã gây cho ta biết bao khó khăn tổn thất đối với cán bộ, chiến sĩ và đội vũ trang công tác. Nhiều đội bị xóa phiên hiệu nhiều lần như đội Ninh Phú - Ninh Giang, Ninh Thân, Ninh Lộc, Ninh Ích… Một số xã ta không còn cán bộ để bổ sung, phải bỏ trống địa bàn, hoặc ghép số đồng chí còn lại thành một đội phụ trách nhiều xã. Lực lượng có tỷ lệ hy sinh cao nhất lúc bấy giờ là cán bộ các đội vũ trang công tác.(47)

Đối với văn cứ kháng chiến miền núi và những dãi, những cụm rừng núi ở đồng bằng, hàng ngày chúng dùng thám báo, thám kích, biệt kích, gián điệp… của quân Nam Triều Tiên, quân ngụy, len lõi phục kích đường đi, tập kích chổ ở của lực lượng ta. Mặt khác sử dụng từng tiểu đoàn, trung đoàn mở những cuộc càn quét quy mô lớn, dài ngày, sâu vào các căn cứ kháng chiến nhằm "tìm diệt" quân chủ lực và các cơ quan lãnh đạo đầu nảo của ta. Kết hợp với các hoạt động do thám gián điệp, càn quét, bao vây kinh tế, các cụm pháo ở các căn cứ Lam Sơn - Dục Mỹ, Hà Thanh, giồng Đền, hòn Xang cả ban ngày lẫn ban đêm bắn cầm canh vào các căn cứ kháng chiến. Dùng máy bay oanh tạc, dội bom, rải chất độc hóa học phá hoa màu, làm rụng lá cây, B52 rải thảm, B57 ban đêm cắt bom xuống các khu vực đóng quân và đóng cơ quan của ta, hòng phá nát chổ dựa của lực lượng cách mạng, tạo thế an toàn cho các trục giao thông và hậu cứ của chúng.

Trong năm 1967, quân Mỹ, quân Nam Triều Tiên mở 2 cuộc tấn công càn quét lớn bằng các binh chủng hợp thành, quy mô hàng Sư đoàn đánh vào Hòn Bà, Hòn Lớn thời gian kéo dài hàng tháng, Hòn Hèo trong 21 ngày đêm, nhằm bao vây tiêu diệt cac cơ quan lãnh đạo kháng chiến và quân chủ lực ta.

(47). Claymore-mine: Mìn định hướng chứa nhiều viên bi nhỏ, khả năng sát thương rất cao.

Do sự xâm nhập của quân Mỹ và quân chư hầu Nam Triều Tiên, bộ mặt văn hóa, xã hội trong huyện càng tồi tệ hơn trước. Ở thị trấn, thị tứ nổi lên nạn cờ bạc, rượu chè, ăn chơi trác táng. Nạn cao bồi, giết người cướp của hãm hiếp trẻ em, nạn chụp dựt, lừa đảo, đỉ điếm diễn ra nhan nhãn.

Những người nông dân bị tan nát cửa nhà vì bom đạn Mỹ, ruộng đất bỏ hoang, nghề rừng, nghề biển bị cấm, bị áp bức bọc lột, thất nghiệp, phá sản từ các vùng nông thôn đổ về thành phố, quận lỵ sinh sống làm cho tình hình những nơi này càng rối ren mất trật tự. Mâu thuẫn giữa nhân dân với chế độ Mỹ-Ngụy thêm sâu sắc.

ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN LẦN THỨ V NÊU QUYẾT TÂM ĐÁNH MỸ, THẮNG MỸ.

Đế quốc Mỹ leo thang gây ra cuộc "chiến tranh cục bộ" ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước chư hầu vào tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Quân của chúng vào trong lúc ta đang thắng lớn, Mỹ-Ngụy đang thua to, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đang trên đà sụp đổ. Vùng giải phóng miền núi tỉnh ta được giữ vững và củng cố. Phong trào đồng bằng đang phát triển mạnh, ngụy quân, ngụy quyền đang trên đà suy yếu.

Trước tình hình mới đòi hỏi phải có sự chuyển hướng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Nhưng Hội nghị Tỉnh ủy tháng 8.1965 còn chỉ đạo theo hướng đánh bại cuộc "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ. Đến tháng 9.1965, tỉnh ta mới nhận điện của cấp trên thông báo về chiến lược mới của Mỹ và chủ trương đối phó của ta theo tinh thần Nghị quyết 12 Trung ương Đảng.

Để tiếp thu và triển khai Nghị quyết 12 Trung ương, Tỉnh ta tổ chức Hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy mở rộng vào tháng 7.1966 tại Xuân Sơn, căn cứ của huyện Vạn Ninh. Hội nghị có đồng chí Nguyễn Lương, Bí thư Huyện ủy Vạn Ninh và đồng chí Võ Danh ở Ninh Hòa cũng được mời về dự.

Dưới ánh sáng Nghị quyết 12 Trung ương Đảng, chỉ thị của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng đặc trách miền Nam và Nghị quyết của Khu ủy 5, Hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy mở rộng đã đi sâu kiểm điểm tình hình, xây dựng kế hoạch và nêu quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Lúc Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp cũng là thời điểm đế quốc Mỹ đang tăng cường đánh phá miền Bắc, phá hoại hậu phương lớn hòng làm lung lay ý chí của Đảng và Chính phủ ta. Chúng còn tuyên bố láo xược là sẽ đưa miền Bắc nước ta trở lại thời kỳ đồ đá. Đứng trước tình hình đó, nhân kỷ niệm ngày ký Hiệp định Genève về Đông Dương (20.7.1966), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi vang dội núi sông, Người nói: "Giôn-Xơn và bè lũ phải biết rằng, chúng có thể đưa 5 chục vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để xâm lược miền Nam Việt Nam, chúng có thể sử dụng hàng ngàn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng không thể lay chuyển được ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng". "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ "không có gì quý hơn độc lập tự do". Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".

"Không có gì quý hơn độc lập tự do" - Chân lý đanh thép ấy đã nung nấu thêm tinh thần quyết chiến, quyết thắng của cán bộ chiến sĩ và nhân dân ta. Cả Hội nghị bắt đài nghe, ghi chép rồi in phát cho cán bộ chiến sĩ học tập. Nghị quyết lần thứ 12 của Trung ương Đảng và lời kêu gọi ngày 20.7.1966 của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những văn kiện chính để nghiên cứu trong các cuộc hội nghị nhằm giáo dục, phát động tư tưởng cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang, xác định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Ở Ninh Hòa, khi quân Nam Triều Tiên đến đóng quân tại căn cứ Hà Thanh, các cơ quan tuyên truyền tâm lý chiến của địch, ngày đêm tuyên truyền đề cao sức mạnh "siêu cường" của đế quốc Mỹ. Do vậy, tư tưởng nội bộ và quần chúng có nhiều diễn biến bất lợi, chủ yếu là sợ sức mạnh của Mỹ, sợ ác liệt lâu dài nhiều hy sinh gian khổ, sợ không giữ nổi vùng giải phóng. Quân và dân Ninh Hoà đã cầm súng chiến đấu từ những ngày đầu khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ 2, đã hơn 20 năm gian khổ ác liệt, chiến tranh chưa có chiều hướng kết thúc mà lại gia tăng cường độ, bên cạnh quân ngụy nay lại có thêm hàng vạn quân đánh thuê Nam Triều Tiên rất tàn bạo, độc ác với đủ loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại. Trong hoàn cảnh như vậy, một bộ phận cán bộ đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân có tư tưởng lo ngại như trên là điều dễ hiểu. Nhưng, lãnh đạo Đảng bộ (cả Nam và Bắc Ninh Hòa) không dao động, hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, xem việc đánh cả quân Mỹ và quân chư hầu Nam Triều Tiên là điều tất nhiên do thực tiễn cách mạng đặt ra.

Tuy vậy, trong tình hình mới đòi hỏi phải có sự chuyển hướng kịp thời về nhận thức, tư tưởng và tổ chức cho phù hợp. Đầu tháng 8.1966, huyện Bắc Ninh Hòa-Vạn Ninh mở Đại hội đại biểu Đảng bộ toàn huyện lần thứ V (lần thứ 2 trong thời chống Mỹ), thời gian 2 ngày, địa điểm cũng tại Suối Trầu (Đá Bàn) có gần 50 đại biểu chính thức tham dự, để học tập, quán triệt Nghị quyết 12 Trung ương, Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nghị quyết tháng 7.1966 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, nhằm giáo dục, động viên tư tưởng cán bộ, đảng viên, qua đó xác định quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong huyện.

Đại hội đi sâu liên hệ kiểm điểm về sự lãnh đạo của Đảng bộ, biểu dương những mặt tốt, những gương chiến đấu anh dũng của quân và dân trong huyện. Đồng thời nghiêm khắc phê phán những tư tưởng hữu khuynh sợ Mỹ, sợ lâu dài, ác liệt hy sinh, đánh giá địch cao, đánh giá thấp thắng lợi và khả năng cách mạng của quần chúng, không giữ vững khí thế tiến công.

Tiếp thu tinh thần nghị quyết cấp trên, Đại hội xây dựng nhiệm vụ và kế hoạch công tác cho nhiệm kỳ mới, trong đó nhấn mạnh kế hoạch 3 bám: cán bộ bám dân, dân bám đất, du kích bám địch; kế hoạch xây dựng Đảng; kế hoạch chống địch càn quét bảo vệ căn cứ, bảo vệ vùng giải phóng. Sau Đại hội, Huyện ủy Ninh Hòa-Vạn Ninh tách thành 2 huyện ủy (thực tế Huyện ủy Vạn Ninh đã tách ra từ đầu năm 1966): Huyện ủy Bắc Ninh Hòa, đồng chí Nguyễn Châu (Châu Râu) được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Mai Tư Phó Bí thư; các đồng chí Võ Danh, Trần Thuật, Võ Đình Dung (tức Giao) Ủy viên Ban Thường vụ; các đồng chí Trần Tộc, Lê Văn Chi, Võ Tuy, Võ Tấn Mại, Lê Khá… Ủy viên Ban Chấp hành.

Cũng cùng thời điểm và nội dung như vậy, huyện Nam Ninh Hòa mở Hội nghị cán bộ toàn huyện tại căn cứ Hòn Lớn để triển khai nghị quyết của cấp trên. Đến lúc này cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang của huyện mới biết là cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã chuyển sang giai đoạn chống "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ.

CHỐNG ĐỊCH CÀN QUÉT LẤN CHIẾM VÙNG GIẢI PHÓNG

Trong cuộc phản công chiến lược mùa khô thứ nhất (1965-1966), khi quân Mỹ mở cuộc hành quân "Van-bua-rem" đánh phá phong trào cách mạng tỉnh Phú Yên thì ở Ninh Hòa, quân Nam Triều Tiên ra sức xây dựng hệ thống cứ điểm, càn quét 2 bên Quốc lộ 1 đoạn từ đèo Rù Rì đến đèo Rọ Tượng, vùng dốc ông Thượng Đá Bàn, vùng Mỹ Lương Hòn Hèo. Dùng máy bay rải chất độc hóa học phát quang hai bên quốc lộ 21. Bên trong quân ngụy nống ra đánh chiếm lại vùng giải phóng.

Cuối năm 1965, ở phía Bắc xã Ninh Đông, 4 trung đội nghĩa quân chia thành 2 cánh: 1 cánh từ thôn Quan Đông tiến lên, 1 cánh từ thôn Phú Văn tiến sang, đánh chiếm lại vùng giải phóng Phước Thuận, Nội Mỹ giáp với xã giải phóng Ninh An. Tiểu đội du kích xã Ninh Đông, do đồng chí Phạm Văn Bồng chỉ huy chận đánh tiêu hao nhiều tên, bị tổn thất nặng chúng phải rút quân.

Chưa chiếm lại được hai thôn giải phóng này, địch sử dụng tiếp 1 đại đội bảo an, 4 trung đội nghĩa quân mở cuộc tiến công đánh chiếm lần thứ 2. Tiểu đội du kích tiếp tục bám đánh, địch vừa đánh vừa vượt hàng rào làng chiến đấu đột nhập vào thôn Phước Thuận. Nhờ 2 tiểu đội của Đại đội H71, có khẩu trung liên chi viện kịp thời, ta đánh bật chúng trở ra và phải rút quân. Ngày hôm sau, địch điều thêm tiểu đoàn chủ lực, thuộc sư đoàn 23 đang đóng dã ngoại tại chợ Lạc An (xã Ninh Thọ) lên phối hợp tiếp tục tấn công vào. Tiểu đội du kích bị bật ra khỏi làng. Trên đường rút quân bị trực thăng võ trang địch đuổi bắn, 2 chiến sĩ du kích bị thương.

Ở các thôn Phú Sơn, Phú Văn phía Tây xã, 2 trung đội nghĩa quân hàng ngày chốt quân trong thôn bảo vệ bọn ngụy quyền thôn, xã khống chế nhân dân. Ta tổ chức đánh nhiều lần, nhưng đụng trận là chúng tháo chạy không tiêu diệt được, nhưng sở hở là chúng tập kích tiêu diệt ta. Cuối năm 1965, đại đội H71, do đồng chí Nguyễn Hồng, đại đội trưởng chỉ huy, ban đêm về thôn Phú Văn mở mét tinh phát động quần chúng rồi trụ lại. Do hàng rào làng chiến đấu phía Bắc thôn chưa kịp khép kín, từ chỗ hở này, trời vừa rạng sáng trung đội nghĩa quân tiếp cận tập kích nơi đóng quân của đơn vị, ta đánh trả kịp thời, chúng tháo chạy, đồng chí Hồng bị thương.

Ngày 13.6.1966, ta tập trung lực lượng lót ban ngày, thực hành kế hoạch hợp vây tiêu diệt 2 trung đội nghĩa quân này. Đại đội H71 ém quân ở hòn Lúp phía Tây thôn Phú Văn, một đại đội của Tiểu đoàn 30 Phân khu Nam, có trang bị đại liên và súng cối 60 ly, giấu quân ở chân núi Ổ Gà (căn cứ Hà Thanh) nằm về phía Đông nam thôn Phú Văn. Về phía địch, 1 trung đội đóng trong thôn, 1 trung đội đóng tại trụ sở thôn (Gò Dinh). Lúc 17 giờ, Đại đội H71 xuất kích tấn công trung đội ở trụ sở. Cùng lúc, đơn vị của Tiểu đoàn 30 vượt sông Lốt tiến sang. Bị ta tấn công bất ngờ, trung đội nghĩa quân trong trụ sở tháo chạy về hướng Đông nam, gặp lực lượng của Tiểu đoàn 30, chúng hoảng hốt chạy ngược trở lại, vứt súng xuống bầu thôn Phú Văn, dậm vùi xuống ruộng lúa, rồi chạy lên nơi lực lượng ta vừa xuất kích. Tình huống ta không lường trước được nên chúng chạy thoát.

Tiếp theo, ta sử dụng một tiểu đội trang bị tiểu liên Tông-xông, phối hợp với đội vũ trang công tác xã, ban đêm về lót lực lượng tại xóm cầu Sắt, thôn Quan Đông tiếp giáp quận lỵ, 7 giờ sáng, từ cầu Sắt ta đi ngược trở lên trụ sở ngụy quyền xã mới đóng tại ngã 3, xóm Mù U (Quan Đông) để tiêu diệt trung đội nghĩa quân và bọn ngụy quyền xã đóng tại đây. Do ban ngày, địch phát hiện được ta từ xa, chúng rút ra mai phục bên ngoài, ta vào đốt trụ sở rồi rút về an toàn.

Trong các trận nói trên, tuy ta không tiêu diệt được địch, nhưng ban ngày ta rượt đuổi địch chạy trong làng, trong vùng ven quận lỵ, ảnh hưởng lớn, tề ngụy rất hoang mang.

Tuy địch lấn chiếm lại được các thôn giải phóng phía Bắc xã Ninh Đông, nhưng địch luôn nơm nớp lo sợ bị ta tấn công tiêu diệt, nên hàng ngày chúng bắn pháo cầm canh lên vùng ven rừng phía Tây và Tây bắc xã, bắn bừa bải vào nhà dân. Tháng 6.1966, chúng bắn trúng nhà bà Lại Thị Xáo ở thôn Phú Văn, nhà sập, bà Xáo và 2 em nhỏ con bà chết tại chổ. Gia đình, tộc họ và hàng trăm đồng bào thôn Phú Văn hết sức phẩn nộ, cùng nhau khiêng xác các nạn nhân kéo xuống quận đấu tranh phản đối hành động dã man của địch và đòi bồi thường nhân mạng. Đoàn vừa đến gò Dinh gặp tên quận trưởng và lính tùy tùng cũng vừa đến nơi, chúng chận đoàn biểu tình lại. Bà Nguyễn Thị Xuyến - mẹ bà Lại Thị Xáo qúa phẩn uất, sẳn trong tay một thanh gỗ, gặp tên quận trưởng bà xông vào vừa đánh vừa nguyền rủa Mỹ-Ngụy là "quân dã man", "quân giết người" và đòi bồi thường nhân mạng cho con, cháu của bà. Nhân dân la ó phản đối hành động dã man của quân ngụy. Tên quận trưởng luống cuống chống đở, tránh đòn, luôn miệng xin lỗi và cam kết sẽ bồi thường thỏa đáng.

Tuy vậy, bọn ác ôn vẫn ngoan cố tiếp tục vu khống, đe dọa ông Lại Dùn, cha của bà Lại Thị Xáo là nhà có chứa "Việt Cộng" trên trần nhà, chúng sẽ bắn lên chổ "Việt Cộng" nằm. Đúng như lời chúng dọa, chỉ một thời gian ngắn sau đó, trong một loạt pháo bắn lên ven rừng phía Tây thôn, một quả rơi đúng vào nóc nhà ông Lại Dùn, người con gái còn lại của bà Lại Thị Xáo về ở với ông bà ngoại và một em gái giúp việc nhà cho gia đình bị đạn pháo giết chết. Nhân dân vô cùng phẩn nộ, lại cùng nhau tiếp tục xuống đường đấu tranh, địch lại tiếp tục xin lỗi, tiếp tục chịu bồi thường nhân mạng một cách vô trách nhiệm. Nhưng từ đó chúng mới chịu chấm dứt tội ác bắn pháo vào nhà dân.

Tuy địch nhượng bộ và thực hiện bồi thường từ 80.000 đến 100.000 đồng cho một nạn nhân, nhưng chúng không sao làm dịu được nổi đau, nổi câm hờn và phẩn uất của nhân dân thôn Phú Văn đối với chúng, phong trào đấu tranh chống địch của nhân dân ở đây và các thôn, xã trong vùng ngày một sôi động hẳn lên. Cơ sở cách mạng và phong trào kháng chiến của xã Ninh Đông được củng cố và dâng cao. Đội vũ trang công tác vùng Tây huyện phát triển thêm được nhiều cở sở vào các thôn vùng sâu xã Ninh Phung như: Phú Bình, Điềm Tịnh, Xuân Hòa và các thôn Thổ Châu, Thạch Định, Vĩnh Thịnh… của xã Ninh Thân, Ninh Thượng.

Ở 2 xã giải phóng phía Bắc huyện, tháng 6.1966, 4 trung đội bảo an và 1 trung đội nghĩa quân càn vào xã Ninh Thọ, 1 tiểu đội du kích, 8 tay súng bám đánh 4 ngày liền diệt 24 tên. Cùng thời gian này, Tiểu đoàn 30 của Phân khu Nam, trên đường rút quân về lại Phân khu dừng lại, phối hợp với trung đội địa phương vùng Tây và du kích xã tập kích lực lượng Sư đoàn 23 bộ binh chủ lực ngụy đóng tại khu vực chợ Lạc An (xã Ninh Thọ). Trận đánh diễn ra rất ác liệt, kéo dài hàng giờ liên, địch chết và bị thương khoảng 1 đại đội. Máy bay địch ầm ầm đến lấy xác chết cho đến sáng, trận đánh ảnh hưởng lớn, hỗ trợ tích cực cho nhiệm vụ bảo vệ vùng giải phóng khu vực này.

Giữa tháng 8.1966, một đại đội tăng cường của Lữ đoàn 1, Sư đoàn 101 dù Mỹ, có máy bay, pháo binh yểm trợ, mở cuộc tấn công vào trung tâm vùng giải phóng Lạc Hòa, xã Ninh An. Mở đầu, địch dùng máy bay A37, pháo của quân Nam Triều Tiên ở căn cứ Hà Thanh (Ổ Gà) của tàu hải quân đậu ở ngoài khơi biển Hòn Khói dội bom, bắn phá suốt 7 ngày liền vào mục tiêu thôn Lạc Hòa. Ngày 18.8, Đại đội Mỹ đổ quân trên quốc lộ 1, quãng đường từ thôn Lạc An đến thôn Ngọc Sơn. Dùng máy bay dội bom, pháo bắn dọn đường, chia thành 2 cánh từ phía Đông, phía Bắc đánh ép vào thôn Lạc Hòa. Ngày đầu, đội du kích xã, do đồng chí Nguyễn Chẩn, xã đội trưởng chỉ huy bám đánh suốt ngày, diệt tại chổ 5 tên Mỹ, thu 1 súng AR16. Ngày thứ 2, được 1 tiểu đội của Đại đội H71 phối hợp, bám đánh địch đến lấy xác chết, tiêu diệt thêm một số tên. Do bám sát địch, lúc tập trung, lúc phân tán, lúc ở chính diện, lúc ở cạnh sườn, làm cho địch phải luôn xoay chuyển thế trận theo cách đánh của du kích. Đội hình địch nhiều lúc bị rối loạn, lạc tọa độ, mất phương hướng, phi pháo yểm trợ bắn vào đội hình của chúng. Trận đánh kéo dài 4 ngày liền, địch chết và bị thương 70 tên (có một số tên bị bom xăng chết cháy). Trong trận, một cán bộ phụ nữ xã làm nhiệm vụ tiếp tế ra chiến hào, tham gia chiến đấu, một mình bắn chết 7 tên Mỹ, được tặng danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ". Lực lượng ta không có thương vong.

Bị đánh đau, tổn thất nặng, địch hết sức cay cú, sau khi rút quân, chúng sử dụng 2 phi đội máy bay A37 dội bom liên tiếp mấy ngày liền xuống thôn Lạc Hòa. Dùng bom xăng đốt nhà, triệt hạ xóm làng, dùng trực thăng võ trang đuổi bắn trâu bò, pháo hải quân bắn cả đầu đạn hóa học để giết người và hủy diệt môi sinh, cố bức ép nhân dân Lạc Hoà phải dồn vào vùng chúng kiểm soát. Nhân dân thôn Lạc Hòa vẫn kiên cường bám làng, bám ruộng đồng sản xuất, tiếp tục chiến đấu. Chưa xóa được vùng giải phóng Lạc Hòa. Ngày 25.8.1966, địch sử dụng Tiểu đoàn Nam Triều Tiên từ căn cứ Hà Thanh chia thành 2 cánh tấn công vào. Trung đội du kích xã phân tán lực lượng bám đánh từ lúc địch vừa mới xuất phát ra khỏi căn cứ suốt 3 ngày, diệt và làm bị thương 40 tên. Chúng chưa vào được trung tâm vùng giải phóng đã phải rút quân.

Một tuần sau, tiểu đoàn Nam Triều Tiên mở tiếp trận càn lần thứ 2 với ý đồ chiến thuật rất quyết liệt. Chúng dùng phi pháo bắn dọn mục tiêu, dùng trực thăng đổ 1 đại đội xuống đóng chốt trên hòn Bà Giải phía Tây xã. Bộ binh bao vây, chia cắt địa bàn xã để tiêu diệt du kích. Trận này, du kích xã tuy nằm trong thế trận bất lợi, vẫn đánh trả rất kiên cường. Nhờ 1 trung đội của lực lượng cấp trên có khẩu đại liên chi viện kịp thời. Bị đánh mạnh, địch phải thu quân đối phó và kết thúc trận càn. Địch chết hàng chục tên, bên ta đồng chí Nguyễn Chẩn, xã đội trưởng hy sinh.

Trong lúc du kích, bộ đội đánh địch, phụ nữ nấu cơm, nữ dân quân làm nhiệm vụ tiếp tế nước uống và cơm vắt, dựa theo các giao thông hào đưa ra tận công sự chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ. Sau trận đánh, nhân dân, nòng cốt là lực lượng đấu tranh chính trị khiêng xác người, cắt sừng trâu bò bị bắn chết kéo vào quận đường, vào căn cứ Hà Thanh đấu tranh phản đối hành động dùng quân sự tấn công giết hại dân lành của địch, đòi chúng phải bồi thường thiệt hại, bồi thường nhân mạng, địch buộc phải bồi thường, nhân dân mới chịu kết thúc. Em bé Lê Sang chạm đầu đạn M79 của địch nổ chết, nhân dân cũng khiêng xác vào căn cứ Hà Thanh đấu tranh, địch chịu bồi thường 60.000 đồng mới chịu về.

Bám trụ chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, quân và dân thôn Lạc Hòa, xã Ninh An gánh chịu hàng trăm tấn bom đạn địch giết người, hủy diệt xóm làng hết sức dã man, tàn khốc, không có thôn xã nào trong huyện, trong tỉnh lúc bấy giờ có thể sánh được. Không một nóc nhà nào còn nguyên vẹn, xung quanh nhà bà Nhạn có đến 24 hố bom cào xới tan tành. Tuy vậy, nhân dân Lạc Hòa rất kiên cường, chỉ sơ tán sang các gia đình bà con, thân quen ở các thôn bên cạnh như Sơn Lộc, Ngọc Sơn ở tạm, vẫn bám đất bám làng sản xuất tiếp tục cuộc chiến đấu cho đến ngày toàn thắng, tháng 4.1975.

Đánh địch ngoan cường diệt hàng trăm tên Mỹ và Nam Triều Tiên, đấu tranh chính trị linh hoạt và quyết liệt giành thắng lợi của quân và dân thôn Lạc Hòa, xã Ninh An trong các trận mở đầu thời kỳ "chiến tranh cục bộ" đã làm sáng tỏ ta có khả năng vận dụng phương châm "2 chân 3 mũi giáp công", đấu tranh trực diện với quân Mỹ và quân Nam Triều Tiên, góp phần củng cố niềm tin và quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân trong huyện.

Sau đợt triệt hạ thôn Lạc Hòa, địch chuyển sang tàn phá, khuất phục nhân dân và chiếm lại xã giải phóng Ninh Thọ. Trong 2 tháng 7 và 8 năm 1966, hàng ngày 1 đại đội bảo an, 1 trung đội nghĩa quân phối hợp với 1 đại đội quân Nam Triều Tiên, liên tục càn quét, vây ráp bắn phá xã Ninh Thọ. Đại đội Nam Triều Tiên hàng ngày dùng 4 xe bọc thép M113 chở bộ binh chạy rông khắp xóm làng, gò bụi, đổ quân bao vây bắn xối xả vào các khu dân cư, các khu vực có tiếng súng bắn tỉa của du kích, trên không máy bay trinh sát L19 quần lượn chỉ điểm cho trực thăng võ trang bắn vào các dải rừng chúng nghi có du kích ẩn nấu, mai phục. Ban đêm, nhiều lúc cả ban ngày pháo của căn cứ Hà Thanh bắn cầm canh vào làng. Địa bàn xã Ninh Thọ trở nên bãi chiến trường tàn khốc, ngày đêm sặc mùi bom đạn địch.

Tuy vậy, chính trong thời gian này quân và dân xã Ninh Thọ đã nêu tấm gương sáng chói về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ xã, nhân dân kiên cường bám trụ "một tất không đi, một li không rời", bằng 3 mũi giáp công đấu tranh chống địch quyết liệt.

Trung đội du kích xã phối hợp với du kích mật trong dân, dựa vào hệ thống hầm bí mật, hệ thống hầm hào chiến đấu, được nhân dân canh gác bảo vệ, tiếp tế cơm nước, lúc ẩn, lúc hiện ngày đêm bám sát địch, đánh tiêu hao bằng mọi loại vũ khí sẵn có và thu được của địch như mìn DH10, mìm Cơ-lây-mo, mìn gài, mìn dậm… trong 2 tháng, du kích đánh cả trăm trận, diệt hàng trăm địch, thu vũ khí, trong đó có 62 tên Nam Triều Tiên.

Trận đầu tiên khi quân Nam Triều Tiên mới vào, tiểu đội du kích do chị Nguyễn Thị Miên, Xã đội trưởng chỉ huy phục mìn diệt 6 tên. Một du kích mật trong một tháng đánh 21 trận bằng bắn tỉa và gài mìn dậm diệt 40 tên (cả ngụy và Nam Triều Tiên) được huyện đội tặng thưởng 1 khẩu AK47.

Bọn ác ôn lưu vong dựa vào quân càn quét về lại thôn xã khủng bố trả thù nhân dân, bị du kích mật, phần lớn là thiếu niên, thiếu nữ 15-17 tuổi ban ngày phục mìn diệt nhiều tên, thu vũ khí như trận diệt tên đại úy cảnh sát quận, thu 1 súng ngắn. Trận diệt tên đoàn phó, đoàn bình định nông thôn, thu 1 súng các-bin M2, trận du kích phối hợp với 2 chiến sĩ bộ đội huyện, cải trang ban ngày vào thôn Lạc Bình diệt 3 tên khét tiếng ác ôn (1 công an quận, 1 ấp trưởng, 1 ấp phó an ninh).

Du kích không chỉ đánh địch càn vào thôn xã, mà còn đưa mìn, lựu đạn vào gài phía trong cổng căn cứ Hà Thanh và chốt giồng Thanh diệt hàng chục tên Nam Triều Tiên. Thường xuyên cải trang bám quốc lộ 1, dùng súng có ống ngắm bắn tỉa các đoàn xe quân sự địch chạy trên đường. Du kích bắn cả trực thăng địch bay qua lại vùng trời của xã, bắn hỏng 1 chiếc rơi trong căn cứ Hà Thanh.

Phối hợp với hoạt động của du kích, tiểu đội công binh và trinh sát huyện phục mìn đánh thiệt hại nặng đơn vị công binh Nam Triều Tiên đi sửa đường tại dốc Đá Trắng, tiêu diệt một tiểu đội.

Quân đánh thuê Nam Triều Tiên rất hung hăng và dã man, mỗi lần thất trận, chúng trả thù bắn giết nhân dân rất tàn bạo. Trong trận hành quân càn quét ấp dưới thôn Lạc An, bị du kích đánh chết một số tên, chúng sát hại một lúc 14 phụ nữ, trẻ em và người già đang ẩn núp dưới các hầm tránh bom đạn, chúng thả lựu đạn xuống giết chết rồi lôi xác lên dùng lưỡi lê đâm bồi, sau đó quăng xác vào nhà, đốt nhà, đốt xác cùng toàn bộ tài sản của 6 gia đình nhân dân. Trong trận, chỉ còn sống sót một em câm thân mình đầy thương tích.

Sau trận càn, hàng trăm nhân dân, do cơ sở đấu tranh chính trị làm nòng cốt và hướng dẫn, kéo vào căn cứ Hà Thanh, vào quận đường đấu tranh tố cáo tội ác sát hại dân lành của quân Nam Triều Tiên, đòi bọn chỉ huy và nhà cầm quyền trừng trị thích đáng quân lính của chúng; đòi chấm dứt bắn pháo vào làng và những hành động khủng bố cướp phá tài sản của nhân dân, đòi bồi thường nhân mạng và thiệt hại cho những gia đình nạn nhân. Địch vừa đe dọa, vừa chống chế đổ lỗi cho dân, cho "Việt Cộng" để chạy tội. Nhân dân Ninh Thọ rất kiên cường, địch chưa nhượng bộ là chưa dừng đấu tranh, cứ liên tục kéo vào gây náo loạn cả công đường và căn cứ quân sự địch, buộc chúng phải nhượng bộ, cam kết thực hiện yêu sách của dân.

Nhân dân không chỉ đấu tranh chống địch càn quét, khủng bố mà còn chống mọi mưu đồ và thủ đoạn xảo quyệt của địch như chống bắt dân phá rừng lập vành đai trắng dọc 2 bên đường Sứ từ Quốc lộ 1 lên Đá Bàn, địch phải bỏ lệnh này; đòi xây dựng đập đúc Hòa Huỳnh lấy nước uống và sản xuất, địch phải chấp nhận để dân lên xây đập, nạo vét kênh mương sát cửa ngõ căn cứ Đá Bàn - nơi địch cấm không được ai lui tới.

Nhân dân vừa đấu tranh chính trị quyết liệt vừa có kế hoạch vận động tranh thủ binh lính địch khôn khéo và hiệu quả. Mỗi lần địch rải quân càn vào xã, lực lượng binh vận, số đông là giới phụ nữ trẻ tuổi kéo ra xáp mặt và theo chân binh lính địch, vừa tranh thủ vừa khôn khéo đấu tranh hạn chế, ngăn chặn thái đội hằn học cướp phá tài sản của chúng.

Càn quét, bắn giết không khuất phục được nhân dân, không xóa được vùng giải phóng xã Ninh Thọ, tháng 10.1966, địch sử dụng 1 trung đoàn Nam Triều Tiên phối hợp với quân ngụy bất ngờ bao vây toàn xã, rồi khép dần lại, dùng trực thăng xúc toàn bộ nhân dân xuống tập trung tại chợ Bá Hà (nay thuộc xã Ninh Thủy), dùng bọn tay sai ác ôn người địa phương nhận mặt từng người, nhằm gạn bắt cán bộ và du kích "Việt Cộng" theo phương châm "tác nước bắt cá" của chúng. Kết quả không bắt được người nào.

Thời gian địch bao vây xúc dân, tuy địch rất đông du kích vẫn đánh được một số trận nhỏ lẽ. Khi dân bị xúc hết, du kích tập trung ra bên ngoài báo cáo tình hình, kiểm điểm rút kinh nghiệm rồi trở về bám làng, bám đất bảo vệ tài sản, ruộng vườn cho nhân dân. Riêng đồng chí Trần Hùng (tức Hải), Xã đội trưởng trong trận đánh bị thương nặng, đồng chí xuống hầm bí mật, khi đồng đội tìm thấy thì đồng chí đã hy sinh.

Nhân dân bị tập trung đột ngột, sinh hoạt khó khăn, đã đấu tranh quyết liệt, nhiều người nhịn ăn để phản đối hành động đàn áp dã man của địch. Nhân dân bị tập trung đông gây mất vệ sinh nơi ăn ở trong chợ, trong Chùa và cả trong nhà dân, nên đồng bào thôn Bá Hà cùng phối hợp đấu tranh mạnh mẽ. Hơn 10 ngày sau, địch không bắt được Việt Cộng, cũng không đàn áp nổi đấu tranh của nhân dân, buộc chúng phải để dân trở về lại thôn xã. Địch thất bại cay đắng, nhân dân xã Ninh Thọ giành thắng lợi lớn, cùng nhau tiếp tục đấu tranh giữa thế hợp pháp, giữ vững quyền làm chủ, tiếp tục nhiệm vụ kháng chiến.

Địa bàn hai xã Ninh An, Ninh Thọ nối liền giữa hai căn cứ Đá Bàn và Hòn Hèo của ta, áp sát căn cứ Hà Thanh của chúng, được giải phóng, trực tiếp khống chế trục giao thông chiến lược đoạn Ninh Hòa - Vạn Ninh của địch là một bất lợi rất lớn cả về quân sự lẫn chính trị đối với chúng. Do vậy, từ quân ngụy, tiếp đến cả quân ngụy và quân Nam Triều Tiên phối hợp, quyết đánh chiếm lại hoặc xóa trắng vùng giải phóng có vị trí quan trong này của ta. Nhân dân hai xã Ninh An, Ninh Thọ dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là các chi bộ của hai xã, đã kiên cường chịu đựng ác liệt hy sinh, vận dụng thành công phương châm "2 chân 3 mũi giáp công", giữ vững vùng giải phóng trong 2 năm (11.1964-10.1966) là một thắng lợi có ý nghĩa to lớn. Là ngọn cờ tiêu biểu cho ý chí kiên cường bất khuất, quyết tâm sắt đá đánh Mỹ và thắng Mỹ, về vận dụng phương châm "2 chân 3 mũi giáp công" của quân và dân hai xã đối với phong trào chung trong huyện, trong tỉnh.

Trong báo cáo tại Đại hội Đảng bộ phân khu Nam ngày 30.5.1967 ghi nhận: "Du kích 2 xã Ninh An, Ninh Thọ đã nêu tấm gương oanh liệt đánh phủ đầu quân địch, không kém du kích vùng nào trong Khu 5, diệt địch hàng trăm tên, thu vũ khí, một lẫn nữa chứng minh sức sống mạnh mẽ của phong trào du kích chiến tranh và đấu tranh của quần chúng nhân dân Khánh Hòa".

Trong quá trình địch đánh chiếm lại vùng giải phóng của ta, Huyện ủy Bắc Ninh Hòa và Ban Cán sự huyện Nam Ninh Hòa chủ trương kết hợp với chống càn, tiến hành củng cố lại lực lượng vũ trang huyện, tăng cường cán bộ cho các đội vũ trang công tác tiếp tục bám làng, bám dân, tiến công địch hỗ trợ cho nhân dân các xã này đấu tranh giữ thế làm chủ. Làm chủ để diệt địch, diệt địch để làm chủ, theo phương châm của Đảng.

Cuối năm 1965, địch chiếm lại vùng giải phóng xã Ninh Diêm, huyện chọn một số cán bộ, chiến sĩ trong trung đội du kích bổ sung cho đội vũ trang công tác 2 xã Ninh Diêm, Ninh Hải. Đầu năm 1966, địch chiếm lại các thôn giải phóng phía Bắc xã Ninh Đông, tiểu đội du kích chuyển thành đội vũ trang công tác xã. Cuối năm 1966, địch chiếm lại được 2 xã Ninh An, Ninh Thọ, du kích của 2 xã được chọn tăng cường quân số cho đội vũ trang công tác 2 xã, số còn lại ghép thành 1 trung đội bổ sung cho huyện Vạn Ninh. Giải thể Đại đội H73 vùng Đông, tổ chức thành Trung đội đặc công, số còn lại bổ sung cho Đại đội H71…

Ngoài lực lượng huyện, tháng 6.1966, theo chủ trương của Bộ Tư lệnh quân khu 5, Phân khu Nam tăng cường vào Khánh Hòa Trung đoàn Trần Hưng Đạo, sau đổi thành Trung đoàn Sao Thủy (E20). Sau khi không thực hiện được kế hoạch giải phóng vùng Tu Bông (Vạn Ninh), Trung đoàn vào tỉnh, để Tiểu đoàn 9 ở lại Bắc Ninh Hòa, Tiểu đoàn 8 ở lại Nam Ninh Hòa. Tiểu đoàn 9 có 3 Đại đội: Đại đội 10, Đại đội 11 (bộ binh) và Đại đội 12 (trợ chiến). Tiểu đoàn 8 có 3 đại đội: Đại đội 5, Đại đội 6 và Đại đội 7 (bộ binh).

Về hoạt động, sau trận đánh quân Mỹ ở thôn Lạc Hòa (xã Ninh An) Đại đội H71 và Đại đội 11 Tiểu đoàn 9 chuyển xuống đứng hoạt động ở vùng Đông huyện. Cuối tháng 8.1966, Đại đội 11 hành quân về hoạt động ở xã Ninh Diêm, lọt vào trận địa phục kích của 1 đại đội quân Nam Triều Tiên và 1 đại đội bảo an tại thôn Mỹ Lương. Đại đội đánh trả rất kiên cường và quyết liệt, diệt và làm bị thương hàng trăm tên, đa số là Nam Triều Tiên.

Đại đội H71, đứng ở phía Tây nam Hòn Hèo, đầu tháng 9.1966, phục kích đánh thiệt hại nặng trung đội nghĩa quân xã Ninh Phú, tại thôn Hội Điền, địch chết và bị thương tại chổ 20 tên, ta bắt 1 tù binh, thu 14 súng, có 1 trung liên. Phối hợp và phát huy ảnh hưởng chiến thắng Hội Điền, đội vũ trang công tác liên xã Ninh Phú, Ninh Giang, Ninh Đa lót lực lượng ban ngày diệt tên Mạnh, thám báo ác ôn của quận tại Phú Thứ (xã Ninh Giang) tấn công phá rã toán dân vệ thôn Bằng Phước (xã Ninh Đa). Đội vũ trang công tác xã Ninh Hà giải tán toán dân vệ thôn Tân Tế thu 7 súng. Phong trào kháng chiến của các xã trong vùng bắt đầu phát triển mạnh.

Để đối phó, địch sử dụng Đại đội biệt kích Trung dũng, thuộc Liên đoàn biệt kích số 6 từ Đồng Bà Thìn (Cam Ranh), mở cuộc càn quét vào vùng Tiên Du, nhằm tiêu diệt lực lượng ta, tạo ảnh hưởng để trấn an tinh thần binh lính, cứu vãn tình thế thất bại của chúng.

Đại đội địch xuất phát từ thị xã Nha Trang, ban đêm dùng thuyền chèo bí mật đổ quân lên bãi Vũng Đình, chân núi phía Nam Hòn Hèo. Tại đây, chúng chia thành 2 cánh: Cánh thứ nhất ven theo đầm Nha Phu tiến lên thôn Lệ Cam và thôn Tiên Du (xã Ninh Phú). Cánh thứ hai, khoảng 2 trung đội xuyên núi, theo đường dốc Sơn đổ xuống hợp điểm với cánh thứ nhất tại thôn Tiên Du, hình thành thế bao vây tiêu diệt lực lượng ta.

Về ta, sau trận Hội Điền, Đại đội H71 đưa lực lượng về trú tại gộp Cây Thị (phía Bắc thôn Tiên Du) sinh hoạt, nghỉ ngơi. Lúc 13 giờ ngày hôm ấy, đồng chí Nguyễn Tám, Trung đội trưởng dẫn một tổ đi bắt cua, bắt cá về cải thiện bữa ăn. Tổ ra đến cầu Suối Cát (đông Nam thôn Tiên Du) phát hiện địch từ thôn Lệ Cam đi lên. Tổ cho người về báo tin cho đơn vị, số còn lại bám bên này cầu nổ súng đánh địch.

Lúc này tại gộp Cây Thị, Đại đội chỉ có 2 trung đội, do đồng chí Huỳnh Ngọc Anh, Đại đội phó chỉ huy. Đồng chí sử dụng một trung đội vận động ra cầu tiếp ứng đánh chính diện với địch, đồng thời cho một trung đội, do đồng chí Lương Văn Khôi trung đội trưởng chỉ huy, xuyên núi hòn Chệnh đánh tạc sườn và tập hậu, địch bị đánh ép ba mặt, tháo chạy xuống rừng sát, bơi qua sông tẩu thoát. Ta diệt tại trận 1 tiểu dội, bắt sống 3 tên, thu vũ khí. Trong lúc kiểm soát trận địa, ta cho đưa vũ khí chiến lợi phẩm về nơi đóng quân. Tổ chuyển chiến lợi phẩm về đến chân gộp Cây Thị, gặp cánh quân thứ 2 của địch, nổ súng, một chiến sĩ ta hy sinh, tổ phải quay trở lại.

Phát hiện được cánh thứ 2, đơn vị xoay ngược đội hình, giữ thế hai gọng kềm, từ hòn Chệch tiến quân trở về tiếp cận, đánh đích. Địch dựa vào chân núi chống trả. Lúc này tại gộp Cây Thị, cách địch khoảng 100 m đường thẳng, đồng chí Nghiệp xạ thủ khẩu trung liên, do bị ốm còn tại nhà, đem khẩu trung liên đặt trên điểm cao bắn xối xã vào đội hình địch. Bị đánh bất ngờ vào phía sau, địch hoảng hốt thao chạy về hướng cầu Tiên Du (phía Tây thôn) gặp 1 tiểu đội của đơn vị trụ ban ngày trong thôn Hội Phú, nghe tiếng súng nổ rút về mai phục tại đây, đánh chặn lại. Địch bị dồn giữa cánh đồng trống bị ta tiêu diệt, chỉ còn sống sót vài ba tên, nhưng qua khỏi cầu, ngoài vòng vây của ta, chúng trụ lại dùng súng M79 bắn sang đội hình truy kích của ta, đồng chí Nguyễn Tám, trung đội trưởng dẫn đầu đội hình trúng đạn hy sinh.

Trong số địch chết có tên đại đội trưởng, ta thu được quyển sổ tay, thấy ghi: "Đi càn Đồng Bò, Lỗ Dinh, Trảng Cốc, nay đi Hòn Hèo". Như vậy, đến trận càn Hòn Hèo đại đội này bị tiêu diệt. Địch bỏ tại trận 36 xác chết, ta thu gần 50 súng các loại, trong đó có 4 khẩu trung liên, 2 máy bộ đàm PRC10. Một khẩu trung liên của cánh thứ nhất bị chìm dưới nước, ngày hôm sau đồng bào thôn Hà Liên, xã Ninh Hà vớt được đem giao cho ta. Bên ta 3 đồng chí hy sinh.

Trận đánh đến 18 giờ cùng ngày kết thúc. Ngày hôm sau, địch tập trung lực lượng đến lấy xác chết, tốp đi đầu của chúng vừa qua khỏi cầu Tiên Du, Đại đội H71 dùng cối 60 ly đánh cấp nập vào đội hình địch, chúng tháo chạy, bỏ lại thêm 5 xác nữa. Hai ngày sau, địch không dám sang mà thuê dân xã Ninh Phú xuống thu xác đã ôi thối đem về trụ sở xã cho chúng với giá 5.000 đồng một xác.

Với lực lượng 2 trung đội, bằng cách đánh vận động tấn công, trong tình huống địch xuất hiện bất ngờ, Đại đội H71 đã tiêu diệt gần hết đại đội biệt kích địch - loại quân thiện chiến, do Mỹ trực tiếp xây dựng và chỉ huy, là một thắng lợi về chiến thuật đặc biệt xuất sắc, một chiến công oanh liệt của bộ đội địa phương huyện. Chiến thắng Tiên Du thể hiện trình độ chỉ huy của cán bộ, tinh thần và năng lực chiến đấu của đơn vị khá vững vàng, hiệu suất chiến đấu rất cao, bồi dưỡng rất tốt cho đơn vị cả về tinh thần, kỹ năng tác chiến và vũ khí đạn dược.

Trận thắng Tiên Du cùng với những trận đánh địch, diệt ác, phá kèm thắng lợi trước đó làm cho tinh thần tề ngụy các xã vùng Đông và Đông nam huyện tiếp tục sa sút, phong trào kháng chiến của nhân dân có thêm khí thế, phát triển thuận lợi và mạnh mẽ. Thế làm chủ của 2 thôn Hà Liên, Tân Tế xã Ninh Hà được củng cố thêm vững chắc. Ta củng cố 2 Ban cán sự thôn, thành lập chi bộ Đảng gồm 4 đảng viên, do đồng chí Trương Trững làm bí thư. Đồng thời mở lõng kèm, tạo thế tranh chấp ở 2 thôn Phú Thạnh, Phú Thứ (xã Ninh Giang), Hội Điền, Hội Phú (xã Ninh Phú) và thành lập ở đây chi bộ Đảng do Phạm Thị Bê làm bí thư. Đội công tác xây dựng thêm được hầm bí mật ở thôn Văn Đinh Hạ (chùa Ông) để từ đó phát triển cơ sở sang Hội Phú Nam và xã Ninh Đa.

Huyện Nam Ninh Hòa là vành đai trực tiếp căn cứ Hòn Lớn của huyện và tỉnh, địch thường xuyên đánh phá ác liệt. Cán bộ và lực lượng vũ trang của huyện ít (1 tiểu đội). Trong tình hình đó, Ban cán sự huyện đã động viên và phát huy cao độ ý thức tự lực, tự cường, tinh thần cách mạng tiến công, sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng bộ, các đội vũ trang; khai thác triệt để truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng kiên cường của nhân dân, với phương thức hoạt động linh hoạt sáng tạo liên tục đấu tranh chống địch. Nhờ vậy, tuy lực lượng ta ít, xã giải phóng Ninh Hưng bị địch chiếm lại, nhưng huyện Nam Ninh Hòa vẫn giữ vững và mở rộng được phong trào, các xã đều phát triển được cơ sở và đảng viên mới trong vùng địch kiểm soát. Xã Ninh Hưng thành lập được chi bộ, gồm 3 đảng viên, do đồng chí Trần Thanh Hoàng, Đội trưởng đội công tác làm Bí thư, xã Ninh Quang 1 chi bộ, 5 đảng viên, do đồng chí Lương Thị Lẹ (tức A) làm Bí thư. Ngoài ra còn thành lập được các ban sán sự thôn, cán sự giới phụ nữ, do đảng viên làm nòng cốt lãnh đạo ở các thôn: Vạn Hữu, Phú Hòa (Ninh Quang), Hòa Thuận, Phụ Đằng, Hiệp Thịnh (xã Ninh Bình), Mỹ Lợi, Tam Ích, Tân Thủy (xã Ninh Lộc) Ngọc Diêm, Tân Thành (xã Vĩnh Ích). Phong trào thị trấn được cũng cố phát triển, cơ sở bảo vệ (nhà ở) tăng thêm, đồng chí Bí thư Ban cán sự huyện tiếp tục bám vững hơn trong thị trấn để chỉ đạo phong trào.

Trên cơ sở phong trào và lực lượng chính trị phát triển, Nam Ninh Hòa xây dựng được nhiều cơ sở trong lực lượng phòng vệ dân sự của địch. Xã Ninh Ích, thông qua cơ sở đội vũ trang công tác nắm chi phối được hoạt động của toán dân vệ thôn Ngọc Diêm. Xã Ninh Quang có 1 tiểu đội cơ sở trong liên toán dân vệ thôn Phú Hòa. Riêng toán dân vệ thôn Vạn Hữu, bên ngoài là của địch, bên trong là du kích của ta, do anh Nguyễn Hồng Cẩm (tức Ai) toán trưởng làm Tiểu đội trưởng, sau đó anh Trần Nĩnh lên thay. Đồng thời, rút được 15 du kích và thành niên thoát ly, bổ sung cho đội vũ trang xây dựng thành trung đội địa phương huyện, do Nguyễn Hồng Sơn làm Trung đội trưởng.

Cuối năm 1966, Tỉnh đội phân tán Tiểu đoàn 86 đưa về Nam Ninh Hòa 1 đại đội (Đại đội I) làm lực lượng địa phương huyện, do đồng chí Lê Trương làm Đại đội trưởng, Huỳnh Bảy làm Chính trị viên. Trung đội địa phương giữ lại 1 tiểu đội, xây dựng thành đội đặc công, do đồng chí Trung làm Đội trưởng, đồng chí Trung hy sinh, đồng chí Mai Xảo lên thay. Lực lượng còn lại bổ sung tăng cường cho các đội vũ trang công tác, mỗi đội 8 người, riêng xã điểm Ninh Quang 12 người.

Ở Bắc Ninh Hòa, vùng Tây huyện, tuy không có vùng giải phóng, nhưng các thôn làm chủ như Tân Tứ, Thổ Châu chất lượng phong trào được nâng lên bước phát triển mới. Phần lớn số gia đình của thôn Thổ Châu đều tham gia và ủng hộ kháng chiến, nuôi dấu cán bộ trong làng, trong nhà, làm nhiệm vụ tiếp tế lương thực cho cách mạng, số con em trong thôn đi lính, thông qua gia đình ta liên hệ tranh thủ và nắm được. Từ các thôn này làm bàn đạp, đội vũ trang công tác vùng Tây phát triển được cơ sở vào các thôn vùng sâu đông dân như Đai Tập, Đại Mỹ. Riêng đội vũ trang công tác xã Ninh Đông, Ninh Phụng bám vào được các thôn Quan Đông, Phú Bình, Điềm Tịnh, Xuân Hòa… phát triển cơ sở, tạo được thế uy hiếp địch từ phía Bắc quận lỵ và Quốc lộ 21 nối với Tây Nguyên.

Xã Ninh Tây, lúc đó với ta có tên là xã Khánh Đông, thuộc huyện miền núi Vĩnh Khánh (nay là Khánh Vĩnh) quản lý, nhưng phong trào kháng chiến gắn chặc với phong trào đồng bằng của huyện. Thôn BaNon (người Raglai) gắn với căn cứ Đá Bàn, thường giúp nhau về giống cây trồng, vật nuôi, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh. Nhân dân làm rất tốt nhiệm vụ bảo vệ đường giao thông liên lạc từ các huyện phía Bắc tỉnh và từ tỉnh Phú Yên vào Nam Khánh. Các buôn người ÊĐÊ nằm trong vùng địch kiểm soát lúc đó thuộc xã Ninh Sim, trong mỗi thôn đều có cán bộ chính quyền và đoàn thể cách mạng bí mật lãnh đạo nhân dân, dưới sự hướng dẫn của đội vũ trang công tác. Những già làng, những cán bộ cách mạng từ thời chống Pháp nắm được hầu hết các trung đội trưởng nghĩa quân, qua đó sử dụng lực lượng này bảo vệ đội vũ trang công tác ra vào buôn hoạt động, và canh gác bảo vệ các đoàn cán bộ của ta qua lại quốc lộ 21. Những trường hợp bất ngờ gặp đoàn cán bộ ta, số anh em này bắn rất rát, nhưng bắn trên cao để cán bộ chạy thoát (các buôn không có dân vệ).

Đến cuối năm 1966, cả Nam và Bắc Ninh Hòa có 8 chi bộ gồm 28 đảng viên, 30 chi đoàn và ban cán sự thôn, cán sự phụ nữ trong nhân dân vùng địch kiểm soát, nhờ đó đường lối, chính sách của Đảng, của Mặt trận giải phóng miền Nam, Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng bộ 2 huyện đi vào quần chúng, rộng rãi, do vậy, năm 1966-năm đầu thời kỳ "chiến tranh cục bộ" quân và dân Ninh Hòa phải đương đầu với một cuộc chiến tranh rất không cân sức, cường độ chiến tranh và sự đàn áp, khủng bố của Mỹ-Ngụy, của quân chư hầu Nam Triều Tiên rất ác liệt, nhưng phong trào cách mạng của Ninh Hòa vẫn được duy trì và tiếp tục mở rộng. Nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân trực diện chống địch rải chất độc hóa học, dội bom bắn pháo vào làng, chống bắt lính, chống khủng bố, chống địch cướp phá tài sản v.v… diễn ra nhiều nơi, bao gồm hàng ngàn lượt người tham gia. Đồng thời Đảng bộ Nam và Bắc Ninh Hòa tổ chức nhiều cuộc đấu tranh đi chợ nhồi loan tin chiến thắng và biểu dương lực lượng bằng nhiều hình thức ám-tín hiệu như cùng một thời gian nhất định, ta vận động quần chúng đi chợ cột quai nón thống nhất bằng vải màu trắng, thả một bên ngắn, một bên dài, hoặc dùng 2 kim găm ghim chéo nhau nơi túi áo.v.v… Qua ám-tín hiệu đó, quần chúng nhận ra lực lượng cách mạng rất đông, rất phấn khởi, càng thêm tin tưởng và hăng hái tham gia kháng chiến.

Lực lượng vũ trang địa phương, đội vũ trang công tác và du kích xã của huyện tuy ít, nhưng nhờ bám chắc, gắn chặt với phong trào cách mạng của quần chúng và bằng tinh thần dũng cảm, cách đánh linh hoạt, sáng tạo, lực lượng ta đã cản phá, bẻ gãy nhiều trận càn quét quy mô lớn, cấp đại đội tăng cường Mỹ, Tiểu đoàn cơ động Nam Triều Tiên, và tiêu diệt đại đội biệt kích - đơn vị chiến thuật thiện chiến của Mỹ-ngụy.

Những thắng lợi đó, chứng minh những điều khẳng định của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 12 là hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt, đồng thời cũng chứng minh sức sống mạnh mẽ của truyền thống và khả năng cách mạng của nhân dân Ninh Hòa, càng củng cố vững chắc thêm niềm tin và quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của Đảng bộ, quân và dân trong huyện.

CHIẾN DỊCH MÙA XUÂN NĂM 1967.

Năm 1966, phong trào đồng bằng của tỉnh ta có bước phát triển mới, nhưng khó khăn trở ngại còn nhiều, phương thức mở đồng bằng chưa được giải quyết có sự thống nhất cao trong toàn Đảng bộ. Do vậy, trước khi thực hiện chủ trương mở chiến dịch Đông-Xuân 1966-1967, của khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 5, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng vào tháng 12.1966, sau khi xem xét đánh giá mọi mặt tình hình, hội nghị biểu dương du kích 2 xã Ninh An, Ninh Thọ và bộ đội địa phương huyện Bắc Ninh Hòa đã chống càn anh dũng và đặt mạnh nhiệm vụ mở phong trào đồng bằng. Nghị quyết của hội nghị viết: "Nhiệm vụ mở đồng bằng giành giữ dân, tiêu hao, tiêu diệt địch là vấn đề vô cùng quan trọng có tính chất sinh tử tồn vong đối với Đảng bộ". "Vì vậy, tất cả cán bộ chiến sĩ, đảng viên phải đem hết tinh thần, nghị lực quyết sống chết với kẻ thù, thực hiện cho được nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó".

Để thực hiện nhiệm vụ trên, hội nghị chủ trương tăng cường lực lượng cho cấp huyện, đồng thời chú trọng kiện toàn các đội vũ trang công tác về người và trang bị. Theo hướng đó, tiểu đoàn tập trung của tỉnh được phân ra đưa về làm nhiệm vụ bộ đội địa phương huyện, Trung đoàn Sao Thủy (E20) của Phân khu Nam vào đứng ở Khánh Hòa làm nhiệm vụ chủ lực tỉnh.

Sau hội nghị, Đại đội 3 của tỉnh chuyển thành đơn vị đặc công bổ sung cho 2 huyện Nam và Bắc Ninh Hòa. Từ đó, lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện Ninh Hòa có: Bắc Ninh Hòa 1 đại đội bộ binh (H71), 1 trung đội đặc công, 1 trung đội trợ chiến, 1 tiểu đội công binh, 1 tiểu đội trinh sát, Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn Sao Thủy, 1 trung đội công binh tỉnh. Nam Ninh Hoà 1 đại đội bộ binh, 1 tiểu đội đặc công, tiểu đoàn 8 Sao Thuỷ, và 1 trung đội công binh tỉnh. Đội vũ trang công tác của 2 huyện được bổ sung tăng cường quân số có từ 1 tiểu đội trở lên. Đồng thời, Tỉnh ủy thành lập Ban Chỉ huy tiền phương, do đồng chí Nguyễn Hồng Châu (Năm Phổ) Bí thư Tỉnh ủy làm Chính ủy, các đồng chí trong Ban Chỉ huy Tỉnh đội và Trung đoàn Sao Thủy làm chỉ huy trưởng và chỉ huy phó.

Ngày 7.1.1967, Ban Chỉ huy Tỉnh đội mở hội ngị quân chính để triển khai nhiệm vụ chiến dịch. Sau hội nghị, các đơn vị khẩn trương triển khai công tác chuẩn bị chiến trường, bổ sung quân số và xây dựng quyết tâm "quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược".

Ta mở chiến dịch Xuân 1967 trong tình hình địch đang tiến hành kế hoạch chiến lược phản công mùa khô lần thứ 2, nhằm đánh phá căn cứ miền núi "tìm diệt" chủ lực ta và "bình định" vùng nông thôn đồng bằng mà Khánh Hòa là một trong trọng điểm đánh phá của chúng.

Cuộc càn quét này là cuộc càn lớn nhất của địch từ trước tới nay trong tỉnh. Địch sử dụng sư đoàn Bạch Mã Nam Triều Tiên, 15 ngày sau chúng ném thêm vào Lữ đoàn 1 của Sư đoàn dù 101 Mỹ. Các binh chủng phối thuộc yểm trợ gồm có: 2 tiểu đoàn pháo 105 và 135 ly, 4 pháo nòng dài 175 ly, 1 chiến đoàn xe bọc thép M113, 30 trực thăng, 3 phi đội máy bay phản lực F4, F105, 1 phi đội khu trục AD6, B57 và pháo hải quân đậu ngoài biển.

Ngày 20.1.1967, máy bay B52 của địch ném bom rải thảm khu vực Hòn Dữ, Hòn Bà (Hòn Lớn) nơi các cơ quan đầu não của tỉnh đóng. Qua diễn biến về hoạt động của máy bay địch và những thông tin từ vùng địch ra, Ban chỉ huy tiền phương nhận định: Địch sắp mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ, trọng điểm có thể là khu vực Hòn Dữ, Đá Treo. Ban chỉ huy thông báo nhận đinh trên cho các địa phương, đơn vị sẳn sàng đánh địch ở căn cứ, đồng thời tích cực tiến công và phản công địch ở vùng sâu, chủ yếu ở 2 khu vực Bắc Diên Khánh và Nam Ninh Hòa.

Đúng như dự kiến, ngày 29.1.1967, pháo binh địch bắn cấp nập vào các mục tiêu Hòn Dữ, Đá Treo, dùng máy bay trút bom xuống các đỉnh núi phá cây cối, những cây lớn còn lại chúng thả công binh xuống dùng mìn dây đánh ngả, tạo thành sân bay dã chiến, sau đó, từng đoàn trực thăng từ Nha Trang, Cam Ranh ầm ầm nối đuôi nhau đổ quân xuống các sân bay này. Từ đó, dựa theo tọa độ bản đồ. Chúng càn xuống chân núi, gặp kho tàng thì đốt, gặp ta ở đâu đánh đó. Nếu không gặp, xuống đến chân núi, trực thăng đến bốc đổ lên lại trên đỉnh rồi theo tọa đội khác càn xuống. Cứ như vậy, chúng càn như "chải chí" các sườn núi vùng chúng định càn. Ngoài việc rải chất độc bằng máy bay, bộ binh địch còn đem theo chất độc hóa học bằng bột đánh xuống các gộp đá nghi có lực lượng ta ẩn trú.

Chiến thuật càn quét này, lúc đầu gây cho ta nhiều bất ngờ, lúng túng. Tuy vậy, khi địch mở trận càn thì ta cũng mở màn chiến dịch.

Chỉ sau một ngày địch mở đầu trận càn, đêm 30.1.1967, Tiểu đoàn 8 và Tiểu đội đặc công huyện Nam Ninh Hòa phối hợp tập kích tiêu hao nặng đoàn bình định nông thôn của địch ở thôn Phú Hữu (xã Vĩnh Ích) thu 3 súng. Tiếp đó, tập kích đại đội bảo an đóng tại thôn Tân Hưng (xã Ninh Hưng) diệt và làm bị thương nhiều tên. Trên giao thông, trung đội công binh phục mìn đánh các đoàn xe quân sự địch chuyển quân, mở đường diệt và làm bị thương 28 tên Nam Triều Tiên.

Sang đầu tháng 2.1967, ta và địch đánh nhau liên tục và ác liệt vùng xung quanh gộp ông Huyền trong căn cứ, diệt hàng 100 tên, bắn hạ trực thăng vũ trang địch. Đại đội 5, Tiểu đoàn 8 phối hợp với đội đặc công huyện, tiêu diệt 1 tiểu đội Nam Triều Tiên càn vào cơ quan huyện đội.

Đoán được ý đồ của địch sẽ chuyển sang càn vùng quốc lộ 21, ta đưa lực lượng ra chốt chặn ở chân hòn Dù, hòn Ngang (phía Tây xã Ninh Tân hiện nay). Địch vừa chuyển sang bị ta tiêu diệt 1 đại đội.

Đầu tháng 3.1967, ta bắt đầu phản công địch trong vùng sâu. Đêm 6.3, ta tập kích trụ sở ngụy quyền quận, ngày 10.4, ta phục kích đánh địch ở Gò Quýt, Phong ấp, xã Ninh Bình. Đội vũ trang công tác xã Ninh Quang, Ninh Bình, Ninh Hưng liên tục đột nhập vào vùng sâu - nơi bọn ác ôn trốn ngủ diệt 15 tên, phóng thư cảnh cáo và bắt giáo dục cải tạo nhiều tên khác.

Trước sức tấn công và phản công mạnh mẽ của ta, quân ngụy lui về phòng thủ trong vùng sâu từ chợ Mới (thôn Thanh Mỹ) xã Ninh Quang trở xuống quốc lộ 1. Kế hoạch xây dựng "ấp Tân Ninh" của địch ở xã Ninh Hưng bị phá vỡ hoàn toàn.

Ở Bắc Ninh Hòa, cuối năm 1966, sau khi đồng chí Nguyễn Châu, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy hy sinh, Tỉnh ủy giao vùng Tây Ninh Hòa cho Huyện ủy huyện Vạn Ninh phụ trách chỉ đạo. Huyện Bắc Ninh Hòa, do đồng chí Mai Tư, Phó Bí thư phụ trách, chuyển xuống căn cứ Hòn Hèo trực tiếp chỉ đạo vùng Đông. Bằng cách này, huyện vừa sát phong trào, vừa tránh bớt tổn thất vì phải qua lại thường xuyên giữa 2 căn cứ Đá Bàn và Hòn Hèo của huyện. Đầu năm 1967 (29 Tết âm lịch), các cơ quan Huyện ủy, Huyện đội và các ban ngành, đoàn thể huyện chuyển xuống Hòn Hèo. Huyện ủy đóng ở Lổ Ngỗ (phía Nam Ninh Diêm), Huyện đội đóng ở Đá Trắng (phía Nam thôn Sơn Định), Đại đội 11 đứng phí Đông bắc, Đại đội H71 đứng ở gộp Cây Thị phía Tây Nam Hòn Hèo.

Sau khi ổn định nơi đóng quân, đầu tháng 3.1967, Đại đội 11 tập kích Trung đội nghĩa quân xã Ninh Thọ tại nhà ông Nghi, ở thôn Ninh Điền. Trung đội địch bị thương vong gần hết, chỉ còn một số ít tên bám trong nhà, nhưng bà Nghi bị thương kêu cứu, ta phải dừng trận đánh và lui quân.

Cuộc càn của địch vào căn cứ Hòn Lớn vừa kết thúc, Sư đoàn Bạch Mã và 1 Tiểu đoàn quân Mỹ chuyển sang càn căn cứ Hòn Hèo. Đầu tháng 4.1967, máy bay địch bắt đầu dội bom liên tục suốt 1 tuần xuống các đỉnh cao của dải núi Hòn Hèo. Dưới chân núi phía Bắc, công binh Nam Triều Tiên mở một con đường đất rộng chừng 30 mét từ mũi gành (xã Ninh Thủy) chạy vòng sang thôn Tiên Du (xã Ninh Phú).

Sáng ngày 7.4.1967, pháo địch từ căn cứ Hà Thanh bắn tấp nập vào các đỉnh cao núi Tiên Du, núi Hòn Hèo. Cùng lúc pháo hải quân từ mặt biển đồng loạt bắn dữ dội vào phía Đông, Đông bắc, Đông nam căn cứ. Thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép M113 triển khai lực lượng rải trên con đường đất vừa mới mở. Hàng đàn máy bay trực thăng từ Nha Trang và căn cứ Hà Thanh đổ 2 trung đoàn của Sư đoàn Bạch Mã và 1 tiểu đoàn dù Mỹ xuống các đỉnh núi mà máy bay và pháo binh của chúng vừa dọn bãi. Bộ chỉ huy cuộc càn của quân Nam Triều Tiên đặt trên đỉnh hòn Tiên Du (Hòn Bồ). Cơ quan chỉ huy của tiểu đoàn quân Mỹ đặt tại xóm Đùi, thôn Phú Thọ, xã Ninh Diêm.

Ngày đầu, ở hướng Đông bắc, pháo binh địch bắn phá dữ dội vùng Lỗ Ngỗ, khu vực cơ quan Huyện ủy và Đại đội 11 đóng. Đại đội 11 phải rút xuống hướng thôn Đầm Vân. Đại đội H71 đứng ở gộp Cây Thị, ngày đầu địch từ chân núi tiến lên, đơn vị chận đánh suốt 1 ngày, chúng không lên được. Ngày thứ 2, địch dùng trực thăng đổ quân trên đỉnh núi Tiên Du trụt xuống đánh vào phía sau lực lượng ta. Đại đội H71 phải trụt xuống gộp đá chui ra hướng khác, chỉ mang theo được vũ khí còn lương thực, ba lô quân trang đều phải bỏ lại tất cả. Ra khỏi gộp Cây Thị, đơn vị phân tán lực lượng bám đánh nhỏ lẽ, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Vì không mang theo được lương thực, đơn vị phải bám theo địch đánh tiêu hao, lấy đồ hộp của chúng chưa kịp dùng để ăn đánh chúng.

Đến ngày thứ 5, địch phát hiện đánh vào bệnh xá của ta, 3 đồng chí thoát được, còn lại đều hy sinh và bị bắt. Các kho lương thực bị đốt. Ban chỉ huy huyện đội và trung đội đặc công ở suối Tre một tuần sau mới bắt liên lạc được với Đại đội H71.

Vì không có lương thực ăn, hàng ngày phải lánh tránh địch rất bị động và nặng nề. Ban đêm, trên không máy bay địch ra rả chiêu hồi, chúng ghi âm lời kêu gọi của một số gia đình, vợ con cán bộ, chiến sĩ ta do chúng bắt ép nói theo hướng dẫn của chúng và của một vài tên đầu hàng kêu gọi đồng đội ra đầu hàng. Hết chiêu hồi rồi bắn phá, hết bắn phá rồi chiêu hồi hết đêm này sang đêm nọ.

Được đồng chí Phó Bí thư Huyện ủy đồng ý, Ban Chỉ huy Huyện đội chỉ để lại 1 trung đội của Đại đội H71, tự giải quyết lương thực, tổ chức đánh tiêu hao địch, toàn bộ lực lượng còn lại thoát vòng vây rút về căn cứ Đá Bàn.

Ngày thứ 10, lực lượng ta rút xuống hướng xã Ninh Diêm, cứ 5-10 phút là gặp địch, nhưng đều tránh được, đêm đó ta ra khỏi vòng vây, rút về căn cứ Đá Bàn an toàn. Sáng hôm sau, một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và 1 tổ trinh sát còn ở lại thôn Xuân Phong (xã Ninh Thọ) nắm tình hình. Bọn gián điệp mật báo cho địch, chúng tưởng là lực lượng ta còn bám tại đây, chúng tổ chức bao vây tiêu diệt ta.

Từ Hòn Hèo, chúng cho trực thăng vũ trang bay ra quần bắn nát cánh rừng phía bắc thôn Xuân Phong. Hàng chục xe bọc thép M113 ra đứng chặn trên Quốc lộ 1, từ Xuân Phong ra đến Xuân Vinh (huyện Vạn Ninh). Tiếp đến, chúng sử dụng trực thăng đổ 1 tiểu đoàn Nam Triều Tiên chụp xuống vây xung quanh cánh rừng. Đêm đó, số cán bộ, chiến sĩ của ta ra xa ngoài biển Bến Quế và rút về căn cứ an toàn.

Trung đội của Đại đội H71 để lại căn cứ, liên lạc được với Đại đội 11 phối hợp phục kích đánh thiệt hại nặng một đơn vị Nam Triều Tiên tại cầu Gũ (Hòn Ngang) địch chết và bị thương 20 tên, bên ta an toàn.

Thời gian bị địch bao vây căn cứ, đội vũ trang công tác các xã Ninh Diêm, Ninh Hải về bám trong nhân dân các thôn ven biển xã Ninh Diêm (nay là xã Ninh Thủy), được cơ sở và quần chúng cách mạng nuôi giấu tại thôn và đưa ra hải đảo, hàng ngày tiếp tế đầy đủ, an toàn. Số nhân dân sống bất hợp phát trong căn cứ (Đầm Vân, Ninh Tịnh) bị bom đạn địch bắn phá khu vực dân cư rất ác liệt, phải lánh tránh hết sức vất vã, nhưng tất cả đều an toàn.

Phía Tây và Tây nam căn cứ, đội vũ trang công tác xã Ninh Hà phục kích tiêu diệt tên Bít, Tiểu đội trưởng, Tiểu đội thám báo ác ôn của Trung đội nghĩa quân, tại cầu thôn Tân Tế, thu 1 súng các-bin-M2 và 1 máy thu thanh. Đội vũ trang công tác xã Ninh Giang-Ninh Phú phối hợp với 1 tiểu đội của Đại đội H71 phục kích đánh thiệt hại nặng trung đội nghĩa quân tại cầu Tiên Du, khi chúng hành quân từ thôn Tiên Du về trụ sở xã. Ngày 28.4.1967, địch không tiêu diệt được lực lượng ta, chúng kết thúc trận càn.

Trong trận chống càn này, ta diệt và làm bị thương hơn 40 tên Nam Triều Tiên, một số tên nghĩa quân. Bên ta, 3 chiến sĩ hy sinh, 3 bị thương, 2 tên dao động chạy sang hàng ngũ địch, mất một cối 60 ly và 2 súng trường.

Trận chống càn ở căn cứ Hòn Lớn, bộ đội địa phương Nam Ninh Hòa phối hợp với đơn vị chủ lực tỉnh đánh hàng chục trận lớn nhỏ, diệt tại trận khoảng 400 tên Nam Triều Tiên, bắn rơi tại chỗ 3 máy bay trực thăng, 1 chiếc bị thương. Riêng lực lượng địa phương huyện diệt 72 tên Nam Triều Tiên, bắn rơi 1 trực thăng, 1 chiếc khác bị thương, diệt 15 tên ác ôn. (1)

Trong chiến dịch xuất hiện tấm gương, mẹ Nguyễn Thị Ở (thôn Phú Hữu, xã Vĩnh Ích) dẫn 1 tiểu đội chủ lực đi chiến đấu giữa chiến trường, bom đạn địch trút như mưa mẹ nói với anh em "Các con vì nhiệm vụ giết giặc cứu nước, mẹ cũng vì nhiệm vụ đưa các con đi, dù có chết cũng là vì dân, vì nước". Tỉnh ủy đã tặng mẹ danh hiệu "Bà mẹ chiến sĩ Khánh Hòa" và huy hiệu "Phụ nữ giải phóng miền Nam". Trong một lần khác, cũng trong năm 1967, bộ đội ta tập kích trụ sở xã, ở cầu Cây Thị thôn Phú Hữu, 2 chiến sĩ bộ đội ta chạy lạc, mẹ đưa 2 đồng chí này về giấu trong nhà, sau đó, ban ngày cải trang mẹ đưa lên núi về đơn vị an toàn cả người và vũ khí. Mẹ có một rẫy chuối ở bìa rừng, mẹ nói với bộ đội, nếu tình hình khó khăn, không vào làng được, cứ đến rẫy của mẹ chặt chuối mang về ăn đỡ bữa, không phải tính toán tiền bạc với mẹ.

Phối hợp với hoạt động quân sự, đấu tranh chính trị cũng đạt được nhiều kết quả. Nhân dân Nam Ninh Hòa đã bền bỉ và khôn khéo đấu tranh giữ được toàn bộ sản lượng lúa vụ mùa, không đưa vào vùng sâu theo lệnh của địch. Nhân dân giữ lúa lại để ăn, bán và ủng hộ cách mạng. Đồng bào làm gạo để sẳn trong nhà để ban đêm cán bộ, bộ đội về lấy có ăn, đánh địch. Lúa gặt đập phơi khô để tại trại ngoài đồng, bộ đội về cứ xúc mang về ăn, số lượng bao nhiêu báo lại, không hề tính toán thiệt hơn gì với cách mạng. Mặt khác, cùng nhau kéo lên xã, lên quận đấu tranh phản đối và đòi địch không được rải chất động hóa học gấy ô nhiểm nguồn nước, giết hại súc vật và ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân dân.

Chiến dịch mùa Xuân năm 1967 ta đã làm thất bại kế hoạch phản công chiến lược mùa khô lần thứ 2 của địch. Mỹ ngụy và quân chư hầu Nam Triều Tiên. Không tiêu diệt được quân chủ lực và các cơ quan lãnh đạo của ta, ngược lại chúng bị ta tiêu diệt một bộ phận sinh lực chủ lực nòng cốt nhất của chúng, bảo vệ được căn cứ, giữ vững và mở rộng được phong trào đồng bằng. Mặt khác, qua đợt chống càn, tấn công và phản công địch giúp ta đánh giá và hiểu địch tương đối toàn diện, khách quan và có cơ sở thực tế để khắc phục tư tưởng bi quan sợ Mỹ, đánh giá địch cao, đánh giá thấp khả năng cách mạng của quần chúng, nâng cao hơn nữa quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân trong huyện.

Tỉnh ủy đánh giá cao thắng lợi nói trên. Báo cáo tình hình địch ta trong 2 tháng đầu năm 1967 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Khu ủy 5, có đoạn viết: "Thắng lợi vừa qua có ý nghĩa lịch sử đối với Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh". "Từ kháng chiến chống Pháp đến nay, chưa có lúc nào, địa phương nào diệt một lúc hàng trăm quân viễn chinh, hạ 3 chiếc máy bay tại chỗ như trận Nam Ninh Hòa"(48).

CHUẨN BỊ THỰC HIỆN PHƯƠNG HƯỚNG CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG - CHIẾN DỊCH MÙA THU NĂM 1967.

(48). Theo Lịch sử Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa (1930-1975) trang 454.

Sau những thất bại nặng nề trong 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô ở miền Nam và 3 năm đánh phá miền Bắc, đế quốc Mỹ đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan. Các Nghị quyết của Trung ương, Khu ủy 5 và Tỉnh ủy đều thống nhất đánh giá "âm mưu chiến lược "tìm diệt" và "bình định" của địch bị thất bại". "Ta đang giữ vững và phát triển thế chủ động tiến công địch dồn dập trên khắp các chiến trường, và liên tiếp giành thắng lợi ngày càng to lớn. Phong trào trong các vùng quan trọng và đô thị đang phát triển sôi nổi… Tình thế trực tiếp cách mạng đã xuất hiện. Nhiệm vụ lịch sử của Đảng và dân tộc đã đề ra cho Đảng bộ chúng ta là phải quyết tâm và nhanh chóng chuyển phong trào lên, thực hiện phương hướng chiến lược của Đảng".

Phương hướng đó đã được Bộ Chính trị Trung ương Đảng nêu ra là "Trên cơ sở nắm vững phương châm đánh lâu dài, cần phát huy chiến thắng to lớn trong mùa khô vừa qua, ra sức đẩy mạnh những cố gắng chủ quan của ta đến mức cao nhất, nhằm giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn".

Thực hiện phương hướng chiến lược của Đảng, Hội nghị Tỉnh ủy từ ngày 20.7 đến 3.8.1967, sau khi đánh giá tổng quát các khó khăn và thuận lợi đối với tình hình trong tỉnh, đã nhận định " chúng ta đang trên thế tiến công và chiến thắng trên toàn bộ chiến trường". Từ đánh giá nói trên, cuộc họp Thường vụ Tỉnh ủy ngày 4.10.1967, ra Nghị quyết xác định rõ quyết tâm của Đảng bộ và các công tác cụ thể. Nghị quyết ghi rõ: " Toàn Đảng bộ cần nhận rõ thời kỳ hiện nay là thời kỳ thực hiện phương hướng chiến lược của Đảng để ra sức động viên toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân trong tỉnh, dốc toàn bộ lực lượng tinh thần và vật chất, vượt mọi gian khổ, khó khăn, sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, nổ lực vươn lên mạnh mẽ, phát động bạo lực cách mạng của quần chúng, nhanh chóng khắc phục các nhược điểm của phong trào, nhằm vào những chổ yếu của địch mà tấn công liên tục, giải phóng nông thôn đồng bằng, hoàn thành công tác chuẩn bị trong một thời gian ngắn, sẵn sàng thực hiện phương hướng chiến lược của Đảng".

Thực hiện Nghị quyết và quyết tâm Tỉnh ủy, trong hoàn cảnh Đảng bộ và nhân dân Ninh Hòa, cả phía Nam và phía Bắc đứng trước nhiều khó khăn. Toàn bộ vùng giải phóng ở đồng bằng trong những năm 1964-1965 đều bị địch chiếm lại. Lực lượng ta trưởng thành khá, nhưng còn mỏng, điều kiện vật chất, hậu cần eo hẹp. Hệ thống cứ điểm của quân Nam Triều Tiên vẫn còn là trở ngại chính, ta chưa có những phương tiện kìm chế có hiệu quả tác dụng của chúng ở đồng bằng.

Tuy vậy, cũng có những thuận lợi cơ bản là đường lối, phương châm và nhiệm vụ của cấp trên đề ra rất sáng rõ, quyết tâm của Trung ương và của Tỉnh ủy rất cao, sẽ động viên mạnh mẽ nội bộ và quần chúng tiến lên. Cán bộ, đảng viên và chiến sĩ ta dũng cảm, nhiệt tình, luôn quyết tâm tiêu diệt địch giải phóng quê hương. Đảng bộ, quân và dân trong huyện đã trải qua hơn một năm trực tiếp chiến đấu với quân Mỹ và quân chư hầu Nam Triều Tiên. Ta đã biết rõ hơn kẻ địch, đã chịu đựng thử thách và đứng vững, đã rút được kinh nghiệm đánh Mỹ, Nam Triều Tiên. Lực lượng cách mạng bên trong các thôn vùng sâu đông dân, trong quận lỵ tương đối khá, nhiều nơi có chi bộ, ban cán sự sống hợp pháp trực tiếp lãnh đạo. Cơ sở, quần chúng yêu nước tương đối đông, rất nhiệt tình cách mạng.

Nhìn tổng quát các khó khăn và thuận lợi nói trên, Đảng bộ 2 huyện Nam và Bắc Ninh Hòa hạ quyết tâm và xây dựng kế hoạch thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Tỉnh ủy.

CHIẾN DỊCH MÙA THU 1967.

Vào những tháng cuối năm 1967, địch mở nhiều cuộc càn lớn, lực lượng từ 1 đến 2 tiểu đoàn Nam Triều Tiên, có máy bay B52 ném bom rải thảm, xe bọc thép M113 yểm trợ càn 2 bên quốc lộ 21, các vùng giáp ranh căn cứ Hòn Lớn, Hòn Hèo và đổ quân càn sâu vào căn cứ Đá Bàn. Qua cuộc phản công chiến lược mùa khô 2, lực lượng quân địch bị tiêu hao nặng, tháng 11.1967 địch phải điều 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 28 Bạch Mã đóng ở Phú Yên vào tăng cường cho chiến trường Bắc Khánh, 3.000 lính Nam Triều Tiên từ chính quốc sang đổ bộ lên Nha Trang bổ sung cho Sư đoàn Bạch Mã và thay cho 1.000 tên đau ốm về nước.

Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng ngày 20.7 và Hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy mở rộng ngày 4.10.1967 Ban chỉ huy Tỉnh đội quyết định mở chiến dịch mùa Thu năm 1967. Hình thức hoạt động chủ yếu là trụ bám đánh địch ban ngày ở đồng bằng, chọn Nam Ninh Hòa là trọng điểm 1, trọng điểm 2 là Bắc Ninh Hòa, diện là Diên Khánh. Tại trọng điểm 1 ta sử dụng Tiểu đoàn 8 Trung đoàn Sao Thủy, 1 trung đội đặc công, 1 tiểu đội công binh tỉnh và 1 trung đội địa phương huyện. Trọng điểm 2 có Tiểu đoàn 9 Trung đoàn Sao Thủy, Đại đội địa phương H71, 1 trung đội đặc công, tiểu đội công binh và tiểu đội trinh sát địa phương huyện. Tại trọng điểm 1, thành lập Ban chỉ huy thống nhất do đồng chí Trần Chiến Lược, Trung đoàn phó Trung đoàn Sao Thủy làm Chỉ huy trưởng; đồng chí Đặng Nhiên, Bí thư Ban Cán sự huyện làm Chính trị viên; đồng chí Nguyễn Quế, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 và đồng chí Nguyễn Văn Thường, Huyện đội trưởng Huyện đội Nam Ninh Hòa làm Chỉ huy phó.

Đêm 23.10.1967, lực lượng Nam Ninh Hòa đột nhập trụ tại các thôn Phong Ấp (xã Ninh Bình) Thạch Thành, Trường Châu (xã Ninh Quang). Đêm đó, dựa vào địa hình ven 3 thôn nằm phía Tây đường sắt, ta đào công sự, lập thế trận đánh địch. Tuyến đường sắt được xem như phòng tuyến tự nhiên để ngăn chặn và tiêu diệt địch.

Sáng ngày 24.10, địch phát hiện được mục tiêu quân ta, chúng sử dụng máy bay trinh sát (L19) chỉ điểm, trực thăng võ trang, pháo binh các cứ điểm Nam Triều Tiên ở Hà Thanh, giồng Miễu, giồng Đền bắn vào trận địa ta. Một tiểu đoàn Nam Triều Tiên chia thành 2 cánh tấn công vào. Một cánh, từ quốc lộ 1, có 2 xe bọc thép yểm trợ, đưa bộ binh vượt qua đường sắt tại giao lộ phía Nam nhà Ga đánh vào trận địa phía Bắc của ta. Trong công sự, các loại hỏa lực đại liên, cối 60 ly, B40, B41 của ta đánh chặn lại, 1 xe bọc thép M113 bốc cháy, hàng chục tên Nam Triều Tiên chết tại chổ, địch phải lùi lại phía Đông đường sắt.

Cùng lúc, cánh phía Nam từ quốc lộ 1, theo hương lộ thôn Phước Lộc tiến lên. Chiếc xe bọc thép M113 đi đầu yểm trợ bộ binh, khẩu B40 của ta bắn trượt, nó xông vào trận địa thôn Trường Châu, tổ hỏa lực thượng liên của ta tại đây bị đè bẹp, 4 đồng chí hy sinh.

Trước nguy cơ trận địa bị phá vỡ, ta sử dụng tiểu đội đặc công ở phía Bắc và đại đội 1 ở phía Nam trận địa, vượt đường sắt đánh tạt sườn và tập hậu đội hình địch tại thôn Phước Lộc. Địch bị đẩy lùi và dừng lại phía Đông thôn Trường Châu.

Chưa chiếm được trận địa ta, địch dùng máy bay trút bom xăng, dùng trực thăng bắn thẳng góc xuống hệ thống công sự của ta, pháo binh bắn tấp nập vào làng, làm sập và cháy nhiều nhà dân. Sở chỉ huy mặt trận bị trúng đạn pháo, 5 đồng chí hy sinh, trong đó có đồng chí Nguyễn Quế, Tiểu đoàn trưởng, Chỉ huy phó mặt trận.

Chiến sự mỗi lúc một ác liệt, quân Nam Triều Tiên tỏ ra rất hung hăng liều lĩnh, bị quật ngã hết lớp này, lớp khác hò hét xông lên, bị quân ta tiêu diệt rất đậm. Chưa diệt được B40, B41 của ta, xe bọc thép không dám xông vào, chúng chuyển sang bao vây đánh giằng dai chờ ta hết đạn để tiêu diệt. Ngày 24.10, ta tiêu diệt hàng 100 tên Nam Triều Tiên, bắn cháy 1 xe bọc thép M113 và 1 trực thăng vũ trang. Bên ta, 11 cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Đêm đó, ta chuyển lực lượng sang bám trụ tại thôn Quang Vinh (xã Ninh Quang) giáp với Gò Quýt (xã Ninh Bình), chuẩn bị công sự chiến đấu tiếp.

Sáng ngày 25.10, do chưa biết lực lượng ta chuyển sang hướng này, địch cho 2 xe bọc thép từ Gò Quýt chạy vào chợ Mới, để đánh vào phía sau trận địa Trường Châu, bị ta dùng mìn đánh tại cầu Quang Vinh, địch dừng lại, điều bộ binh tấn công ác liệt vào đội hình ta. Chúng tổ chức hàng chục đợt xung phong đều bị ta đánh bật trở ra. Do địa hình thôn Quang Vinh mương sâu, ruộng nước bao xung quanh, xe bọc thép địch không phát huy được ưu thế, trận đánh giằng co cho đến tối. Quân chi viện của địch từ quận lỵ theo đường thôn Phong Ấp tiến lên, quân ở cứ điểm giồng Đền, từ thôn Bình Trị tiến xuống Gò Quýt, do tinh thần căng thẳng 2 cánh quân của chúng đánh nhầm nhau ác liệt hàng giờ liền mới nhận ra nhau. Bị thương vong nặng địch phải lui quân.

Sáng ngày 26.10, địch tăng thêm lực lượng tiếp tục tấn công vào thôn Quang Vinh. Lực lượng ta đã thấm mệt, đạn dược, thuốc men đã cạn dần, vẫn quyết tử bám trận địa đánh địch suốt ngày. Lần này, tinh thần địch giảm sút, rút quân bỏ xác tại trận một số tên. Bên ta, 2 đồng chí hy sinh, 18 đồng chí bị thương. Đêm 26.10, ta đưa thương binh, tử sĩ ra bên ngoài và chuyển lực lượng sang trụ tại ấp dưới thôn Thuận Mỹ (xã Ninh Quang). Sáng ngày 27.10, địch dùng pháo xuyên đất bắn phá công sự phòng thủ của ta rồi tiến vào. Nhưng những đợt tiến công của chúng đều bị ta đánh bật trở lại. Đêm đó, thương vong của ta đã lên cao, ta chuyển lực lượng về căn cứ Hòn Lớn.

Suốt 4 ngày trụ bám đánh địch, ta diệt và làm bị thương trên 400 tên Nam Triều Tiên, bắn rơi 1 trực thăng, bắn cháy 1 xe bọc thép M113, bắn bị thương 1 chiếc khác. Bên ta 20 đồng chí hy sinh, 45 đồng chí bị thương. Tiểu đội đặc công của huyện hy sinh gần hết. Gia đình ông Trần Đình Quang một gia đình liệt sĩ ở thôn Thạch Thành, bám trụ tại nhà. Bộ đội rút, đêm đó quân Nam Triều Tiên đến nhà sát hại tất cả gia đình ông.

Ở chiến trường trọng điểm thứ 2 (Bắc Ninh Hòa) đêm 23.10, Đại đội 10, Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn Sao Thủy) về trụ tại thôn Chấp Lễ (xã Ninh Thân) sáng ngày 24.10, đánh 1 đơn vị Nam Triều Tiên có trực thăng võ trang yểm trợ đến giải tỏa, diệt hàng chục tên.

Cùng ngày, Đại đội 11 (Tiểu đoàn 9) và đại đội địa phương H71, trụ tại thôn Bằng Phước (xã Ninh Phú) và thôn Mỹ Lệ (xã Ninh Đa) đánh với 1 đơn vị Nam Triều Tiên, bắn cháy 1 xe học thép M113.

Cả 2 trận, ta diệt và làm bị thương hàng trăm tên Nam Triều Tiên, bắn cháy 1 xe bọc thép M113.

Ở Nam Ninh Hòa, sau những ngày quần trụ đánh địch ở đồng bằng, ta vừa rút về căn cứ Hòn Lớn, một tiểu đoàn Nam Triều Tiên, có pháo binh và máy bay yểm trợ, truy kích tấn công vào lực lượng ta đóng tại vùng gộp ông Huyền. Ta đã cảnh giác, chủ động chiếm ưu thế trên đầu dốc, dùng B40, lựu đạn… lúc thì diệt từng tốp, lúc bắn tỉa từng tên. Địch hết lớp này ngã, lớp khác xông lên. Từng đợt, từng đợt, chúng sử dụng pháo binh, máy bay trút bom đạn xuống trận địa ta rất ác liệt. Trận đánh kéo dài cho đến 13 giờ, thương vong của địch lên hàng trăm tên, chúng vẫn không tiến lên được. Cuối cùng chúng dùng trực thăng đến lấy thương vong và rút quân.

Đầu tháng 11.1967, thực hiện mệnh lệnh của Ban Chỉ đạo tiền phương, Bắc Ninh Hòa, tổ chức trận bám trụ đánh địch lần thứ 2. Đại đội 10 về trụ tại thôn Phú Bình, xã Ninh Phụng. Đại đội 11 và đại đội H71 về trụ tại thôn Phước Đa 3, xã Ninh Đa.

Ở Phú Bình, lúc 8 giờ, 1 đại đội Nam Triều Tiên, có trực thăng võ trang và xe bọc thép yểm trợ đến bao vây tấn công vào. Trong công sự, ta đánh trả quyết liệt. Do lực lượng ta mõng, đến 16 giờ xe bọc thép địch xông vào chia cắt, phá vỡ được thế trận phòng thủ của ta, một số chiến sĩ ta bị xe bọc thép cán chết dưới công sự, ta phải rút quân. Địch chết và bị thương khoảng 40 tên. Bên ta hơn 10 đồng chí hy sinh, mất một số súng.

Trong lúc rút lui, một chiến sĩ của ta bị thương chạy lạc sang thôn Xuân Hòa bên cạnh. Sức đã kiệt, lại không biết đường về căn cứ, anh ẩn núp giữa cánh đồng lúa 3 ngày, bị mấy em chăn trâu phát hiện. Anh thấy đã bị lộ không còn khả năng thoát chết, anh đưa tiền nhờ mấy em mua thức ăn cho anh và bảo "nếu các em có báo cho địch, thì báo cho Nam Triều Tiên (đừng báo cho quân ngụy người Việt) là có một "Việt Cộng" bị thương muốn đầu hàng". Được tin, 1 toán quân Nam Triều Tiên, do tên trung úy Kim chỉ huy hăm hở kéo đến. Với khẩu AK47 và băng đạn còn lại, chờ địch đến gần, anh nổ súng tiêu diệt. Bị đánh bất ngờ, địch chết nhiều tên. Anh bị địch đánh trả, hy sinh. Trên bá súng của anh có khắc cụm từ "Sanh Bắc, tử Nam" bên dưới có chữ Châu.

Anh đã chọn sự hy sinh rất dũng cảm. Nhân dân xã Ninh Phụng, nơi diễn ra sự kiên nói trên, gọi tên anh là anh Châu, với tất cả sự kính trọng, niềm tiếc thương và khâm phục vô hạn về tinh thần và phẩm chất người chiến sĩ giải phóng quân, anh "Bộ đội Cụ Hồ".

Ở điểm Phước Đa 3, xã Ninh Đa, ta đánh với 1 đơn vị Nam Triều Tiên khá đông từ 8 giờ đến 17 giờ, bắn cháy 1 xe bọc thép, diệt và làm bị thương khoảng 70 tên, địch phải lui quân. Bên ta 3 đồng chí hy sinh.

Đêm đó, trên đường rút quân về căn cứ Hòn Hèo, đồng chí Phan Lý, đại đội trưởng, Đại đội H71 và tiểu đội trinh sát đi đầu lọt vào ổ phục mìn của Nam Triều Tiên tại cầu Tiên Du (xã Ninh Phú), đồng chí Lý và 7 trinh sát hy sinh, 1 bị thương.

Hỗ trợ cho tác chiến của bộ binh, Đại đội 12 trợ chiến (Tiểu đoàn 9) pháo kích vào căn cứ Hà Thanh trúng sở chỉ huy Sư đoàn và làm cháy dàn tên lửa.

Phối hợp và phục vụ cho lực lượng bám trụ, đội vũ trang công tác xã làm nhiệm vụ dẫn đường, tổ chức việc canh gác báo cáo tình hình, tiếp tế, tải thương, đồng thời làm nhiệm vụ ổn định tinh thần và hướng dẫn cho nhân dân kế hoạch chống địch khủng bố, cướp phá tài sản, làm công tác binh vận… Riêng đội vũ trang công tác vùng Tây phục kích đánh thiệt nặng trung đội nghĩa quân ban ngày tại làng.

Phối hợp với đấu tranh vũ trang, ở Bắc Ninh Hòa có 41 lần, gồm hàng trăm quần chúng tham gia kéo vào căn cứ Hà Thanh, vào quận đường đấu tranh chống địch khủng bố, bắn phá vào làng. Nhân dân Nam Ninh Hòa đấu tranh không đưa lúa vào vùng sâu theo lệnh của địch, chống rải chất độc hóa học giết người và súc vật của nhân dân. Công tác binh vận cũng thu được kết quả, hàng chục binh sĩ ngụy bỏ ngũ trở về gia đình.

Quân Nam Triều Tiên bị đánh đau, tổn thất nặng, chúng càng tàn bạo, độc ác. Sau trận Chấp Lễ, xã ninh Thân, ngày hôm sau, chúng đưa quân đến sát hại 20 người dân vùng này, trong đó có người có con là công an, rễ là sĩ quan ngụy, 1 thầy tu, 1 người mù. Chúng cưỡng hiếp 2 em bé học sinh trường làng và vợ của 2 lính ngụy, chồng đứng ra ngăn cản chúng bắn chết luôn tại chỗ, bắn chết 2 lính ngụy về phép. Qua những hành động trên, mâu thuẫn giữa quân ngụy với Nam Triều Tiên ngày một căng thẳng, có trường hợp 2 lính ngụy trả thù bắn chết 3 lính Nam Triều Tiên tại quận lỵ.

Chiến dịch Thu 1967, chiến trường Ninh Hòa, cả trọng điểm 1 và 2, ta diệt và làm bị thương gần 600 tên Nam Triều Tiên, trong đó có 1 thiếu tá, 2 đại úy, 2 trung úy. Bắn rơi 1 trực thăng, bắn hỏng 2 chiếc khác, bắn cháy 3 xe bọc thép M113, 1 chiếc bị thương (49). Bên ta 40 đồng chí hy sinh, trong đó có 1 đại đội trưởng, 1 tiểu đoàn trưởng và gần 50 đồng chí bị thương, mất gần 10 súng các loại.

(49). Số liệu dựa theo "Lịch sử Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa (1930-1975) trang 463 - 464.

Những thắng lợi đó, làm khuấy động và thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, đấu tranh chống địch của nhân dân, tạo thuận lợi để Ninh Hòa mở rộng cơ sở và phong trào cách mạng trong vùng sâu đông dân của huyện.Lực lượng ta ít, trong chiến đấu không có điều kiện chi viện, bổ sung quân số, vũ khí nhưng đã đánh thắng và diệt hàng trăm Nam Triều Tiên - loại quân nòng cốt sừng sỏ nhất của địch, đông hơn ta gấp nhiều lần, được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, giữa ban ngày, sâu trong vòng phòng thủ rất chặt chẽ của địch, có nơi sát quận lỵ, sát căn cứ Hà Thanh, là một chiến công lớn, thể hiện ý thức tổ chức - kỷ luật, tinh thần chấp hành mệnh lệnh của bộ đội ta rất cao, trình độ chỉ huy, tinh thần và kỹ năng chiến dấu, nhất là chiến đấu phòng ngự trận địa của bộ đội ta rất giỏi, rất kiên cường, ảnh hưởng rất lớn, hàng ngũ địch, nhất là tề ngụy địa phương hoang mang dao động mạnh. Nhân dân tận mắt thấy lực lượng ta ít, đánh thắng quân Nam Triều Tiên đông và hung bạo, hạ máy bay, bắn cháy xe bọc thép… rất khen ngợi và càng tin tưởng vào sức mạnh của cách mạng, vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Tuy nhiên, trong đánh giá mặt khuyết điểm còn có chổ chưa có sự thống nhất cao, kéo dài nhiều năm sau này. Một số đồng chí cho rằng, Khánh Hòa là chiến trường sau lưng địch, phong trào cách mạng còn yếu, là chiến trường du kích chiến là chính và ta đang trong bước hoạt động chuẩn bị cho phương hướng chiến lược của Đảng, chủ trương dốc toàn bộ lực lượng tấn công địch, giải phóng đồng bằng, bằng hình thức trụ bám, kéo địch đến để tiêu diệt một cách chính quy, kéo dài nhiều ngày ở đồng bằng, là không phù hợp với điều kiền chiến trường, điều kiện tương quan lực lượng giữa ta và địch, không đúng với phương châm du kích chiến là chính của Đảng, là nóng vội, thiếu cân nhắc thận trọng.

Trong thực hành tác chiến không có sự chuẩn bị chiến trường tốt nhất, để có phương án tối ưu, bảo đảm tất thắng, diệt được địch, bồi dưỡng được ta, càng đánh càng mạnh theo phương châm tác chiến của quân đội ta. Đánh địch trong điều kiện nóng vội, thiếu chủ động, cơ động linh hoạt, chỉ trụ bám đánh phòng ngự thụ động trong từng địa bàn nhỏ hẹp, lại không thay đổi cách đánh kịp thời, nên mặc dù bộ đội ta chiến đấu rất ngoan cường dũng cảm, tiêu diệt nhiều địch, nhưng địch cũng gây cho ta nhiều tổn thất hy sinh. Hiệu suất chiến đấu thấp, ảnh hưởng đến thắng lợi của chiến dịch.

Tuy có mặt hạn chế nhất định, nhưng với thắng lợi của chién dịch mùa thu năm 1967, chiến trường Ninh Hòa đã góp phần cùng toàn tỉnh, toàn miền và cả nước đẩy địch vào thế bị động về chiến lược, chuẩn bị tốt và thiết thực để Đảng bộ, quân và dân Ninh Hòa thực hiện thắng lợi quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng.

CUỘC TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968.

Vào những tháng cuối năm 1967, quân Mỹ ở chiến trường miền Nam đã bị đẩy lùi vào thế bị động về chiến lược. Về ta, sau hơn 2 năm đọ sức với quân Mỹ, chư hầu và quân ngụy, tuy có những khó khăn mới và hy sinh tổn thất nhiều hơn trước, nhưng ta vẫn giữ vững quyền chủ động. Quân và dân miền Bắc tiếp tục đánh trả thắng lợi cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ, đồng thời làm tốt nhiệm vụ dốc sức người, sức của cho miền Nam giành thắng lợi. Những thất bại nặng nề của Mỹ ở Việt Nam tác động sâu sắc đến tình hình chính trị nước Mỹ. Tình hình đó, theo nhận định của Trung ương Đảng, đã tạo nên thời cơ thuận lợi để ta có khả năng kéo Mỹ xuống thang để thắng Mỹ, chuyển cuộc kháng chiến của nhân dân ta sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng vào tháng 12.1967 đã hạ quyết tâm "động viên những cố gắng lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả 2 miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển mới, thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt để giành thắng lợi quyết định".

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng, Khu ủy và Đảng ủy Quân Khu 5 quyết định "tập trung lực lượng cả 3 thứ quân, tiến công liên tục, mạnh mẽ trong cả Xuân và Hè, chủ yếu là trong mùa Xuân 1968, nhằm đánh sập ngụy quân, ngụy quyền, tiêu diệt nặng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, kết hợp với những cuộc khởi nghĩa rộng rãi quy mô lớn và quyết liệt của quần chúng, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân".

Thực hiện chỉ thị của Khu ủy, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5, cuộc họp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy mở rộng với Ban chỉ huy mặt trận tiền phương tỉnh vào tháng 1 năm 1968, đã soát xét lại tình hình các mặt, hạ quyết tâm: "Đánh một số điểm then chốt lợi hại trong thị xã Nha Trang, tập trungvào các cơ quan đầu não Mỹ ngụy và chư hầu. Lợi dụng thời cơ địch hoang mang dao động, phát triển tiến công các cơ quan và lực lượng vũ trang địch còn lại, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy đấu tranh giành chính quyền".

Đối với Ninh Hòa, Hội nghị xác định là chiến trường phối hợp, có nhiệm vụ hợp đồng với Nha Trang và các đô thị trong toàn miền đánh chiếm các vị trí then chốt trong thị trấn. Sau khi chiếm được, phát động quần chúng tại chổ và từ các vùng nông thôn kéo vào hỗ trợ cho thị trấn nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị chủ trương hợp nhất 2 huyện Nam và Bắc Ninh Hòa để thống nhất chỉ đạo, chỉ huy bảo đảm thắng lợi.

Đồng chí truyền đạt với niềm tin vững chắc và tính chất rất nghiêm túc đối với kế hoạch: "Đây là mệnh lệnh chiến trường, là thời cơ ngàn năm có một, chỉ có quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, chỉ có đánh, đánh cho đến thắng lợi, không có rút lui".Ngày 19.1.1968 (nhằm ngày 20 tháng chạp âm lịch), đồng chí Tô Văn Ơn, Phó Bí thư Tỉnh ủy triệu tập đồng chí Nguyễn Lương, Bí thư Huyện ủy Bắc Ninh Hòa lên thôn Ba Non để truyền đạt Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc hợp nhất huyện, chỉ định đồng chí Nguyễn Lương làm Bí thư, đồng chí Triết Giang Phó Bí thư, đồng thời phổ biến quyết định về nhân sự Ban Chỉ huy Huyện đội thống nhất và mệnh lệnh tiến công của toàn miền, trong đó có những quy định quan trọng: giờ G, ngày N vào không giờ đêm 29 tháng chạp, sáng mồng một Tết Mậu Thân (giờ giao thừa). Lệnh nổ súng sẽ được phát trên Đài phát thanh ngụy quyền Sài Gòn. Chỉ có 1 phương án tác chiến, không có phương án 2 (phương án rút quân ra)…

Nam Ninh Hòa do đồng chí Triết Giang thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy trực tiếp truyền đạt tại cơ quan Ban Cán sự huyện ở căn cứ Hòn Lớn.

Nhận lệnh xong, đồng chí Nguyễn Lương về truyền đạt lại cho Huyện ủy Bắc Ninh Hòa, liền sau đó toàn bộ các cơ quan và lực lượng vũ trang của huyện chuyển xuống căn cứ Hòn Hèo chuẩn bị kế hoạch xuất phát tấn công (có đồng chí Triết Giang từ trong tỉnh ra cùng đi).

Tình hình Ninh Hòa sau chiến dịch mùa thu năm 1967, lực lượng quân ngụy quân số tăng cao hơn, quân Nam Triều Tiên vừa được bổ sung quân số, hệ thống căn cứ và chốt điểm của chúng vẫn còn là trở ngại chính cho nhiệm vụ giải phóng đồng bằng của ta.

Lực lượng ta, cả Nam và Bắc huyện có 2 đại đội địa phương (Đại đội H71 và đại đội I), 1 trung đội và 1 tiểu đội đặc công, đại đội 11 (bộ binh) và đại đội 12 (trợ chiến) của Tiểu đoàn 9 chủ lực tỉnh. Hình thức là như vậy, nhưng sau chiến dịch mùa thu 1967, quân số vũ khí, đạn dược chưa kịp bổ sung, toàn huyện chỉ có khoảng 300 tay súng chiến đấu, tinh thần tư tưởng qua chiến dịch Thu nẩy sinh một số hiện tượng lệch lạc chưa kịp khắc phục tốt. Trung tâm thị trấn Ninh Hòa đối với các đơn vị tham chiến là địa bàn, chưa quen thuộc, lại không có thời gian khảo sát thực địa, lập sa bàn, lên phương án tác chiến, thực tập chiến lệ và chuẩn bị tốt các khâu bảo đảm khác, mà phải hợp đồng tác chiến đúng thời gian quy định của chiến dịch, là điều hết sức khó khăn. Nhưng vì là mệnh lệnh chiến trường, là chiến dịch đặc biệt quan trọng của cả nước, diễn ra đồng loạt trên toàn miền, đúng là "ngàn năm có một", nên Ninh Hòa quyết định đánh chiếm 3 mục tiêu then chốt nhất trong trung tâm thị trấn.

- Một là: Trung tâm chi khu, cũng là trụ sở hành chánh quận, do 1 đại đội bảo an và 1 trung đội nghĩa quân đóng giữ. Đại đội I (Nam Ninh Hòa) có nhiệm vụ đánh chiếm mục tiêu này.

- Hai là: Chi công an (nay là khu vực công an Thị trấn) do nhân viên công an, cảnh sát dã chiến đóng giữ, giao cho Đại đội H71 đánh chiếm, sau đó dùng hỏa lực đại liên chi viện cho mục tiêu trung tâm huấn luyện dân vệ và khống chế bộ binh địch ở ngã 3 trước trụ sở quận.

- Ba là: Trung tâm huấn luyện dân vệ (nay thuộc khu vực chợ mới Ninh Hòa) là mục tiêu trọng điểm tấn công của lực lượng cánh Bắc Ninh Hòa, do 1 trung đội bảo an đóng giữ, ngày thường có khoảng 10 trung đội dân vệ dự huấn luyện. Trong dịp Tết tất cả đều về ăn Tết ở gia đình. Trọng điểm này, do trung đội đặc công đánh cửa mở. Đại đội 11, qua cửa mở đánh vào trung tâm, sau đó tổ chức phòng ngự đánh địch phản kích.

Đồng chí Võ Danh, Huyện đội trưởng; Lê Khá, Chính trị viên Huyện đội thống nhất ở Sở chỉ huy chung đặt tại xóm Gò Lăng (nay thuộc thôn 3, Thị trấn Ninh Hòa).

Về nổi dậy, theo kế hoạch, các xã trong huyện tổ chức nắm tình hình khi ta đánh chiếm được các mục tiêu quân sự của địch trong thị trấn, phát động nhân dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền xã, liền đó, đội vũ trang công tác cải trang lẫn vào nhân dân, tổ chức và hướng dẫn nhân dân trương băng cờ xuống đường biểu tình kéo vào thị trấn hỗ trợ cho nhân dân ở đây nổi dậy giành chính quyền.

Chiến dịch Xuân Mậu Thân lấy mật danh là T25. Ban chỉ đạo chiến dịch của huyện gồm các đồng chí Nguyễn Lương, Triết Giang (tức Võ Tòng), Đinh Hòa Khánh, do đồng chí Nguyễn Lương phụ trách chung, cơ quan chỉ đạo cùng đặt tại xóm Rượu với Sở chỉ huy chung các lực lượng vũ trang. Các xã tổ chức đường dây liên lạc nối với Ban chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch, báo cáo tình hình và nhân sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo chiến dịch, khi chiến dịch nổ ra.

Sau khi quán triệt kế hoạch và nhận nhiệm vụ của huyện giao, các đội vũ trang công tác về lại địa phương giao nhiệm vụ cụ thể cho từng chi bộ, chi đoàn, ban cán sự xã, thôn tiến hành chuẩn bị các mặt phục vụ cho chiến dịch như: chuẩn bị lực lượng quần chúng tham gia biểu tình, may cờ giải phóng, cờ hòa bình (cờ màu xanh có in hình chim bồ câu)… Kế hoạch được cơ sở và quần chúng hưởng ứng thực hiện rất sôi nổi. Mặc dù việc mua vải có đủ màu cờ trong vùng địch kiểm soát rất khó khăn, dể bị bọn tay sai của địch theo dõi phát hiện rất nguy hiểm. Quần chúng vẫn tìm mọi cách mua, nếu không đủ màu thì mua vãi trắng nhuộm thêm để may. Nhiều thôn xóm may hàng trăm lá, ở thị trấn - nơi địch kiểm soát chặt chẽ nhất cũng may được 500 lá, nhiều lá cở lớn 2 x1,5 mét bằng vải lụa đắt tiền. Gia đình ông Nguyễn Kiến Đường trong thị trấn, cách trụ sở hành chánh quận khoảng 200 mét, hằng đêm nghĩa quân có mặt trước cổng nhà và phục kích trong vườn, vẫn tổ chức canh gác, cắt may suốt đêm. Cho đến ngày nay, mỗi lần nhắc lại, mọi người vẫn còn thấy tự hào đối với việc làm dũng cảm, đầy ý nghĩa của mình.

Chiều ngày 25 tháng chạp âm lịch, toàn bộ lực lượng trực tiếp tham gia chiến đấu của Bắc Ninh Hòa đã đến vị trí tập kết tại gộp Cây Thị (Hòn Hèo). Các đội vũ trang công tác vùng Đông cũng có mặt tại đây. Huyện ủy truyền đạt thêm kế hoạch chi tiết, làm công tác tổ chức. Chiều ngày 29 Tết, lễ xuất quân được tổ chức trang nghiêm, trọng thể tại gộp Cây Thị. Trên mũ hay trên cánh tay áo mỗi người đều đính khẩu hiệu "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", trước ngực gắn danh hiệu "Quân khởi nghĩa" không khí buổi lễ thiêng liêng trọng thể khác thường. Trong lòng mọi người đều cảm nhận đây là lần xuống núi, đi vào trận quyết chiến cuối cùng giải phóng quê hương. Khác nào thời quân Đại Việt khắc trên cánh tay 2 chữ "sát thát", thề không thắng giặc là không trở về. Có thể nói công tác chính trị, tư tưởng được động viên đạt đến mức cao chưa từng có.

Cánh phía Nam huyện, tổ chức lễ xuất phát tại gộp Hòn Lớn cũng đầy đủ nghi thức trọng thể, có đũ những biểu tượng thể hiện niệm tin và quyết tâm quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.

Đêm 29 Tết, Đại đội I (Nam Ninh Hòa) do đồng chí Lê Trương đại đội trưởng, Huỳnh Bảy chính trị viên và tiểu đôi đặc công do đồng chí Mai Xảo làm tiểu đội trưởng, từ căn cứ Hòn Lớn hành quân xuống Hòn Sầm, phía Nam thị trấn. Cánh quân này do đồng chí Nguyễn Văn Thường huyện đội trưởng Nam Ninh Hòa trực tiếp chỉ huy, trong bóng đêm ta tìm nhập, đưa đội hình áp sát trụ sở quận.

Cánh quân Bắc Ninh Hòa xuất phát từ gộp Cây Thị ra Bến Giá, đã có thuyền của đồng bào thôn Hà Liên chờ sẳn đưa sang sông cũng tiến lên hướng hòn Sầm. Từ đây các đơn vị tìm nhập tiếp cận các mục tiêu đã được phân công.

Trong lúc Đại đội I đưa lực lượng áp sát cổng trụ sở quận, bị địch phát hiện nổ súng, 1 chiến sĩ của ta bị thương, ta và địch nổ súng đánh nhau cho đến sáng. Do ta tấn công vỗ mặt bằng lực lượng và vũ khí bộ binh thông thường nên không chiếm được mục tiêu, đến sáng Đại đội 1 chuyển lực lượng xuống hợp quân với cánh Bắc tại xóm Rượu.

Cùng lúc, Đại đội H71, từ thôn 2 tiến lên đến quốc lộ 1 (nay là đường Trần Quý Cáp) vừa tiếp cận bên này đường, đối diện với chi công an thì tiếng súng tấn công trụ sở quận nổ, tổ bộc phá không đánh được cửa mở, ta chỉ ở bên này đường bắn sang, địch bên kia đường bắn lại, không hạ được mục tiêu, đến sáng Đại đội H71 phải lùi xuống thôn 2 trụ lại.

Tại trung tâm huấn luyện dân vệ, tổ đặc công đưa bộc phá vào đánh cửa mở, do thiếu bình tĩnh, để bộc phá rơi khỏi tường, bộc phá nổ không phá được cửa mở, địch kháng cự ác liệt. B40 bắn thủng nhưng không phá sập được tường, các mũi đánh trận nội không phát triển vào được, đội hình dồn đông dày bên phía Nam đường, bị mấy tên Mỹ trên gác nhà Thái Thị Trực đánh lựu đạn xuống gây cho ta một số thương vong. Trận đánh dây dưa cho đến sáng, ta không sao giải quyết được mục tiêu. Nhận thấy tất cả các mũi đều không hoàn thành nhiệm vụ, ta chuyển toàn bộ lực lượng xuống xóm Rượu trụ lại chuẩn bị đánh địch phản kích.

Trong lúc chốt lực lượng, xây dựng công sự chiến đấu ta gặp tên trung sĩ lính biệt kích địch kháng cự, ta tiêu diệt thu 1 súng Cac-bin, lục soát trong nhà thu thêm 1 súng ngắn. Kiểm tra lại lực lượng, thấy thiếu một trung đội của đại đội H71, do đồng chí Thắng trung đội trưởng chỉ huy, do hiểu sai lệnh nên rút ra luôn, đến xã Ninh Giang đơn vị trụ lại tại thôn Mỹ Chánh, sau đó lùi xuống trụ lại ở thôn Hội Phú Nam (xã Ninh Giang).

Cùng lúc với Ninh Hòa, ở thị xã Nha Trang và một số thị trấn trong tỉnh địch bị quân ta tấn công dữ dội, nên tại đây quân ngụy lo phòng thủ, quân Nam Triều Tiên điều quân rần rộ, nhưng chưa dám phản kích ngay mà hình thành thế bao vây lực lượng ta từ hướng Đông và Đông nam Gò Lăng.

Khoảng 8 giờ, 2 chiếc máy bay trực thăng địch đến quần lượn trên trận địa, kêu gọi ta đầu hàng. Ta dùng trung liên bắn lên mấy loạt, chúng bay mất. Một đơn vị bảo an từ chùa Hội quán theo đường Nguyễn Trường Tộ tiến xuống, bị ta nổ súng diệt 3 tên, chúng chạy ngược trở lại, không dám xuống nữa. Từ hướng đông và Đông nam, quân Nam Triều Tiên tập trung binh hỏa lực, tiếp cận tấn công vào trận địa ta, bị ta đánh bật trở lại. Địch sử dụng trực thăng bổ sung quân số, đạn dược, lấy thương vong, giữ chặt thế bao vây ta.

Đến 15 giờ, chúng tổ chức đợt tấn công lần thứ 2, rất ác liệt. Chúng phóng đầu đạn M72 vào công sự ta bốc cháy, đồng chí xạ thủ khẩu đại liên của ta hy sinh, một bộ phận lực lượng ta bị bật ra khỏi trận địa. Ta sử dụng đội dự bị, (trung đội đặc công) chi viện, đánh bật chúng ra và chiếm lại trận địa. Đến 19 giờ, địch dừng tấn công, giữ thế bao vây và chận đường rút của ta, chờ ngày sau tiêu diệt.

Về ta, đến lúc này có 20 thương binh, đạn các loại còn lại rất ít. Mở đài thu thanh theo dõi tình hình thấy thành phố Sài Sòn và cố đô Huế vẫn im lặng, lệnh tấn công không nghe phát trên đài phát thanh ngụy… Mặc dù không có phương án 2 nhưng trước tình hình đó, được sự đồng ý của Ban chỉ đạo chiến dịch huyện, ta đưa thương binh và toàn bộ lực lượng rút ra khỏi vòng vây của địch về căn cứ Hòn Hèo an toàn. Trên đường rút, gặp đồng chí Thắng trung đội trưởng cho biết, trung đội của đồng chí trụ tại thôn Hội Phú Nam (xã Ninh Giang). Lúc 14 giờ, quân Nam Triều Tiên kéo đến bao vây tấn công, đơn vị vừa đánh trả, vừa rút xuống Bên Giá, bị trực thăng võ tang địch đuổi bắn giữa cánh đồng trống và lúc qua sông, trung đội của đồng chí chỉ còn sống sót 6 đồng chí.

Phía Tây nam quận lỵ, tiểu đội đặc công Nam Ninh Hòa đánh chiếm được nhà Ga, sáng mồng một Tết thấy ta không chiếm được trụ sở quận, nhưng không dám rút về căn cứ, vì không có phương án 2, tiểu đội lui ra trụ lại tại thôn Phong Ấp, rồi chuyển sang thôn Bình Thành (xã Ninh Bình) đánh địch đến bao vây tấn công suốt 2 ngày (mồng một, mồng hai). Ngày thứ 3, tiểu đội chuyển sang trụ tại thôn Nghi Phụng (xã Ninh Phụng), trung đội nghĩa quân đến bao vây tấn công, tiểu đội đánh phòng ngự cho đến 19 giờ. Đêm đó, tiểu đội rút sang ém lực lượng dưới chân núi Ổ Gà (căn cứ Nam Triều Tiên) vẫn chưa nhận được lệnh rút lui, nhưng tiểu đội bị đói, khát kiệt sức, đêm sau tiểu đội rút lui về căn cứ Hòn Lớn.

Trong 3 ngày trụ bám đánh địch trong làng, tiểu đội diệt và làm bị thương nhiều tên địch, tiểu đội không có thương vong. Trong lúc ta và địch đánh nhau ác liệt, đồng bào ở các thôn này không nề nguy hiểm, tìm mọi cách bảo vệ, tiếp tế cho lực lượng ta. Những lúc không trực tiếp được, đồng bào đem bánh tét để gần nơi ta bám trụ, để tiểu đội lấy ăn, đánh địch. Trong tình thế khốn nguy ác liệt, lòng dân đối với cách mạng hết sức thắm thiết đã động viên, tiếp thêm tinh thần và sức lực cho tiểu đội đánh thắng địch, bảo vệ được lực lượng trong vòng vây của chúng.

Tại gộp Cây Thị, sáng ngày mồng 2 Tết, Đại đội 12 (trợ chiến) đi nhận đạn cối ở Đaklak vừa về, đêm đó ta cho pháo kích vào căn cứ Hà Thanh 80 quả cối 82 ly, làm cháy một kho đạn pháo, làm chết một số tên bảo vệ kho của địch.

Kết quả trong Tết Mậu Thân ta tiêu diệt nhiều tên Nam Triều Tiên và một số lính ngụy. Bên ta, 25 đồng chí hy sinh, 20 đồng chí bị thương, mất một súng thượng liên, 1 trung liên, 3 tiểu liên và 7 súng trường.

Lực lượng ta vừa về đến căn cứ Hòn Hèo, thì đêm mồng 2 Tết, chiếc tàu không số của Đại đội 235 hải quân ta, do đồng chí Nguyễn Phan Vinh làm Thuyền trưởng chỉ huy, chở vũ khí của miền Bắc chi viện cho Khánh Hòa và các tỉnh trong khu vực, vào đến cửa biển thôn Đầm Vân, xã Ninh Phước (Hòn Hèo). Tàu bị địch phát hiện, chúng huy động 7 tàu chiến, và máy bay yểm trợ, bao vây tấn công tàu của ta. Một tiểu đoàn Nam Triều Tiên rải quân bao vây phong tỏa trên bờ. Toàn đội thủy thủ tàu của ta đánh trả rất dũng cảm, đánh đắm 1 tàu địch, phi tang được hàng, cho nổ được tàu, 14 cán bộ, chiến sĩ đội tàu, trong đó có đồng chí Nguyễn Phan Vinh thuyền trưởng hy sinh hết sức dũng cảm và đầy trách nhiệm. Toàn đội còn lại 5 đồng chí đã dũng cảm thoát vây, chịu đói khát, tìm liên hệ với địa phương trở về miền Bắc bằng đường bộ an toàn.

Lúc này, lực lượng ta ở căn cứ Hòn Hèo, do khó khăn về lương thực, ta chỉ để Đại đội H71 trụ lại, còn toàn bộ các cơ quan và đơn vị vũ trang đêm mồng 3 Tết rút lên căn cứ Hòn Lớn (phía Nam huyện).

Lực lượng nổi dậy của các xã, đêm giao thừa, các đội vũ trang công tác đều triển khai lực lượng bám địa bàn, bố trí nắm tình hình, chuẩn bị lực lượng, trống mõ, băng cờ, khẩu hiệu… để sáng ngày mồng một Tết nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền và xuống đường biểu tình kéo vào hỗ trợ cho nhân dân thị trấn khởi nghĩa. Những thôn xóm vùng làm chủ như Hà Liên, Thổ Châu, Xuân Hòa, Điềm Tịnh… nhà nhà đều thắp đèn sáng choang, mở máy thu thanh theo dõi đài Hà Nội, đài Sài Gòn chờ tin chiến thắng, chờ thơ chúc Tết của Bác Hồ. Tết này Bác viết:

"Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua

Thắng lợi tin vui khắp nước nhà,

Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,

Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta".

"Tiến lên! toàn thắng ắt về ta" đã giục giã nhân dân Ninh Hòa rất mạnh mẽ. Mọi người đều nôn nao chờ tin chiến thắng và sẳn sàng hành động theo kế hoạch và theo lời kêu gọi của Bác.

Sáng ngày mông một Tết, Thấy trung tâm thị trấn im tiếng súng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ Đảng và đội vũ trang công tác, hàng trăm nhân dân 2 thôn Hà Liên, Tân Tế, xã Ninh Hà do nòng cốt cơ sở và cán bộ bất hợp pháp cải trang làm nòng cốt hướng dẫn, tập trung trương băng cờ xuống đường kéo lên thị trấn. Đoàn biểu tình lên đến thôn Hậu Phước bị trung đội nghĩa quân nổ súng chận lại phải giải tán trở về, cán bộ bất hợp pháp được dân bảo vệ đưa ra bên ngoài an toàn. Cùng lúc, khoảng 30 quần chúng xã Ninh Phú kéo lên thôn 3, xã Ninh Đa, gặp quân Nam Triều Tiên đang điều quân rần rộ phải quay trở lại. Ở nhiều thôn xã khác như thôn Quan Đông (xã Ninh Đông) Điềm Tịnh (xã Ninh Phụng) đêm 29, băng cờ, trống mõ, cán bộ đội vũ trang công tác, đảng viên, đoàn viên, nòng cốt của thôn, của giới phụ nữ, đã tập trung có mặt tại đây, có lệnh là lập tức huy động lực lượng của thôn mình, giới mình và đón cả nhân dân các thôn phía Bắc xã như Phú Văn, Phước Thuận cùng kéo vào thị trấn. Sáng ngày mồng một, thấy im tiếng súng, cơ sở thôn Quan Đông vào thị trấn liên lạc với Ban chỉ đạo chiến dịch báo cáo tình hình và xin chỉ thị. Nhưng do ta không chiếm được các mục tiêu quân sự của địch nên trở về giải tán lực lượng.

Trong thị trấn, đồng chí Lý Khuê - một cán bộ cách mạng lão thành hứa với cán bộ lãnh đạo huyện, hễ có lệnh, đồng chí sẽ đứng ra dương cao cờ cách mạng, tập hợp và dẫn đầu quần chúng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đêm giao thừa, phối hợp với tấn công quân sự, cô Nguyễn Thị Tịnh dũng cảm cắm lá cờ Mặt trận giải phóng trên nóc tầng lầu của chi chiêu hồi (khu vực cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện hiện nay)

Ở 2 xã Ninh An, Ninh Thọ, do chi bộ 2 xã lãnh đạo đã vận động trên 600 nhân dân phần lớn là phụ nữ, trong đó có 41 cán bộ bất hợp pháp gồm, cán bộ đội vũ trang công tác, các ban ngành đoàn thể huyện, cải trang làm nòng cốt hướng dẫn, tập trung tại ngã 3 thôn Lạc Bình (khu vực UBND xã hiện nay), trương cờ Hòa Bình, cờ Phật giáo, khẩu hiệu "đả đảo Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu", trên ngực một số đồng bào đính khẩu hiệu quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, cùng nhiều truyền đơn đưa tay để tranh thủ quân Nam Triều Tiên… xuống đường, giục trống kéo vào quận lỵ. Chị Võ Thị Tâm, ủy viên Ban Chấp hành phụ nữ tỉnh về công tác tại Ninh Hòa, đi trong tốp dẫn đầu. Đoàn biểu tình vào đến đoạn đường gần hòn Lúp và ngã 3 vào căn cứ Hà Thanh, gặp tên ấp trưởng ấp Lạc Bình nổ súng chặn lại. Cùng lúc, một đơn vị Nam Triều Tiên kéo đến, súng cầm tay mắt đăm đăm chờ lệnh. Nhưng do trước Tết các đồng chí lãnh đạo ở xã, đã cử các cụ lão thành và cơ sở binh vận của xã vào thông báo cho quân Nam Triều Tiên biết trước là ngày mồng một Tết theo thường lệ, đông đảo nhân dân trong xã sẽ vào dân hương lễ Phật ở ngôi chùa trong căn cứ (tại đồi Bạch Mã) và chùa Phật học trong thị trấn, nên chúng còn do dự. Thấy có sự hành hùng của tên ấp trưởng, viên đại úy chỉ huy đơn vị, tên là Ly đến can thiệp. Nòng cốt binh vận của ta xáp mặt viên đại úy Ly giải thích, tranh thủ để vượt qua. Nhưng tên Ly, nguyên là một sĩ quan tâm lý chiến rất nham hiểm, nó không cho tên ấp trưởng bắt người với lý do, dân của 2 xã thuộc phạm vi nó có trách nhiệm, nhưng nó buộc đoàn biểu tình đi ngược trở về chợ Lạc An.

Chúng cho lính súng cầm tay đi kèm hai bên đường, tên Ly xen vào hàng giục trống đưa đoàn biểu tình trở về. Đoán được ý đồ nham hiểm của địch, các đồng chí huyện ủy viên trực tiếp chỉ đạo cuộc biểu tình, truyền lệnh phải giải tán khi qua cầu Mống phía Nam chợ (cầu Mống đang tu sữa, phải đi tẻ hai bên đường)

Qua khỏi cầu, khi quân Nam Triều Tiên tập trung dân cuộc biểu tình để gạn bắt "Việt Cộng" thì cán bộ, cơ sở của ta đã tản về các thôn và đến nơi an toàn.

Tuy cuộc biểu tình chưa đi đến mục tiêu, nhưng nhân dân 2 xã Ninh An, Ninh Thọ đã biểu dương lực lượng với khí thế cách mạng rất cao. Công tác tổ chức và lãnh đạo của các chi bộ và đội vũ trang công tác ở đây rất khôn khéo sáng tạo, đã kết hợp đấu tranh chính trị với binh vận kết thúc an toàn cuộc biểu tình trước nguy cơ bị đàn áp đẩm máu là một thắng lợi lớn, ảnh hưởng chính trị rộng rãi.

Ở thị trấn, trong trận đánh vào Trung tâm huấn luyện dân vệ, đồng chí Nguyễn Văn Trường, Tiểu đội trưởng của Đại đội 11, Tiểu đoàn 9 bị thương và lạc đồng đội. Đồng chí lần vào một ngôi nhà, rất may là nhà của cô giáo Nguyễn Thị Ngọc Oanh, tự vệ mật của thị trấn. Gia đình có hầm bí mật đang nuôi dấu cán bộ huyện trong nhà. Khi nhận biết đồng chí là Quân giải phóng, gia đình đã đưa đồng chí xuống hầm nuôi dưỡng chăm sóc vết thương, chờ ngày đưa anh ra căn cứ.

Ngày 22.2.1968, một em bé, con của một gia đình cơ sở đưa lá thư của đồng chí cán bộ lãnh đạo huyện đến cho gia đình. Lá thư được cuốn rất nhỏ, lận trong người, em nhỏ sơ ý làm rơi, bọn nghĩa quân trước cổng nhà nhặt được. Nội dung chúng không hiểu, nhưng chúng nghi là nhà có hầm bí mật nuôi dấu Việt Cộng. Tên Trần Trọng An, Trưởng Chi công an-cảnh sát ngụy đưa ngay lực lượng đến bao vây lục soát. Chúng bắt cô Oanh và cả gia đình dồn vào một góc phòng, chỉa súng bắt chỉ hầm bí mật. Trước nguy cơ bị bại lộ, người thương binh dưới hầm sẽ bị chúng giết. Cô và gia đình bình tĩnh, tìm cách, thuyết phục là nhà không có hầm. Bọn địch nhất quyết bắt cô phải chỉ hầm và cho lính vào buồng cô lục soát. Tình thế rất căng thẳng, vì trong buồng có hầm và có cất giấu một quả lựu đạn gài. Cô đưa đứa con đang bồng trên tay sang cho mẹ, và nói "Muốn tìm Việt Cộng các ông hãy lên núi mà tìm". Vừa lúc đó, địch ở trong buồng cũng la lên là đã phát hiện được nắp hầm, cô bước vội vào, tên Trưởng Chi công an - cảnh sát và 2 tên tùy tùng bước theo ngay, nghe có tiếng xô xát, người em trai của cô cũng bước vào. Để cứu thoát chiến sĩ quân giải phóng ở trong hầm bí mật, cô Oanh đã dũng cảm rút chốt lựu đạn cho nổ, tên Chi trưởng chết ngay tại chổ, 2 tên cảnh sát bị thương, cô bị thương rất nặng ở vùng bụng, người em trai Nguyễn Kiến Thưởng cũng bị thương. Nghe lựu đạn nổ, đồng chí Trường bung nắp hầm, chạy thoát được một đoạn thì bị trúng đạn hy sinh.

Địch dùng trực thăng đưa cô và người em của cô vào Bệnh viện Nha Trang cứu chữa nhằm để khai thác những bí mật của cách mạng. Tại bệnh viện, cô từ chối không để địch băng bó cứu chữa, trước khi hy sinh cô chỉ hỏi "anh thương binh có thoát được không"?. Nhân dân, hàng ngũ giáo viên và lớp tuổi trẻ Ninh Hòa vô cùng thương tiếc và khâm phục ý chí và hành động anh hùng của cô - một thầy giáo, một chiến sĩ tự vệ mật đã "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", hy sinh đời mình diệt địch để cứu người chiến sĩ Quân giải phóng. Cô đã để lại tiếng thơm muôn thuở cho gia đình, dòng tộc, một tấm gương chói lọi làm rạng rỡ truyền thống anh hùng của quân và dân Ninh Hòa. Cô được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý "Anh hùng lực lượng vũ tranh nhân dân".

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 là mốc son chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Thắng lợi Tết Mậu Thân 1968, đã đẩy đế quốc Mỹ từ chiến lược phản công "tìm diệt" và "bình định" lui vào chiến lược phòng thủ "quét và giữ", làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", buộc chúng phải xuống thang, tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở lên, phải chịu ngồi vào bàn hội nghị Paris, cuộc cách mạng miền Nam của ta tiến lên bước phát triển mới tạo tiền đề để "đánh cho Mỹ cút", "đánh cho ngụy nhào" theo lòng mong muốn và thư chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến.

Ở Ninh Hòa, Tết Mậu Thân 1968, tuy thời gian chuẩn bị rất cập rập, nhưng Ninh Hòa triển khai thực hiện nhiệm vụ đúng thời gian quy định theo mệnh lệnh chiến trường và sự chỉ đạo của Tỉnh, là một nổ lực rất cao của Đảng bộ, quân và dân trong huyện.

Về tấn công quân sự, tuy ta không đánh chiếm được các mục tiêu quân sự theo kế hoạch, nhưng với một lực lượng không nhiều, ta đã trụ lại đánh địch suốt một ngày trong trung râm sào huyệt của chúng, hàng tiểu đoàn Nam Triều Tiên và quân ngụy có đủ loại vũ khí và phương tiên chiến tranh hiện đại, nhưng bị ta đánh tơi bời, sinh lực bị tiêu hao. Chẳng những, không ngăn chặn được ta đưa quân vào trót lọt, mà cũng không chặn được ta rút quân ra an toàn. Một lẫn nữa nhân dân tận mắt thấy quân Nam Triều Tiên - chổ dựa của quân ngụy đông, tàn bạo nhưng không mạnh, càng tin tưởng vững chắc hơn vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chông Mỹ, cứu nước.

Về nổi dậy, do tấn công quân sự không đạt mục tiêu kế hoạch, ta không phát động được cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân, nhưng qua khí thế chuẩn bị trong đêm giao thừa của nhân dân các xã, các cuộc xuống đường của nhân dân các thôn Hà Liên, Tân Tế, đặc biệt là cuộc biểu tình dũng cảm và đầy khí thế cách mạng của trên 600 quần chúng 2 xã Ninh An, Ninh Thọ, gương dũng cảm phi thường của cô giáo Nguyễn Thị Ngọc Oanh… chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968 ở Ninh Hòa ảnh hưởng chính trị rất lớn và rộng rãi, cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng chiến của nhân dân, để lại dấu ấn lịch sử sâu sắc trong lòng nhân dân Ninh Hòa, góp phần xứng đáng cùng toàn tỉnh, toàn miền và cả nước giành thắng lợi to lớn.

Tuy nhiên, chiến dịch Mậu Thân 1968 ta không giành thắng lợi như quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, theo đánh giá của cấp trên, trước hết là do ta đánh giá chưa khách quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, từ đó đề ra các mục tiêu, yêu cầu của chiến dịch chưa thật sát với thực tế tình hình lúc bấy giờ.

Riêng ở Ninh Hòa, Nghị quyết Hội nghị mở rộng của Ban Thường vụ Tỉnh ủy truyền đạt đến huyện rất chậm (ngày 20 tháng chạp âm lịch). Huyện không có thời gian cần thiết để chuẩn bị các khâu bảo đảm cho chiến dịch. Nhưng phải đánh đúng thời gian chỉ định của chiến dịch, là điều hết sức khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Trên Chủ trương là hợp nhất Nam-Bắc Ninh Hòa thành huyện chung, dưới sự chỉ đạo, chỉ huy của Huyện ủy và Ban chỉ huy huyện đội thống nhất. Nhưng trong thực tế, từ truyền đạt chủ trương đến xây dựng phương án tác chiến đều tiến hành riêng lẽ từng huyện. Tư tưởng chỉ đạo xây dựng phương án tác chiến nặng ỷ lại vào thắng lợi của toàn miền. Do vậy, kế hoạch sử dụng lực lượng không hợp lý, rất đơn giản, dường như lực lượng của huyện chỉ cần có mặt, nổ súng kịp thời vào đêm N và giờ G là quân địch đầu hàng.

Trong chỉ đạo chiến dịch thiếu nhất quán, thay đổi ngày N giữa chừng, Sài Gòn và Huế đêm sau (30 tháng chạp, theo lịch miền Nam) mới tấn công, và dù cho ta đánh chiếm được đài phát thành Sài Gòn để phát lệnh tấn công cho toàn miền thì những ý tưởng trung lập hóa quân Nam Tiều Tiên, quân ngụy đầu hàng ngay là chủ quan, không hiện thực; chỉ thực hiện một phương án, không có phương án 2 nên lực lượng ta ở thị xã Nha Trang bị tổn thất rất nặng. Trong tình hình đó, Ninh Hòa đưa lực lượng vũ trang ra bên ngoài an toàn trong đêm mồng một Tết, là một sự quyết đoán cần thiết.

NHỮNG DIỄN BIẾN SAU TẾT MẬU THÂN.

Cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân ta thắng lớn, nhưng sau đó ta gặp khó khăn không nhỏ. Đế quốc Mỹ tập trung sức củng cố tinh thần ngụy quân, ngụy quyền từ trung ương đến cơ sở. Một mặt, chúng dốc sức bắt lính đôn quân bổ sung lực lượng, mặt khác xua quân phản kích, lấn chiếm lại những vùng đã mất, mở nhiều cuộc hành quân cảnh sát, đánh phá hạ tầng cơ sở cách mạng, đồng thời chúng mở những cuộc càn quét sâu vào căn cứ ta, hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường.

Ở Ninh Hòa, chúng tăng cường phòng thủ chi khu, quận lỵ tăng thêm công sự, hầm ngầm, rào cản, ánh sáng bảo vệ, tuần tra kiểm soát nghiêm ngặt. Quân Nam Triều Tiên đóng thêm chốt Giồng Thanh, phía Bắc thôn Xuân Phong (xã Ninh Thọ), cứ điểm gò Cây Xay, thuộc xã Ninh thân. Ở nông thôn, chúng tăng cường kiểm soát lúa gạo, không cho dân để gạo, muối trong nhà nhiều. Quân Nam Triều Tiên, bảo an, nghĩa quân, dân vệ hàng đêm phối hợp phân chia tọa độ, dùng mìn cơ-lây-mo phục kích đường đi và xung quanh nhà cơ sở, các rẫy chuối, nương mì, phong tỏa các cửa khẩu thu mua hàng hóa… nhằm bao vây bóp nghẹt hơn nữa nguồn lương thực thực phẩm của ta.

Lợi dụng lực lượng ta bị tổn thất trong chiến dịch, cơ sở của ta ở một số nơi bị phá vỡ, chúng đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, hành quân cảnh sát phát hiện cán bộ bám làng khủng bố nhân dân, nhất là đối với những thôn, xã đã diễn ra các cuộc biểu tình. Đồng thời chúng bung ra mạnh hơn ở bên ngoài. Từ tháng 4.1968 trở đi, địch càn quét liên tục và ác liệt, hết vùng này đến vùng khác không ngày nào là không có thám báo, thám kích quân Nam Triều Tiên lùng phục ở các vùng giáp ranh căn cứ Đá Bàn, Hòn Hèo, Hòn Lớn.

Lực lượng ta vốn đã ít, lại tập trung hầu hết cho chiến dịch, cán bộ, chiến sĩ thương vong nhiều, không có điều kiện bổ sung quân số, đạn dược. Trong nội bộ, tư tưởng diễn biến phức tạp, từ lạc quan tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của chiến dịch, mọi người đều quả quyết trận này là trận cuối cùng, quê hương nhất định được giải phóng sẽ sống ở đồng bằng, không còn trở về với cuộc sống núi rừng nữa. Trước khi xuất quân nhiều người vứt bỏ tư trang, gạo thóc, xoong nồi xuống gộp đá. Sau Tết không giải phóng được đồng bằng, phải về lại căn cứ, không còn quần áo để mặc, gạo không còn để ăn. Nguồn lương thực ở đồng bằng bị địch kiểm soát gắt gao. Chỉ việc về làng lấy gạo, đến rẫy ở bìa rừng lấy chuối non về ăn, cũng bị tổn thất hy sinh như, trường hợp một tiểu đội xuống rẫy thôn Phú Hữu lấy chuối, lúc trở về bị địch phục kích chỉ còn sống sót một đồng chí.

Từ lạc quan tin tưởng tuyệt đối, đi đến bi quan, hoài nghi thắng lợi, thiếu tin tưởng phấn khởi và nẩy sinh nhiều thắc mắc xung quanh việc thay đổi ngày N, việc chỉ tác chiến một phương án, không có phương án 2…

Thi hành chủ trương của Tỉnh ủy, tháng 8.1968, Nam và Bắc Ninh Hòa tách ra thành hai huyện như cũ. Đến cuối năm 1968 đầu năm 1969, cả 2 huyện đều tổ chức hội nghị cán bộ để quán triệt và bàn kế hoạch triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ năm của Đảng bộ tỉnh. Trong Hội nghị hai huyện, đi đôi với khẳng định thắng lợi to lớn của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, biểu dương tinh thần cách mạng kiên cường của cán bộ, chiến sĩ và quần chúng trong huyện, Hội nghị đã nghiêm túc liên hệ phê phán những tư tưởng lệch lạc nói trên, đồng thời lấy Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 3.11.1968 để giáo dục, động viên tinh thần, tư tưởng cán bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân. Trong Lời kêu gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: "Nhiệm vụ của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Hể còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta phải chiến đấu quét sạch nó đi."

Quyết tâm sát đá của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã động viên và truyền thêm sức mạnh cho Đảng bộ, quân và dân Ninh Hòa khắc phục khó khăn vươn lên hoàn thành nhiệm vụ mới.

Tình hình trong nội bộ ta là như vậy, nhưng trong vùng địch kiểm soát, trong lúc bộ máy tuyên truyền của địch ngày đêm không ngớt lời ca ngợi sức mạnh và chiến thắng của Mỹ, thì tin tức khắp miền Nam dồn dập dội về là, hàng chục vạn quân Mỹ, chư hầu và quân ngụy bị tiêu diệt, các nhà thương của Mỹ-ngụy từ Sài Gòn đến Quảng Trị đầy ấp thương binh của chúng. Hàng trăm gia đình binh sĩ ngụy trong huyện có người thân chết trận, kêu khóc thê thảm, địch không sao che giấu được. Quần chúng rất phấn khởi và tiếp tục khẳng định, cách mạng rồi sẽ chiến thắng.

Hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền mất tin tưởng dần vào chủ Mỹ và rất hoang mang đối với ngày mai. Đó là những thuận lợi để quân và dân Ninh Hòa bước vào cuộc đấu tranh chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ.

Từ khóa » đồng Minh Của Mỹ Trong Chiến Lược Chiến Tranh Cục Bộ