Con đường Tơ Lụa

Trang tiếng Việt

Trang Nhà Quảng Đức

Trang tiếng Anh

Truyện Phật Giáo

NHÀ XUẤT BẢN TRẺ

CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

BÚT KÝ

Xa Mộ Kỳ

Người dịch: NGUYỄN PHỐ

----o0o---

20. HAI TUYẾN ĐUỜNG VUỢT NÚI THÔNG LĨNH

Trên những bích họa ở Đôn Hoàng và ở Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ đều có những bích họa vẽ khách buôn gặp kẻ cướp. Vở nhạc kịch Ti lộ hoa vư (Mưa hoa trên đường tơ lụa) (sáng tác và diễn xuất của đoàn ca kịch tỉnh Cam Túc) nổi tiếng trong và ngoài nước đã lấy tình tiết về những lữ khách gặp cường đạo cướp bóc trên con đường tơ lụa, triển khai những mẩu chuyện bi hoan ly hợp giữa người Trung Quốc và người Ba Tư. Trên con đường tơ lụa dài dằng dặc ấy, việc gặp đạo tặc uy hiếp, cướp bóc khách thương đông tây qua lại là điều không thể tránh khỏi. Một điều khá thú vị là các nhà khảo cổ học đã phát hiện tại vừng núi hẻo lánh huyện Ô Kháp một đầu mối cướp đường hơn 1000 năm về trước. Mãi đến ngày nay vẫn chưa có ai học tập cách điều tra tội phạm của Phúc nhĩ Ma tư, mà địa điểm xảy ra vụ án còn để lại một số tiền và vàng Ba Tư cổ đại, điều này càng chứng minh một cách hùng hồn rằng đường núi phía tây huyện Ô Kháp là con đường giao thông ở bắc bộ Trung Quốc dọc theo cao nguyên Pamia đi về hướng tây của con đường tơ lụa. Thời cổ đại, từ nước Sơ Lặc (nay là Ca Thập) đi Đại Oản đều phải qua con đường ấy.

Tôi cứ việc theo lời chỉ dẫn của Lý Ngẫu Xuân đi từ huyện Ba Sở qua huyện Ô Kháp để tìm hiểu đoạn đường cổ đại này. Còn ông bận tham dự công tác nghiên cứu số tiền và vàng Ba Tư vừa khai quật được.

Rời huyện Ba Sở, xe phóng nhanh trên con đường bằng phẳng về hướng tây, đi chừng 200 cây số thì đến A Đồ Thập. Vùng nước non sung túc này rất trù phú so với vùng A Khắc Tô, dọc đường nhiều lần phải vượt sông, qua cầu, đôi khi còn thấy những hồ nước sóng bạc nhấp nhô, ngươi địa phương gọi là “biển”. Như thế là chúng tôi đã đặt chân lên vùng nam Tân Cương trù phú. Từ A Đồ Thập rẽ về hướng tây đi tiếp chừng 100 cây số thì đến huyện Ô Kháp, nơi xa nhất của tây bộ Trung Quốc.

Lộ tuyến chúng tôi đang đi song song với sông Khắc Tư Lặc (tức sông Hồng Hà hoặc sông Ca Thập Ca Nhĩ hoặc sông Xích Hà). Thời cổ đại, con sông này chảy qua Thoát khố tư tát lai của huyện Ba Sở rồi nhập vào sông Tarim, còn ngày nay, sau khi chảy đến Ba Sở thì đổi dòng.

Chúng tôi nghỉ lại một đêm ở huyện Ô Kháp tĩnh mịch, những người bạn đồng hành đều cảm thấy nhức đầu, ngủ không ngon giấc, có lẽ do địa thế khá cao, cao hơn mực nước biển khoảng chừng 2500 mét.

Sáng sớm, lên xe rời huyện lỵ đi về phía tây, xe đi trên đường bằng phẳng chừng 50 cây số thì vào vùng núi non, xa xa về phía chân trời, những ngọn núi tuyết trắng phau hiện ra. Đó chính là vùng núi phía bắc của cao nguyên Pamia.

Pamia là cao nguyên được hình thành do ba dãy núi lớn giao hội đó là dãy Côn Luân Ha la (Ha ra Korum), dãy Hưng đô Khố lập và dãy Thiên Sơn. Cổ nhân gọi là Thông Lĩnh. Các nhà chú thích ngày xưa chỉ xem cho mà đoán nghĩa, cho nên ngộ nhận rằng núi Thông Lĩnh hẳn là xanh tốt sum suê, nhưng thật ra cao nguyên Pamia là vùng đất lạnh, núi băng đất tuyết cây cỏ khó sống.

Chúng tôi đi qua một mỏ than, người hướng đạo nói là đã vào vùng “Bát thập đạo pha” (tám mươi đường đèo). Suốt đường đi phải leo đèo, leo dốc, tổng cộng tám mươi dốc đèo. Chiếc Jeep phải gian khổ quanh co trên đường đất núi, cố mà leo lên. Tôi cũng không nhớ rõ mình đã qua được bao nhiêu đèo chỉ cảm thấy cái lạnh ghê người, đang giữa tháng chín mà phải mặc áo bông.

Cách huyện lỵ chừng 90 cây số là lòng chảo Ô lỗ Khắc kháp đề, tứ bề núi non vây bọc, một con sông đầy phù sa màu đỏ ào ào chảy qua lòng chảo. Đó chính là sông Khắc Tư Lặc (tức sông Xích Hà). Lúc đó có mấy con lạc đà chở đầy hàng hóa lội qua sông. Một người đội trên đầu chiếc mũ da cao nghều đang dắt lạc đà đi trước dẫn đường. Tôi chăm chú nhìn hồi lâu. Hình ảnh trước mắt họ chẳng phải là những bích họa ở Đôn Hoàng, ở Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ đang tái hiện cảnh khách thương thời cổ đại đó sao?

TIỂN BẠC BA TƯ ĐÀO ĐƯỢC NHIỀU NHẤT Ở TRUNG QUỐC

Phần lớn tiền bằng bạc và vàng thỏi cổ Ba Tư đều đào được ở Ô lỗ Khắc kháp đề. Lý Ngẫu Xuân đã cho tôi biết tình hình sự việc ấy.

Tháng năm năm 1959, khi Lý Ngẫu Xuân đang làm công tác tổng kiểm tra khảo cổ ở Ca Thập thì được người ta cho biết công nhân làm đường huyện Ô Kháp đã tìm thấy những đồng tiền cổ ở Ô lỗ Khắc kháp đề. Ông liền đến hiện trường mới hay, khi công nhân đào đường bên vách núi thì thấy từ hốc núi tiền và vàng hiện ra, xem xét kỹ lưỡng mới nhận ra số tiền và vàng thỏi ấy từ trong một khe đá đổ ra.

Tại đây, Lý Ngẫu Xuân đã đào tìm và khảo sát. Khi đào lên, vàng và tiền lộn chung với nhau, rất nhiều đồng tiền bạc xâu thành chuỗi. Đồ đựng có thể là một túi xách hay một khăn gói gì đó, nhưng đồ đựng ấy đã mục nát không còn dấu vết gì cả. Nhặt riêng ra từng thứ thì được mười ba thỏi vàng và 947 đồng tiền cổ Ba Tư. Tổng trọng lượng số tiền ấy là 3820 gam, trong đó có hai đồng thuộc đời thứ nhất vua Ba Tư Kuslao, thế kỷ thứ VI; 567 đồng thuộc đời thứ hai vua Kuslao, cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ VII, 281 đồng thuộc triều đại Omia, những năm sáu mươi của thế kỷ thứ VIII.

Đây là lần đầu tiên dào được một số lượng tiền bằng bạc nhiều nhất thuộc vương triều Tashan của Ba Tư. (Thứ đến là ở Tây Ninh, tỉnh Thanh Hải 67 đồng và ở Tân Cương 63 đồng). Sự kiện này đã khiến nhiều nhà khảo cổ học rất chú trọng.

Đất lẫn lộn trong những mô đá, những khe đá, những dốc đá và ngay cả một vùng vách đá và mặt đất kéo dày mấy cây số, tất cả đều là màu đất đỏ đậm, chung quanh không hề có một di chỉ kiến trúc cổ nào hay bất cứ một di tích văn hóa nào. Rõ ràng đây là một vùng hẻo lánh rất dễ xảy ra nạn chọn đường cướp của của bọn lục lâm thảo khấu. Nghiên cứu địa điểm và tình hình chung quanh nơi khai quật, Lý Ngẫu Xuân suy đoán số tiền bạc và số vàng thỏi ấy chắc chắn không phải là đồ chôn theo trong các ngôi cổ mộ, cũng không phải là đồ cất giấu của dân cư mà rất có thể là thương lữ gặp tình hình bất trắc, khẩn cấp lúc qua đây vội vàng chôn giấu bên đường. Niên đại chôn giấu khoảng cuối thế kỷ thứ VII đến đầu thế kỷ thứ VIII, tức vào thời Thịnh Đường, cũng chính là thời hưng thịnh nhất trong việc giao lưu kinh tế văn hóa giữa

Trung Quốc và phương Tây.

Lý Ngẫu Xuân nói:

- Chúng ta thử tính, số lớn tiền và vàng ấy là tài sản của những thương nhân kinh doanh buôn bán giữa Trung Quốc và Ba Tư. Nhưng tại sao lại phải chôn giấu bên đường ở một nơi hoang vắng như thế? Thật không khó để suy đoán, thương nhân bất hạnh rất có thể giữa đường gặp cường đạo, trong khi vợi vàng chạy trốn đem số tiền và vàng mang theo ấy tạm chôn giấu đâu đấy, về sau có thể đã bị giết hại hoặc vì một nguyên nhân nào khác không có cơ hội để tìm lấy nên chúng đã nằm mãi cho đến ngày nay và chúng đã cho chúng ta chứng cứ xác đáng bằng hiện vật để hiểu thêm phần nào lịch sử thông thương giữa Trung Quốc và phương Tây.

Theo những vị bô lão của bản địa nói, thời cận đại từ huyện Ô Kháp đến Ô lỗ Khắc kháp đề, cho đến phía Tây mẫu Ha la, nơi phát nguyên của con sông Khắc Tư Lặc có đường đi đến liên bang Nga.

Chúng tôi rời Ô lỗ Khắc kháp đề để tiếp tục đi lên phía trước, giữa đường gặp một thanh niên cưỡi ngựa đi tới, người có da ngăm ngăm đen trông rất oai vệ, người hướng dẫn giới thiệu với chúng tôi anh là xã trưởng công an xã Cát Căn. Đứng trước mặt tôi là một người thuộc dân tộc Kirghiz. Từ sáng sớm đến trưa, đi hơn 100 cây số, thì anh ấy là người thứ hai chúng tôi gặp giữa đường, xem thế có thể thấy vùng đất này dân số quá thưa thớt, toàn huyện chỉ có hơn hai vạn người.

Lại tiếp tục men theo đường núi để đến công an xã Cát Căn. Khi thấy những xã viên Kirghiz tôi mới có cảm giác mình đang trở về với xã hội loài người. Có một cô gái đang chăn gia súc trên thảo nguyên bên bờ sông Hồng (tức sông Khắc Tư Lặc Xích Hà). Cô mặc áo đen và quần màu đỏ, đầu đội khăn rằn, màu sắc rất tươi. Nhiều phụ nữ đang cày cấy trên đồng ruộng. Trên bãi cỏ trước thôn, một cô gái đang dệt vải bàng chiếc khung dệt thô sơ của mình. Hoa văn tươi đẹp của tấm vải bày ra trên thảm cỏ màu lục đậm trông rất thích mắt.

Công xã Cát Căn là một công xã ở cực tây của đất nước Trung Quốc, chỉ khoảng vài ngàn xã viên người Kirghiz, đa số sống bằng nghề chăn nuôi. Thế kỷ thứ III trước CN, người Kirgiz chăn thả súc vật tại lưu vực sông Diệp Ni Tái, khoảng những năm bốn mươi của thế kỷ thứ IX đã từng dựng nước xưng vương, cương vực gồm đông từ hồ Bối Gai Nhĩ, tây đến lưu vực sông Đáp La Tư ở Trung Á. Đầu thế kỷ thứ XVI, một số người Kirgiz thiên di đến định cư ở cao nguyên Pamia và khu vực Thiên Sơn.

DỪNG CHÂN TRÊN ĐƯỜNG BIÊN GIỚI XA NHẤT Ở TÂY BỘ TRUNG QUỐC

Tiếp tục men theo sông Khắc Tư Lặc tiến về phía Tây, quá 74 độ kinh đông, chúng tôi tìm thấy đồn biên phòng Tây mẫu Ha la trong một khe núi. Chúng tôi được các chiến sĩ biên phòng nơi biên giới xa nhất của tồ quốc đón tiếp nồng nhiệt. Tây mẫu Ha la cùng với vùng biên cảnh bên sông Hoắc nhĩ quả tư ở địa khu Y Lê, nơi tôi đã từng đi qua, đều là biên giới phía tây của tổ quốc. Sau một chuyến đi dài, được ngồi thư thả trong nhà ăn của đồn biên phòng ăn một bát mì nóng, bao nhiêu hơi lạnh và lao nhọc đều tiêu tan hết. Các chiến sĩ trẻ ở đây hầu như rất hợp với khí hậu cao nguyên, nhìn họ chơi bóng rổ trên sân ai nấy đều khỏe mạnh, chạy nhảy lui tới nhanh nhẹn vững vàng. Được các chiến sĩ hướng dẫn, chúng tôi leo lên một ngọn núi cao hơn 3000 mét, nhìn bao quát thấy núi non trùng điệp bên kia nước Nga. Mây mù bàng bạc, bàng tuyết trắng xóa, phải chăng đó chính là một bộ phận của núi Thông Linh mà sử sách Trung Quốc thường hay nói đến? Trong lịch sử biết bao nhiêu người có chí khí đi tiên phong, không ngại gian khổ vượt núi Thông Lĩnh, đã đem lại những cống hiến bất hủ vì sự nghiệp giao lưu văn hóa Đông Tây.

Nghĩ đến điều đó, cả đoàn chúng tôi vô cảnh hưng phấn: nơi chứng tôi đang đứng hiện nay rất có thể là thủ phủ Diễn Tôn Cốc của nước Quyên Độc đời Hán. Hán thư viết: “Nước Quyên Độc đô ở Diễn Tôn Cốc cách Trường An 9860 dặm, có 380 hộ, nhân khẩu 1100 người ... Phía tây là núi Thông Lĩnh, tức là nước Hưu Tuần, còn tây bắc cách nước Đại Oản 1030 dặm ...”

Lần thứ nhất, Trương Khiên đi sứ Tây Vực phải đi từ chân núi nam Thiên Sơn lên phía tây, rồi vượt núi Thông Lĩnh để đến nước Đại Oản, rất có thể đã đi theo lộ tuyến từ Ô lỗ Khắc kháp đề đến Tây mẫu Ha la. Sau khi ông về nước đã báo cáo rõ tình hình Tây Vực lên triều đình. Sử ký, Đại Oản liệt truyện chắc hẳn Tư Mã Thiên đã dùng tài liệu báo cáo của Trương Khiên.

Căn cứ những báo cáo của Trương Khiên, thì nước Đại Oản là một nước lớn ở Tây Vực, thành ấp trực thuộc có hơn bảy mươi cái, nhân khẩu 30 vạn, lấy nông ngiệp làm chính, cộng thêm nghề chăn nuôi; sản phẩm chính là lúa mạch và rượu nho, một nhà giàu có thể cất giữ hàng vạn thạch rượu nho, trải qua hàng chục năm không ai đánh bại. Trương Khiên còn cho biết Đại Oản sản xuất ngựa quý, mồ hôi ngựa xuất ra đỏ như máu nên gọi là hãn huyết mã, truyền thuyết dân gian cho là con của ngựa trời. Người đời sau giải thích ý nghĩa của “thiên mã” như thế này: “Nước Đại Oản có núi cao, ngựa sống trên đó rất khó bắt, vì thường có ngựa ngũ sắc từ trời xuống giao phối với ngựa ở đấy mà sinh ra ngựa con (gọi là câu) mồ hôi đỏ như máu (hãn huyết câu) nên gọi là con của ngựa trời (thiên mã tử)”. Về mặt di truyền học ngày nay mà nói, đoạn truyền thuyết hoang đường vô sử vô sách kể trên phần nào phản ánh người Đại Oản đương thời đã biết cách tuyển chọn ngựa giống trong việc giao phối sinh dục.

Vua Hán Vũ Đế rất thích giống ngựa hãn huyết mã, bèn phái sứ giả đến Đại Oản dùng vàng ròng để đổi ngựa quý. Bấy giờ Đại Oản và Hung Nô đang bất hòa, nên họ không những không giao ngựa mà còn giết hại sứ giả nhà Hán. Hán Vũ Đế tức giận liền sai Nhị Sư tướng quân Lý Quảng Lợi đem quân chinh phạt Đại Oản, thắng trận, địa vị của nhà Tây Hán được củng cố ở Tây Vực. Lần chiến thắng này không những có được hãn huyết mã mà còn đem về Trường An giống nho và giống cỏ linh lăng của bản quốc nữa.

TRẠM ĐẦU TIÊN NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO TRUYỀN VÀO TRUNG QUỐC

Từ Tây mẫu Ha la trở về huyện Ô Kháp nghỉ lại một đêm rồi đi Ca Thập và trước tiên là đi gặp Lý Ngẫu Xuân như đã ước hẹn. Tôi thích thú thuật lại việc tìm ra nơi mà ông đã tìm thấy tiền bạc và vàng thỏi cổ Ba Tư trước đó. Ông vui vẻ nói:

- Trên đường thông vãng với núi Thông Lĩnh có ba hang đá nằm trên một hàng ngang, tục gọi là “Tam tiên động” (ba động tiên), trong đó có những bích họa về Phật giáo. Chúng để lại dấu tích của Phật giáo khi truyền vào Trung Quốc qua con đường tơ lụa.

- Tam tiên động ở đâu? - Tôi hỏi.

- Từ huyện Ô Kháp anh đi về hướng đông, tại chỗ rẽ phía nam đi Ca Thập một đoạn không xa thì đó là khu vực “Tam tiên động” - Ông nói - Vị trí chính xác là 75,55 độ kinh đông và 39,35 độ vĩ bắc.

- Như vậy có phải “Tam tiên động” là di chỉ Phật giáo truyền nhập vào phương Đông ở tây bộ xa nhất của nước ta phải không - Tôi hỏi.

- Vâng, cũng có thể cho là như vậy! Anh xem hiện nay chùa hang động ở tây bộ xa nhất của nước ta là Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ nằm giữa khoảng 82 đến 83 độ kinh đông. Tam tiên động tuy chỉ có ba hang động không thể sánh với các loại chùa hang động khác, nhưng vị trí của nó lại ở phía tây Thiên Phật động của Khắc Tư Nhĩ, kinh độ chỉ sai biệt sáu bảy độ và rất gần núi Thông Lĩnh, cho nên đối với việc nghiên cứu nguồn gốc nghệ thuật Phật giáo truyền nhập vào phương Đông, nó có một giá trị đặc biệt.

Lời giảng giải của ông khiến tôi đi thăm “Tam tiên động” với một niềm hứng thú sâu đậm, và chứng tôi hẹn ngày xuất phát.

Từ Ca Thập, chúng tôi đi xe trên con đường vừa mới trùng tu để ra đường nhựa đi Ô Kháp. Xe chạy chừng hơn 10 cây số thì qua một chiếc cầu bằng xi-măng, rồi tách đường cái xe chạy giữa lòng sông rộng, nước cạn, chảy yếu, đi ngược về hướng tây. Xe chạy trên cát sỏi của lòng sông chừng ba cây số thì dừng lại.

Trên lưng chừng núi ở bờ nam của dòng sông sừng sững vách núi dựng đứng bày hàng ngang ba hang động, đó chính là “Tam tiên động”. Cửa động hình chữ nhật, cách mặt đất chừng 30 mét, nếu không có thang đủ cao không thể leo lên được Người ta nói rằng gần đây có những người Nhật nghe danh đến thăm viếng đứng nhìn động mà than, họ chỉ còn cách đứng từ xa quan sát qua ống nhòm.

Tôi may mắn được đi với Lý Ngẫu Xuân, có điều kiện thuận lợi. Trước hết, ông đề nghị xin đội cứu hỏa thành phố Ca Thập lái đi theo một chiếc xe cứu hỏa, từ mặt đất bắc thang ngay đúng cửa động ở giữa lên xuống hồ chiều. Trước tiên mấy anh lính chữa cháy leo thang vào cửa động trước rồi từ cửa động thòng dây bảo hiểm xuống, bấy giờ mọi người mới lần lượt vin dây bảo hiểm đi lên.

“Tam tiên động” vốn không liền nhau, không biết người ta đục mở vào thời nào. Ba động đều có trước sau hai gian, gian trước dài rộng 4 mét, gian sau khoảng bằng nửa gian trước, phần nóc là uốn kiểu mái vòm.

Dưới triều nhà Thanh, hang giữa đã bị quét vôi, bích họa còn lại rất ít. Hang ở phía tây mặt đá lộ ra bên ngoài, trên vách dấu đục ngang dọc chứng tỏ chưa làm xong, bị bỏ nửa chừng. Hang ở phía đông bích họa được bảo quản tương đối đầy đủ.

Lý Ngẫu Xuân thấy trên tường của hang động này toàn là tượng Phật, còn giữ được đến hơn bảy mươi bức, điều này làm ông phấn khích. Ông nói:

Trên các bích họa của động Phật không thấy có sự tích được chép trong kinh Phật, cũng không có tượng người cúng dường.

Có một tượng Phật ngồi, mình khoác áo cà sa có hoa văn hình ô vuông, dùng màu xanh cánh trả và màu đỏ nhạt vẽ thành, sau lưng vẽ những ngọn lá bồ đề. Ông đưa ra nhận xét:

- Cách phục sức này chỉ có trên những tượng bích họa của thời kỳ đầu.

Gian sau của một hang động có vẽ một bức tượng Phật đứng là tương đối hoàn chỉnh nhất. Phần thân trên để trần, tay phải nâng một vật đưa ngang thắt lưng, tay trái duỗi tự nhiên. Cách phục sức của tượng Phật này rất ít thấy: phần thân dưới mặc một loại quần gồm ba màu lục, xanh, hồng kết thành sọc ngang, có vẻ hơi giống loại váy màu của người vùng Đông Nam Á hay mặc.

Những người cùng đi, trừ Lý Ngẫu Xuân và nhà khảo cổ học, còn có các họa sĩ, các nhà nhiếp ảnh. Mọi người mượn cơ hội hiếm hoi này tranh nhau đo đạc, mô phỏng và chớp hình, bận rộn tíu tít trong hơn hai tiếng đồng hồ mới bịn rịn xuống thang y như lần đi lên. Xong xuôi, mọi người đến bên cạnh bờ sông vây quanh Lý Ngẫu Xuân vừa ăn dưa hấu vừa lắng nghe ông phát biểu cảm tưởng. Ông nói:

- Quý hóa quá? Thật là quý hóa. Thời kỳ đục mở hang động sớm hơn nhiều so với dự đoán ban đầu của chúng tôi.

Căn cứ cách thể hiện nội dung các bích họa và phong cách nghệ thuật mà phân tích, ông cho rằng thời gian đục mở “Tam tiên động” không sớm lắm so với Thiên Phật động ở Khắc Tư Nhĩ, chậm nhất là vào thế kỷ thứ IV CN. Do đó, ba hang động này có thể là di tích sớm nhất còn lưu lại sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc tại vùng tây bộ xa nhất này. Ông nói:

- Không nên gọi là “Tam tiên động” nữa vì giữa chúng và Đạo giáo không hề có quan hệ nào cả, có lẽ nên gọi là “Tam Phật động” (ba động Phật) thì đúng hơn.

TRUYỀN THUYẾT VỀ THÀNH LŨY CÔNG CHÚA

Trở về Ca Thập, tôi và Lý Ngẫu Xuân theo một lộ tuyến khác vượt qua núi Thông Lĩnh để tìm hiểu con đường tơ lụa. Từ Taxkorcan vượt Thông Lĩnh đi Kashmir. Sau khi từ Ấn Độ thỉnh kinh trở về, Huyền Trang cũng qua Kashmir rồi vượt núi đến Taxkorcan sau đó mới trở lại Ca Thập.

Vùng Taxkorcan nằm giữa cao nguyên Pamla và núi Côn Luân, thời nhà Hán gọi là nước Bồ Lê và nước Ỷ Nại thuộc quyền quản hạt của Tây Vực Đô hộ phủ. Đến đời nhà Đường đặt làm thủ tróc thông lĩnh, thuộc quyền quản hạt của An Tây Đô hộ phủ. Đó là cứ điểm quân sự quan trọng và là cửa khẩu trọng yếu ở núi Thông Lĩnh.

Thời Huyền Trang qua đây gọi là nước Yết Bàn Đà. Trong Đại Đường Tây Vực ký ngài có viết: “Nước rộng. thành lớn, thành nằm trên một núi đá cao, sau vách núi có nhiều sông, núi này tiếp núi kia, đất hẹp, cây cối thưa thớt, hoa quả ít oi ...” Rõ ràng đây là một nước nhỏ ở trên núi cao.

Theo ghi chép của Huyền Trang, quốc vương nước Yết Bàn Đà tự xưng là “Hán nhật thiên chủng”, bởi vì theo truyền thuyết thì thân mẫu tổ tiên của nhà vua vốn là người Hán, còn thân phụ là “mặt trời từ cõi trời bước xuống”, dáng mạo giống người Hán mà thân thể thì mặc quần áo người Hồ.

“Hán nhật thiên chủng” là một sự tích rất thú vị. Trước khi nước Yết Bàn Đà được kiến lập thì trên núi Thông Lĩnh chỉ là vùng hoang vu. Quốc vương xứ Ba Lợi Tư phái sứ giả đi rước công chúa của triều Hán về nước đi ngang qua vùng đất hoang vu này. Lúc ấy đang xảy ra chiến loạn, giao thông đông tây bị gián đoạn. Sứ giả bèn đưa công chúa đến an trí trên một ngọn núi vắng vẻ, núi cao vách hiểm, vệ sĩ ngày đêm canh gác nghiêm mật, tuyệt đối không được để mất công chúa. Trú lại ở đây một thời gian ba tháng, chiến tranh mới chấm dứt. Chính lúc chuẩn bị bắt đầu lên đường trở về nước thì công chúa có mang. Bọn sứ thần hết sức hoảng sợ. Công chúa chưa thành thân mà đã mang thai thế thì khi về nước trình bày thế nào với nhà vua đây? Thế là sứ giả bắt đầu kiểm tra, thăm dò trong tất cả mọi người, không tìm ra kẻ phạm pháp để trị tội không xong.

Đang khi mọi người hoảng loạn, một thị nữ của công chúa nói thầm với sứ giả:

- Không cần phải quở trách nhau làm gì, không phải người phạm tội đâu, mà là thần đấy. Hằng ngày vào giữa trưa có một người đàn ông từ trên trời cưỡi ngựa phi xuống và cùng với công chúa gặp nhau.

Bọn sứ thần nghe xong ai nấy đều kinh ngạc và không biết nên làm như thế nào. Sau nhiều lần bàn bạc, họ không dám trở về nước nữa, thế là ở lại trên ngọn núi cao, xây thành đưa công chúa lên nhiếp chính. Về sau, công chúa sinh ra một con trai, lớn lên lập làm quốc vương, người này có thể bay lượn giữa trời, chế ngự được mưa gió, các nước chung quanh không ai là không thần phục. Sau khi vua chết, người ta an táng nhà vua trong một thạch động nằm ở phía nam của thành hơn 100 dặm, thi thể nhà vua lâu ngày trở thành khô, không bị thối rữa, trông như đang ngủ. Người trong nước thường thay y phục cho nhà vua và luôn luôn cúng bái hương hoa. Con cháu ngày càng đông đúc, hiệu xưng là “Hán nhật thiên chủng” (người Hán giống trời).

Ngày nay, trong hẻm núi ở phía nam huyện tự trị Taxkorcan Tajik có một khu đất gọi là Kizikorcan. Tiếng Uygur có nghĩa là “thành lũy của công chúa”.

Tôi hỏi Lý Ngẫu Xuân, theo góc độ của nhà khảo cổ học, thành lũy này có ý nghĩa như thế nào? Ông cười, nói:

- Sự tích về truyền thuyết có phải là sự thật không? Có điều mấy năm gần đây những người làm công tác khảo cổ đến đây tìm thấy những đồ dùng bằng gỗ, họ đem giáo nghiệm thì thấy cái gọi là “thành lũy công chúa” chỉ là di chỉ được kiến trúc khoảng mấy trăm năm trở lại đây mà thôi.

CON ĐƯỜNG XƯA THÔNG VÃNG KASHMIR

Lịch sử của tuyến đường Ca-thập - Taxkorcan - Kashmir có nhiều nhà sư nổi tiếng, nhiều nhà du lịch và nhiều nhà thám hiểm đã từng đi qua. Và tôi cũng không bỏ lỡ cơ hội đi thăm một chuyến trên tuyến đường này. Nhưng thật không may, trước khi đến Ca Thập, nhà đương cục địa phương đưa ra quyết định: phàm du khách đến Taxkorcan phải qua bác sĩ kiểm tra sức khỏe và phải có giấy bác sĩ cho phép mới được đi lại. Nguyên nhân là trước đó xảy ra một chuyện: có chị cán bộ đi Taxkorcan tham dự hội nghị, dọc đường phải qua vùng cao nguyên cao trên 4000 mét phải bị chết vì đau tim đột ngột. Tôi vốn cao huyết áp, chắc sẽ không được bác sĩ cho phép, chỉ biết ngồi than thở không biết làm gì hơn!

Nhưng rồi tôi men theo tuyến đường ấy dọc theo sông Cái Tư mà đi, đi đến một nơi cách sông Cái Tư không xa là ngọn núi chính của cao nguyên Pamia, ngọn Kongur cao 7719 mét.

Từ Ca Thập đi theo hướng nam chừng 80 cây số trên vùng bình nguyên lục châu thì phải vào một vùng núi, sông Cái Tư vẫn cuồn cuộn chảy về hướng bắc. Men theo dòng phát nguyên của con sông to lớn ấy trên cao nguyên mà đi chừng 40 cây số nữa thì đến đồn kiểm tra biên phòng. Xuống xe ở đây, đi bộ qua chiếc cầu gỗ, dọc theo một con đường nhỏ quanh co khúc khuỷu, rồi leo lên một dốc cao khoảng 200 mét thì đến một vùng đất bằng nhỏ ở lưng chừng núi. Trên đồng bằng này có ruộng lúa và nhà cửa, xã viên người Kirghiz thấy có người lạ đến liền nghênh tiếp. Thanh niên, phụ nữ mặc quần đỏ, áo đen tay cụt, đeo khuyên tai và dây chuyền, trên dây chuyền có treo lủng lẳng những đồ trang sức khác bằng đồng hoặc bằng bạc trông rất lạ mắt.

Nói chuyện với một cán bộ hiểu tiếng Hán thì mới biết đấy là đại đội Cái Tư thuộc công xã Bố Luân Khẩu, có tất cả 467 người vừa canh tác vừa chăn nuôi. Có 130 mẫu đất ruộng trồng đại mạch và thanh khỏa (tức một loại lúa mạch trồng ở vùng lạnh). Tiểu mạch và lúa gạo không hợp thủy thổ ở cao nguyên. Đại đội có một trường tiểu học dạy tiếng Kirghiz và tiếng Hán.

Ở đây ngước đầu nhìn lên thì thấy núi tuyết, phải chăng đấy là ngọn Kongur cao 7719 mét? Tôi cảm thấy hơi nhức đầu, địa thế có lẽ không còn thấp nữa. Tôi nghĩ, nếu tiếp tục đi vượt qua vùng núi cao có tên là “Tiểu đầu thống”, “Đại đầu thống” theo như những nhà du lịch miêu tả thì tôi e không nổi.

Hán thư, phần nói về Tây Vực có một đoạn miêu tả tình trạng vượt đường qua núi Thông Lĩnh như sau: “Vượt qua núi “Đại đầu thống”, “Tiểu đầu thống” ... trong người hầu như lạnh ngắt, đầu đau váng vất, nôn mửa, không hề thấy lừa ngựa ... Đường rất hẹp, khoảng chừng sáu, bảy tấc, dài đến 30 dặm. Hai bên vách núi chênh vênh. Bên dưới là vực sâu. Người qua lại phải dìu nhau từng bước, phải vịn dây mà đi ...”

Huyền Trang cũng miêu tả núi Thông Lĩnh rất đúng: “Có đến hàng trăm dây vách núi, hang sâu hiểm trở, băng tuyết quanh năm, hơi lạnh thấu xương”. “Người đi qua đấy chỉ thấy mây mù dày đặc, thương lữ vãng lai khổ sở gian nan”.

Xem thế đủ thấy từ xưa đến nay, lữ khách trong ngoài đều cho rằng con đường vượt qua núi Thông Lĩnh là con đường đáng sợ, người không có óc mạo hiểm thường chỉ đứng nhìn núi cao mà không dám đi tới.

Người hướng đạo chỉ cho tôi thấy con đường núi quanh co trên dốc núi cao kia là con đường ngày xưa thông vãng Taxkorcan. Đời nhà Thanh vẫn còn có khách thương qua lại. Ngày nay đã được thay bằng đường công lộ men theo sông Cái Tư. Con đường quốc tế này, sau khi ra khỏi biên cảnh quốc gia sẽ qua Kashmir để đi Baishawa của nước Pakistan.

Trên đường ngôi xe trở về Ca Thập, lòng tôi đầy xao động không chỉ cảm thấy nuối tiếc mà còn cảm thấy xấu hổ khi nghĩ đến những nhà thám hiểm cổ đại như Huyền Trang, Huệ Siêu, Pháp Hiển ...

----o0o---

Mục Lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05

06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15

16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25

----o0o---

Vi tính: Minh Trí Cao Thân

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật: 4-2007

Webmaster:[email protected]

Trở về Trang Truyện Phật Giáo 2 || 1

Đầu trang

Biên tập nội dung: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp cho Trang Nhà qua địa chỉ: [email protected] Địa chỉ gởi thư: Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic. 3060. Tel: 61. 03. 9357 3544

Từ khóa » Kháp Ni Khắc Tư