CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HÀNH VI NGƯỜI TIÊU DÙNG - Tài Liệu Text
Có thể bạn quan tâm
1.1.2. Mô hình hành vi mua của người tiêu dùng
Để hiểu được mong muốn, nhu cầu của người tiêu dùng, chúng ta phải xuất
phát từ mô hình hành vi của họ. Vấn đề cốt yếu là hiểu được người tiêu dùng hưởng
ứng như thế nào trước những tác nhân marketing khác nhau mà doanh nghiệp có thể
sử dụng đến? Doanh nghiệp nắm bắt được điều đó sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn hẳn
những đối thủ của mình.
Sơ đồ 1.1: Mô hình hành vi người tiêu dùng
Nguồn: Marketing căn bản, Philip Kotler[1]
Mô hình hành vi người tiêu dùng bao gồm 3 nhân tố cơ bản: các tác nhân kích
thích, hộp đen của người mua và các phản ứng đáp lại của người mua. Các yếu tố
Marketing (sản phẩm, giá cả, phân phối) và các tác nhân khác (kinh tế, công nghệ,
chính trị, văn hóa) tác động vào “hộp đen” của người mua, tức là tác động vào
những đặc điểm (văn hóa, xã hội, cá tính và tâm lý) cũng như tiến trình quyết định
của người mua (nhận thức vấn đề, tìm kiếm thông tin, đánh giá, quyết định, hành vi
mua). Chúng gây ra những đáp ứng cần thiết từ phía người mua và kết quả là đưa đến
một quyết định mua sắm nhất định (loại sản phẩm, nhãn hiệu, số lượng, lúc mua và nơi
mua). Công việc chính của người làm Marketing là tìm hiểu các tác nhân được chuyển
thành những đáp ứng ra sao ở quá trình nhận thức xử lý thông tin của người tiêu dùng.
Để tìm hiểu rõ hẳn chúng ta cùng đi sâu vào từng nhân tố của mô hình.
Các tác nhân kích thích: là tất cả các tác nhân, lực lượng bên ngoài người tiêu
dùng có thể gây ảnh hưởng tới hành vi của người tiêu dùng. Nó bao gồm các yếu tố
9
kích thích của Marketing và các tác nhân kích thích khác. Trước hết, các yếu tố kích
thích của marketing là những hoạt động marketing của doanh nghiệp tác động vào
người tiêu dùng một cách có chủ đích thông qua các chương trình, chiến dịch
marketing 4Ps. Doanh nghiệp có khả năng kiểm soát các kích thích này. Đối với các
tác nhân khác là những tác nhân thuộc môi trường bên ngoài, doanh nghiệp không
điều khiển, kiểm soát được. Nó bao gồm các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô và có
thể gây rủi ro hay thuận lợi cho doanh nghiệp. Việc doanh nghiệp cần làm đó là dự
báo và đưa ra các kế hoạch để giảm thiểu rủi ro và khai thác tối đa thuận lợi.
“Hộp đen” ý thức là quá trình xử lý thông tin và đưa ra quyết định trước các
nhân tố kích thích. Nó bao gồm đặc tính của người tiêu dùng và quá trình quyết
định mua sắm.
Đặc tính của người tiêu dùng: Khi các tác nhân kích thích tác động vào người
tiêu dùng, người tiêu dùng tiếp nhận những kích thích đó với những đặc tính của
mình như tính cách, tuổi tác, giới tính, hoàn cảnh gia đình, thu nhập … Từ đó người
tiêu dùng xử lý thông tin tiếp nhận được theo cách riêng của họ, cân nhắc đưa ra
quyết định mua hoặc không mua hàng.
Quá trình quyết định mua sắm: Đây là toàn bộ quá trình người tiêu dùng thực
hiện các hoạt động liên quan đến sự xuất hiện nhu cầu, tìm kiếm thông tin, mua
sắm, tiêu dùng, cảm nhận có được sau khi tiêu dùng. Người tiêu dùng đưa ra quyết
định mua sắm hoặc không, nhưng nếu đưa ra quyết định họ sẽ tìm hiểu xem nên
mua ở đâu, mua thế nào, với mức giá bao nhiêu, mua của ai … Đây là quy trình
hành vi người tiêu dùng, trong “hộp đen” ý thức sẽ chứa đựng những suy nghĩ, sự
cân nhắc của người tiêu dùng trước khi đưa ra hành động. Cả quá trình này sẽ quyết
định sự hài lòng, thỏa mãn của khách hàng.
Phản ứng đáp lại của người tiêu dùng: là những phản ứng người tiêu dùng bộc
lộ trong quá trình trao đổi mà ta có thể quan sát được. Nó là tập hợp các cảm xúc,
thái độ và hành động của người tiêu dùng khi tiếp cận với các kích thích.
10
1.1.3. Quy trình ra quyết định mua
Để có quyết định mua sắm, khách hàng thường trải qua một quá trình cân
nhắc. Quá trình đó thường diễn ra theo một trình tự gồm các bước sau đây:
Sơ đồ 1.2: Quy trình ra quyết định mua
Nguồn: Marketing căn bản, Philip Kotler[1]
Mô hình này chứa đựng một ẩn ý là người tiêu dùng khi mua một sản phẩm
phải trải qua tất cả năm giai đoạn. Song thực tế không phải như vậy, nhất là trong
những trường hợp mua những mặt hàng ít cần để tâm. Người tiêu dùng có thể bỏ
qua hay đảo lại một số giai đoạn. Tuy nhiên ta vẫn sử dụng sơ đồ trên, vì nó bao
quát được đầy đủ những vấn đề nảy sinh khi một người tiêu dùng đứng trước một
việc mua sắm mới cần để tâm nhiều.
Ý thức nhu cầu
Quá trình mua sắm bắt đầu từ khi người mua ý thức được vấn đề hay nhu cầu.
Người mua cảm thấy có sự khác biệt giữa tình trạng thực tế và tình trạng mong
muốn. Nhu cầu có thể bắt nguồn từ những tác nhân kích thích nội tại hay bên ngoài.
Trong trường hợp đầu, một trong những nhu cầu thông thường của con người, như
đói, khát tăng dần lên đến mức ngưỡng và trở thành một niềm thôi thúc. Theo
những kinh nghiệm quá khứ người đó đã biết cách giải quyết niềm thôi thúc đó và
động cơ của nó sẽ hướng vào lớp đối tượng có khả năng thoả mãn được niềm thôi
thúc đó.
Nhu cầu cũng có thể bắt nguồn từ một tác nhân kích thích bên ngoài. Một
người đi ngang qua một cửa hiệu bánh mì và hình ảnh những chiếc bánh mỳ vừa
mới nướng xong đã kích thích làm cho người đó cảm thấy đói.
11
Tìm kiếm thông tin
Người tiêu dùng có nhu cầu sẽ bắt đầu tìm kiếm thêm thông tin. Ta có thể
phân ra làm hai mức độ. Trạng thái tìm kiếm tương đối vừa phải được gọi là trạng
thái chú ý nhiều hơn.
Những nguồn thông tin chủ yếu mà người tiêu dùng tìm đến và ảnh hưởng
tương đối của từng nguồn đó đến quyết định mua sắm tiếp sau:
– Nguồn thông tin cá nhân: Gia đình, bạn bè, hàng xóm, người quen
– Nguồn thông tin thương mại: Quảng cáo, nhân viên bán hàng, đại lý, bao bì,
triển lãm.
– Nguồn thông tin công cộng: Các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức
nghiên cứu người tiêu dùng.
– Nguồn thông tin thực nghiệm: sờ mó, nghiên cứu và sử dụng sản phẩm.
Số lượng tương đối và ảnh hưởng của những nguồn thông tin này thay đổi tuỳ
theo loại sản phẩm và đặc điểm của người mua. Nói chung, người tiêu dùng nhận
được nhiều thông tin nhất về sản phẩm từ những nguồn thông tin thương mại. Mặt
khác, những nguồn thông tin cá nhân lại là những nguồn có hiệu quả nhất. Mỗi
nguồn thông tin thực hiện một chức năng khác nhau trong một mức độ nào đó về
tác động đến quyết định mua sắm. Nguồn thông tin thương mại thường thực hiện
chức năng thông báo, còn nguồn thông tin cá nhân thì thực hiện chức năng khẳng
định hay đánh giá.
Đánh giá các phương án
Người tiêu dùng xử lý thông tin về các nhãn hiệu cạnh tranh rồi đưa ra phán
quyết cuối cùng về giá trị như thế nào? Hoá ra là không có quá trình đánh giá đơn
giản và duy nhất mà tất cả mọi người tiêu dùng đều sử dụng hay thậm chí một
người tiêu dùng sử dụng cho tất cả các tình huống mua sắm. Có một số quá trình
đánh giá quyết định.
Người tiêu dùng khác nhau về cách họ nhìn nhận những tính chất nào của sản
phẩm là quan trọng hay nổi nhất. Họ sẽ chú ý nhiều nhất những tính chất sẽ đem lại
cho họ những ích lợi cần tìm kiếm. Đối với một sản phẩm thường thị trường sẽ đem
lại cho họ những ích lợi cần tìm kiếm. Đối với một sản phẩm thường thị trường có
12
thể được phân khúc theo những tính chất được xem là quan trọng nhất đối với nhóm
người tiêu dùng khác nhau.
Những tính chất nổi bật có thể không phải là những tính chất quan trọng nhất.
Một số tính chất có thể nổi bật lên là vì người tiêu dùng vừa mới xem một quảng
cáo có nhắc tới chúng. Hơn nữa những tính chất không nổi bật có thể bao gồm cả
những tính chất mà người tiêu dùng đã quên mất, nhưng khi được nhắc đến thì lại
công nhận là quan trọng.
Người tiêu dùng có khuynh hướng xây dựng cho mình một tập hợp những
niềm tin vào các nhãn hiệu, khi mỗi nhãn hiệu được đánh giá theo từng tính chất.
Những niềm tin vào nhãn hiệu tạo nên hình ảnh về nhãn hiệu. Niềm tin vào nhãn
hiệu của người tiêu dùng sẽ thay đổi theo kinh nghiệm của họ và tác động của nhận
thức có chọn lọc, bóp méo có chọn lọc và ghi nhớ có chọn lọc.
Quyết định mua hàng
Ở giai đoạn đánh giá, người tiêu dùng đã hình thành sở thích đối với những
nhãn hiệu trong tập lựa chọn. Người tiêu dùng cũng có thể hình thành ý định mua
nhãn hiệu ưa thích nhất. Tuy nhiên còn hai yếu tố nữa có thể xen vào giữa ý định
mua và quyết định mua hàng là thái độ của những người khác và những yếu tố tình
hướng bất ngờ. Yếu tố thứ nhất là thái độ của những người khác làm suy yếu
phương ấn ưu tiên của một người nào đó phụ thuộc vào hai điều: mức độ mãnh liệt
ở thái độ phản đối của người khác đối với phương án ưu tiên của người tiêu dùng và
động cơ của người tiêu dùng làm theo mong muốn của người khác. Thái độ phản
đối của người khác càng mạnh và người khác càng gần gũi với người tiêu dùng thì
càng có nhiều khả năng người tiêu dùng điều chỉnh ý định mua hàng của mình. Ý
định mua hàng cũng chịu ảnh hưởng của những tình huống bất ngờ. Khi người tiêu
dùng sắp sửa hành động thì những yếu tố tình huống bất ngờ có thể xuất hiện đột
ngột và làm thay đổi ý định mua hàng.
Hành vi hậu mãi
Sau khi mua sản phẩm người tiêu dùng sẽ cảm thấy hài lòng hoặc không hài
lòng ở một mức độ nào đó. Người tiêu dùng cũng sẽ có những hành động sau khi
mua và những cách sử dụng sản phẩm đáng để cho người làm Marketing quan tâm.
13
Sự hài lòng khi mua. Sau khi mua một sản phẩm người tiêu dùng có thể phát hiện ra
một khuyết tật. Có những người mua không muốn có sản phẩm khuyết tật, có
những người có thái độ bàng quan với khuyết tật đó và cũng có những người có thể
cho rằng khuyết tật đó lại tôn thêm giá trị của sản phẩm. Có những khuyết tật có thể
gây nguy hiểm cho người tiêu dùng.
Người tiêu dùng hình thành những kỳ vọng của mình trên cơ sở những thông
tin nhận được từ người bán, bạn bè và những nguồn khác. Nếu người bán quá
phóng đại những ích lợi, thì người tiêu dùng sẽ cảm thấy những kỳ vọng của mình
không được thực hiện và điều đó sẽ dẫn đến sự không hài lòng.
Người khách hàng hài lòng cũng sẽ có xu hướng chia sẻ những nhận xét tốt về
nhãn hiệu đó với những người khác. Người tiêu dùng không hài lòng thì phản ứng
khác nhau. Họ có thể cố gắng làm giảm bớt mức độ không ưng ý bằng cách vứt bỏ
hay đem trả lại sản phẩm đó hay họ có thể cố gắng tìm kiếm những thông tin xác
nhận giá trị cao của nó.
Việc hiểu được những nhu cầu và quá trình mua sắm của người tiêu dùng là
hết sức quan trọng, để có thể hoạch định được những chiến lược Marketing có hiệu
quả.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng
Sơ đồ 1.3: Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi mua của người tiêu dùng
Văn hóa
Nền văn hóa
Nhánh văn
hóa
Tầng lớp xã
hội
Xã hội
Cá nhân
Các nhóm
tham khảo
Nghề nghiệp
Gia đình
Vai trò và địa
vị
Lối sống
Hoàn cảnh
kinh tế
Cá tính
Tâm lý
Động cơ
Nhận thức
Tri thức
Niềm tin và
thái độ
Nguồn: Marketing căn bản, Philip Kotler[1]
14
Người
mua
1.2.1. Những yếu tố thuộc về văn hóa
1.2.1.1. Nền văn hóa
Theo định nghĩa của Tổng thư ký UNESCO Federico Mayor: Văn hóa là tổng
thể sống động các hoạt động sáng tạo (của cá nhân và cộng đồng) trong quá khứ và
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá
trị truyền thống và thị hiếu… những yếu tố xác định những đặc tính riêng của mỗi
dân tộc.
Văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, có một ảnh hưởng rất sâu
rộng đến hành vi người tiêu dùng. Vốn kiến thức và sự hiểu biết, các giá trị, chuẩn
mực, lối sống, nhân cách, thói quen, thái độ, và tất cả các đặc tính tinh thần khác
của con người đều có nguồn cội từ văn hóa. Dù một người có thể sống ở nơi nào
trên trái đất đi chăng nữa, thì những nếp nghĩ, những thói quen, những cách đối
nhân xử thế và suy rộng ra là toàn bộ hành vi của anh ta vẫn gắn liền một cách máu
thịt với nền văn hóa nguyên bản của dân tộc anh ta, bất kể anh ta có ý thức hay
không có ý thức về điều đó. Chính vì vậy văn hóa là nguyên nhân đầu tiên, cơ bản
quyết định nhu cầu và hành vi của con người. Theo quan niệm văn hóa phương Tây
và văn hóa hiện đại, thông thường một con người khi lớn lên sẽ gặp phải những
quan niệm giá trị như: làm việc và thành công, tiện nghi vật chất, chủ nghĩa cá
nhân, tự do, tiện nghi bên ngoài, lòng nhân từ, vẻ trẻ trung.
Đặc biệt đối với người tiêu dùng Việt Nam nói chung, những giá trị văn hóa
Việt – giá trị mang tính dân tộc luôn tồn tại trong tiềm thức. Hiện nay do nền kinh
tế hội nhập, sự giao thoa văn hóa giữa các nước ngày càng rõ rệt dẫn đến một bộ
phận người tiêu dùng chạy theo các sản phẩm may mặc theo nền văn hóa của các
nước như (Châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản …) mà bỏ quên các giá trị truyền thống.
Tuy nhiên, đại đa số người tiêu dùng đi theo phong cách hiện đại nhưng vẫn phù
hợp với văn hóa Việt. Họ có xu hướng lựa chọn những sản phẩm may mặc kín đáo,
phù hợp với thuần phong mỹ tục của người Việt.
15
1.2.1.2. Nhánh văn hóa
Bất kỳ một nền văn hóa nào cũng bao gồm những bộ phận cấu thành nhỏ hơn
hay nhánh văn hóa đem lại cho các thành viên của mình khả năng hòa đồng và giao
tiếp cụ thể hơn với những người giống mình.
Nhánh văn hóa được hiểu như là một nhóm khác biệt tồn tại trong một nền văn
hóa, xã hội rộng lớn và phức tạp hơn; những thành viên của nhánh văn hóa có hành
vi đặc trưng, các hành vi này bắt nguồn từ những niềm tin, giá trị, phong tục riêng,
khác với các thành viên khác của xã hội.
Có nhiều quan điểm khác nhau trong việc phân định các nhánh văn hóa trong một
nền văn hóa do hình thành nhiều tiêu chuẩn phân chia nhánh văn hóa khác nhau. Một
số tiêu thức phân chia nhánh văn hóa được các tác giả hiện nay thừa nhận là dựa trên
địa lý, chủng tộc – dân tộc, quốc tịch, tôn giáo; một số tiêu thức khác nhau đang còn có
nhiều ý kiến khác nhau đó là dựa trên cơ sở tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp.
Xét trên khía cạnh dân tộc, người Việt Nam có những niềm tin, những giá trị,
những phong tục tập quán được chia sẻ chung bởi tất cả các dân tộc anh em trong
đại các gia đình dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên trong 54 dân tộc anh em sinh sống
trên lãnh thổ Việt Nam, mỗi dân tộc lại có những đặc trưng, giá trị, truyền thống,
chuẩn mực riêng; chúng ta gọi đây là các nhánh văn hóa theo dân tộc của Việt Nam.
Trên góc độ địa lý có thể thấy Việt Nam chúng ta được chia thành 3 miền (Bắc
-Trung – Nam) và cư dân sống ở mỗi miền cũng có những đặc trưng riêng trong các
giá trị văn hóa khác.
Nhánh văn hóa thể hiện tính đồng nhất, đặc trưng trong hành vi của người tiêu
dùng nhỏ hơn nền văn hóa. Có nghĩa là luôn tồn tại sự khác biệt về sở thích, cách
đánh giá về giá trị, cách thức mua sắm, sử dụng sản phẩm ở những người thuộc
nhánh văn hóa khác nhau. Với cùng phong cách ăn mặc nhưng tùy điều kiện thời
tiết mà kiểu quần áo lại khác nhau. Ví dụ như miền Nam nắng nóng quanh năm,
người tiêu dùng thiên nhiều về cách mặc quần áo sao cho mát mẻ, thoải mái, trong
khi ở miền Bắc, ngoài mùa hè nắng khắc nghiệt không kém miền Nam, người tiêu
16
dùng còn phải chịu cái rét cắt da cắt thịt, nên họ sẽ chọn những bộ trang phục mang
lại cảm giác ấm áp cùng những phụ kiện đi kèm, trang phục cũng cầu kì hơn.
1.2.1.3 .Giai tầng xã hội
Hầu như trong mọi xã hội đều tồn tại những giai tầng xã hội khác nhau mà
chúng tôi xin định nghĩa như sau:
“Giai tầng xã hội là những nhóm tương đối ổn định trong khuôn khổ xã hội,
được sắp xếp theo thứ bậc đẳng cấp và được đặc trưng bởi những quan điểm chính
trị, lợi ích và hành vi đạo đức giống nhau ở các thành viên”.
Các giai tầng xã hội vốn có một số nét đặc trưng:
–
Những người cùng chung một giai tầng có khuynh hướng xử sự giống nhau
Con người chiếm địa vị cao hay thấp hơn trong xã hội tùy thuộc vào chỗ họ
–
thuộc giai tầng nào.
Giai tầng xã hội được xác định không phải căn cứ vào một sự biến đổi nào
đó mà là dựa trên cơ sở nghề nghiệp, thu nhập, tài sản, học vấn, định hướng
–
giá trị và những đặc trưng khác của những người thuộc giai tầng đó.
Các cá thể có thể chuyển sang giai tầng cao hơn hay bị tụt xuống một trong
những giai tầng thấp hơn.
Con người mua sản phẩm vì họ có những nhu cầu nhất định và họ kỳ vọng sản
phẩm có thể đem lại cho mình sự thỏa mãn với mức độ nào đó. Bên cạnh đó, họ còn
muốn biết xem những người xung quanh nghĩ gì về việc mình đã mua sắm và tiêu
dùng sản phẩm đó. Tức là những sản phẩm và dịch vụ sẽ được nhìn nhận và đánh
giá là vừa có ý nghĩa xã hội, vừa có ý nghĩa cá nhân bổ sung hoàn chỉnh cho nhau.
Ý tưởng này từ lâu đã được các nhà nghiên cứu marketing quan tâm. Thực tế đã chỉ
ra rằng có những cá nhân của một giai tầng xã hội nào đó thường cố ý biểu lộ
khuynh hướng qua việc tiêu dùng “tỏ ra là cấp tiến” nhằm làm cho những người
khác chú ý đến trong khi những nhóm người khác lại tiêu dùng “một cách kín đáo
và bảo thủ” hơn. Với nhóm người tiêu dùng sử dụng những sản phẩm và dịch vụ để
được mọi người chú ý, kết quả nghiên cứu cho thấy họ mua cả những thứ mà thực
ra không cần thiết, thậm chí không có nhu cầu, chỉ cốt để người khác nhìn thấy điều
mà họ đã làm. Những thứ mà họ mua trở thành biểu tượng để nói với những người
khác rằng họ là ai và họ thuộc về giai tầng nào.
17
Nhu cầu về sự uy tín và địa vị muốn được ngưỡng mộ, được ca tụng, được
ghen tị và được người khác thừa nhận là phổ biến với con người. Hoạt động
marketing không bỏ sót những nhóm người đang tìm kiếm một vài thứ sản phẩm
khiến cho họ khao khát thậm chí bức bối vì thua kém những người ở nhóm khác
thuộc giai tầng khác cao hơn. Chìa khóa cho biểu tượng của sự thể hiện và những
khát vọng đó, được các nhà sản xuất biến thành những nhãn hiệu sản phẩm khác
nhau xác định cho họ vị trí cao hơn so với người khác.
Như nghiên cứu ở trên, sự hình thành đẳng cấp không chỉ phụ thuộc vào yếu tố
tiền bạc mà là còn là sự kết hợp của trình độ văn hóa, truyền thống gia đình, nghề
nghiệp,… Người tiêu dùng có cùng giai tầng xã hội thường có xu hướng xử sự giống
nhau như cùng sở thích về thương hiệu, sản phẩm, địa điểm mua hàng hay phương
thức dịch vụ. Một số người tiêu dùng thường thích những sản phẩm có thương hiệu,
được mua sắm ở những trung tâm thương mại lớn hơn là mua hàng chợ ngay cả đối
với sản phẩm may mặc sử dụng hàng ngày. Nắm bắt được điều đó, nhiều hãng thời
trang tung ra những dòng sản phẩm phù hợp và hướng tới giai tầng này.
1.2.2. Những yếu tố mang tính chất xã hội
Hành vi của người tiêu dùng cũng được quy định bởi những yếu tố mang tính chất
xã hội như những nhóm, gia đình, vai trò xã hội và các quy chế xã hội chuẩn mực.
1.2.2.1. Các nhóm tham khảo
Rất nhiều nhóm chuẩn mực có ảnh hưởng đặc biệt mạnh mẽ đối với hành vi
của con người.
“Các nhóm tiêu biểu là những nhóm có ảnh hưởng trực tiếp (tức là khi tiếp
xúc trực tiếp) hay gián tiếp đến thái độ hay hành vi của con người”.
Cụ thể rằng, nhóm tham khảo là những nhóm mà một cá nhân xem xét khi
hình thành thái độ và quan điểm của người đó. Nhóm này bao gồm:
– Nhóm thân thuộc: Là những nhóm mà cá nhân nằm trong đó và có tác động
qua lại lẫn nhau như ông bà, cha mẹ, anh chị, bạn bè, đồng nghiệp, công đoàn, đoàn
thể và các tổ chức xã hội khác. Đối với người tiêu dùng nói chung, đây chính là
nhóm những người có tác động mạnh mẽ nhất đến quyết định mua sắm thời trang vì
18
bố mẹ, bạn bè, … luôn là người có sự gắn kết chặt chẽ với họ, chi phối hành vi tiêu
dùng. Khi họ đang trong quá trình ra quyết định mua sắm, họ thích mua một chiếc
áo nhưng người thân, bạn bè của bạn cho rằng nó không phù hợp với họ hoặc không
tốt thì có thể điều đó sẽ làm ảnh hưởng tới quyết định mua sản phẩm của họ.
– Nhóm ngưỡng mộ: Là nhóm mà cá nhân có mong muốn được gia nhập.
Ước muốn đó tạo động cơ thúc đẩy cá nhân có những ứng xử kể cả trong việc sử
dụng hàng hóa cũng giống như các thần tượng của họ. Đơn giản như một người tiêu
dùng là “fan” của một ca sĩ, diễn viên hay một cầu thủ bóng đá, họ có xu hướng
được giống như thần tượng ngay cả từ hình thức bên ngoài. Điều đó lí giải tại sao
có nhiều người lại thích mua sản phẩm may mặc giống một ca sĩ, diễn viên mà
chúng ta thấy trên truyền hình. Hay trên quần, áo họ mặc lại in hình ảnh một người
nổi tiếng, đó cũng là cách biểu thị sự ngưỡng mộ với thần tượng của mình.
– Nhóm bất ưng: Là nhóm mà hành vi, ứng xử của họ không được sự chấp
nhận của cá nhân. Cá nhân thường có các hành động tẩy chay những hoạt động, hành
vi của các thành viên nhóm bất ưng này, kể cả hoạt động và hành vi mua sắm quần áo.
Những nhóm có ảnh hưởng trực tiếp đến con người được gọi là những nhóm thành
viên. Đó là những nhóm mà các cá nhân nằm trong đó và tác động qua lại. Trong số
các nhóm có những nhóm là nhóm sơ cấp, như bạn bè, gia đình, hàng xóm, láng giềng
và đồng nghiệp, mà người đó có quan hệ giao tiếp thường xuyên. Các nhóm sơ cấp
thường là có tính chất chính thức và ít đòi hỏi quan hệ giao tiếp thường xuyên hơn.
Ngoài ra con người còn thuộc về một số các tập thể thứ cấp, thường mang tính chất
hình thức hơn và sự tác động qua lại với chúng không mang tính chất thường xuyên.
Đó là các loại tổ chức xã hội giáo hội, nghiệp đoàn và công đoàn.
1.2.2.2. Gia đình
Các thành viên trong gia đình có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi của
người mua. Người dạy bảo trong gia đình là bố mẹ. Con người được cha mẹ dạy
bảo về tôn giáo, chính trị, kinh tế, danh dự, lòng tự trọng, tình yêu. Ngay cả khi
người mua không còn có tác động qua lại chặt chẽ với cha mẹ mình thì ảnh hưởng
của họ đối với hành vi không ý thức được của anh ta có thể vẫn rất đáng kể. Ở
19
Xem thêm: Standard Chartered | Vay Tín Chấp 1,3 Tỷ – Với Lãi 0.6% Tháng
Xem thêm: Vay Tiêu Dùng
Từ khóa » Nhóm Bất ưng Là Gì
-
Bài 1: Thị Trường Người Tiêu Dùng Và Hành Vi Mua Hàng ... - HOC247
-
Các Yếu Tố ảnh Hưởng đến Hành Vi Của Người Tiêu Dùng. Quy …
-
Các Yếu Tố ảnh Hưởng đến Hành Vi Của Người Tiêu Dùng: - UEF
-
Hành Vi Người Tiêu Dùng Là Gì? Các Mô Hình Và Yếu Tố ảnh Hưởng
-
Các Yếu Tố ảnh Hưởng đến Hành Vi Của Người Tiêu Dùng
-
Những Yếu Tố Mang Tính Chất Xã Hội. - 123doc
-
Bất ưng, Bất ứng Từ Hán Việt Nghĩa Là Gì? - Từ điển Số
-
Mô Hình Các Yếu Tố ảnh Hưởng đến Hành Vi Mua Của Người Tiêu Dùng
-
Ví Dụ Về Hành Vi Mua Của Người Tiêu Dùng - Vinahi