Công Phu Chiều Thứ Năm - Làng Mai
Có thể bạn quan tâm
Tĩnh Tọa – 20 tới 30 phút
Kinh Hành Im Lặng – một vòng
Kệ Mở KinhNam mô đức Bổn SưBụt Thích Ca Mâu Ni (ba lần) (C)
Pháp Bụt cao siêu mầu nhiệmCơ duyên may được thọ trìXin nguyện đi vào biển tuệTinh thông giáo nghĩa huyền vi.(C)
Trì TụngHướng về Bụt và Thánh Chúng trên hội Linh Sơn (3 lần) (C)
Kinh Ba Cửa Giải Thoát (C)
Hồi đó Bụt đang ở thành Xá Vệ với đầy đủ quý vị trong cộng đồng khất sĩ. Một hôm Ngài nói với đại chúng:– Có pháp ấn mầu nhiệm, quý vị có biết không? Hôm nay tôi muốn phân tích và diễn giải pháp ấn này cho quý vị nghe. Quý vị hãy đem nhận thức thanh tịnh ra để nghe cho kỹ, tiếp nhận cho thấu đáo, khéo léo sử dụng tâm ý để ghi nhớ mà hành trì.Các vị khất sĩ bạch:– Hay quá, thưa đức Thế Tôn! Xin Người chỉ dạy cho, chúng con muốn được nghe.Bụt dạy:“Tự tánh của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sanh, không có tướng diệt và vượt thoát mọi tri kiến. Tại sao thế? Vì tự tánh của Không không có vị trí trong không gian, không có hình tướng, không thể khái niệm được, chưa bao giờ từng sanh khởi, tri kiến không nắm bắt được và thoát ly mọi sự nắm bắt. Vì thoát ly được mọi sự nắm bắt nên nó bao hàm được tất cả các pháp và an trú nơi cái thấy bình đẳng không phân biệt. Cái thấy ấy là cái thấy chân chánh và xác thực. Quý vị khất sĩ! Quý vị nên biết rằng không những tự tánh của Không như thế mà tự tánh của tất cả các pháp cũng đều như thế. Ðó gọi là pháp ấn.“Quý vị khất sĩ! Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Bụt, là con mắt của chư Bụt, là chỗ đi về của chư Bụt. Vì vậy quý vị nên nghe cho kỹ, tiếp nhận cho thấu đáo, để ghi nhớ mà tư duy và quán chiếu ngay trong lòng thực tại. (C)
“Quý vị khất sĩ! Người tu hành nên tìm nơi tĩnh mịch như vào rừng, ngồi dưới gốc cây để thực tập quán chiếu về tự thân thực tại. Phải thấy mọi hình sắc là khổ, không và vô thường để thoát ly cho được sự bám víu vào hình sắc và trở về an trú trong cái thấy bình đẳng không phân biệt đối với hình sắc. Ðối với cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức cũng thế: người ấy nên quán chiếu rằng chúng là khổ, không và vô thường để có thể thoát ly cho được cái thấy có tính cách sai lạc về cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức để đạt tới cái thấy bình đẳng không phân biệt về chúng. Này quý vị khất sĩ, các uẩn vốn là không, vốn được sanh khởi từ tâm, khi tâm không còn hiện hành thì uẩn cũng không còn tác dụng. Thấy biết được như thế tức là đạt được giải thoát chân chánh. Giải thoát chân chánh rồi thì thoát được mọi tri kiến. Phép quán sát này được gọi là KHÔNG, cánh cửa giải thoát thứ nhất. (C)
“Lại nữa, an trú trong định mà quán sát các đối tượng thì hành giả thấy các đối tượng hình sắc đều tan biến hết và người ấy thoát ly được tính cách hư ảo của tri giác về hình sắc. Các đối tượng khác là thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng đều tan biến hết và hành giả thoát ly được tính cách hư ảo của mọi tri giác về thanh, hương, vị, xúc và pháp. Phép quán sát này gọi là VÔ TƯỚNG, cửa giải thoát thứ hai. Vào được cánh cửa giải thoát này rồi thì tri kiến sẽ được thanh tịnh; và vì tri kiến đã được thanh tịnh nên hành giả diệt trừ được hết các phiền não tham, sân và si. Tham, sân và si đã tận diệt thì hành giả an trú được trong cái thấy bình đẳng. An trú được trong cái thấy này thì lìa được những cái thấy về ta và về của ta, nghĩa là chấm dứt được mọi cái thấy sai lầm. Cái thấy này không còn cơ hội và căn cứ để sanh khởi nữa. (C)
“Lại nữa, các vị khất sĩ! Thoát ly được cái thấy về ta rồi, thì hành giả không còn cho rằng những sự vật mà ta thấy, nghe, cảm và biết là những sự vật có thật ngoài nhận thức nữa. Vì sao thế? Vì nhận thức cũng chính là do nhân duyên mà phát sanh. Nhận thức và các nhân duyên làm phát khởi ra nhận thức đều biến chuyển vô thường, mà vì thức vô thường cho nên ta cũng không nắm bắt được. Thức đã không như bất cứ hiện tượng nào khác thì còn có gì cần được tạo tác nữa đâu? Phép quán sát này được gọi là VÔ TÁC, cửa giải thoát thứ ba. Vào được cửa giải thoát này rồi thì hành giả thấy được chân tướng các pháp một cách triệt để, không còn bị kẹt vào một pháp nào nữa và thể nghiệm được tính cách tịch diệt của các pháp.” (C)
Bụt bảo quý vị khất sĩ:“Pháp ấn mầu nhiệm là như thế. Ðó là ba cánh cửa đi vào giải thoát. Quý vị khất sĩ, nếu quý vị tu học theo pháp ấn này thì chắc chắn là sẽ đạt được tri kiến thanh tịnh.”Toàn thể các vị khất sĩ nghe pháp này đều tỏ ra rất sung sướng. Họ làm lễ Bụt sau khi đã tiếp nhận giáo pháp này để hành trì. (CC)
Kinh A Nậu La Độ (C)
Ðây là những điều mà tôi đã được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Trùng Các, trong rừng Ðại Lâm, không xa thành phố Tỳ Xá Ly. Lúc bấy giờ đại đức A Nậu La Độ đang cư trú tại một cái am trong rừng, không xa nơi Bụt ở.Một hôm có một số các du sĩ ngoại đạo đến thăm đại đức A Nậu La Độ. Sau khi trao đổi những lời chào hỏi và chúc tụng, họ hỏi đại đức: “Này hiền hữu A Nậu La Độ, đức Như Lai mà người ta tôn xưng là bậc đã chứng ngộ quả vị cao nhất, thế nào cũng đã nói và giảng giải cho hiền hữu nghe về bốn mệnh đề sau đây: một là sau khi chết, đức Như Lai vẫn còn; hai là sau khi chết, đức Như Lai không còn; ba là sau khi chết, đức Như Lai vừa còn vừa không còn; bốn là sau khi chết, đức Như Lai vừa không còn vừa không không còn. Hiền hữu nói cho chúng tôi nghe đi.”Ðại đức A Nậu La Độ trả lời: “Này các hiền hữu, đức Như Lai, bậc tôn quý trên đời, người đã từng chứng ngộ quả vị cao nhất, chưa bao giờ từng nói và giảng giải trong khuôn khổ bốn mệnh đề mà các vị hiền hữu vừa đưa ra.”Nghe đại đức nói như thế, các vị du sĩ ngoại đạo nói với nhau: “Có thể là ông thầy tu này mới đi xuất gia, hoặc giả nếu ông ta đã đi tu lâu rồi, thì ông ta chỉ là một kẻ ngu độn.” Không vừa ý với đại đức, họ bỏ đi. (C)Sau khi các vị du sĩ đi rồi, đại đức A Nậu La Độ suy nghĩ: “Nếu các vị du sĩ ngoại đạo này cứ tiếp tục hỏi như thế thì ta phải trả lời thế nào cho đúng với sự thật và không sai với ý của Bụt ? Ta sẽ trả lời như thế nào cho đúng với chánh pháp và để đừng bị người đồng đạo chê trách?”Rồi đại đức A Nậu La Độ đi tới nơi Bụt ở, cung kính làm lễ và thăm hỏi Người. Sau đó đại đức trình lên Bụt những điều đã xảy ra. Bụt hỏi: “Này đại đức A Nậu La Độ, thầy nghĩ sao? Có thể tìm Như Lai trong hình sắc không?”– Bạch đức Thế Tôn, không.– Có thể tìm Như Lai ngoài hình sắc không ?– Bạch Thế Tôn, không.– Có thể tìm Như Lai trong cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức không?– Bạch Thế Tôn, không.– Có thể tìm Như Lai ngoài cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức không?– Bạch Thế Tôn, không.– Này đại đức A Nậu La Độ, thầy có nghĩ rằng Như Lai là một cái gì vượt ra khỏi cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức không ?– Bạch Thế Tôn, không.– Này, A Nậu La Độ, đi tìm Như Lai ngay trong khi Như Lai còn sống đây mà còn không tìm ra được thì thử hỏi đi tìm Như Lai sau khi Như Lai đã ẩn diệt trong khuôn khổ bốn mệnh đề còn, không còn, vừa còn vừa không còn, vừa không còn vừa không không còn, đó có phải là một chuyện có thể làm được hay không ?– Bạch Thế Tôn, không.– Hay lắm, thầy A Nậu La Độ! Từ trước đến nay, Như Lai chỉ giảng dạy về KHỔ và con đường DIỆT KHỔ.” (CC)
Ngày Đêm An Lành
Nguyện ngày an lành đêm an lànhNgày đêm sáu thời đều an lànhAn lành trong mỗi giây mỗi phútCầu ơn Tam Bảo luôn che chởBốn loài sanh lên đất TịnhBa cõi thác hóa tòa SenHằng sa ngạ quỷ chứng Tam HiềnVạn loại hữu tình lên Thập Ðịa. (C)
Thế Tôn dung mạo như vầng nguyệtLại như mặt nhật phóng quang minhHào quang trí tuệ chiếu muôn phươngHỷ Xả Từ Bi đều thấm nhuận.
Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni (3lần) (C)(Vừa niệm Bụt vừa đi nhiễu)
Đảnh Lễ
Nhất tâm kính lễ đức Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)Nhất tâm kính lễ đức Bụt A Di Đà (C)Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Thế Chí (C)Nhất tâm kính lễ đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)Nhất tâm kính lễ liệt vị tổ sư qua các thời đại từ Tây Trúc cho đến Việt Nam (CC)
Khơi Suối Yêu Thương
Cúi đầu kính lạy Quan Thế ÂmNguyện lớn vì đời luôn hiện thânMắt thương nhìn đời thường quán chiếuLắng nghe cứu độ vớt trầm luânCành dương rẩy nước thiêng cam lộGột sạch tâm con mọi cấu trầnCon xin một lòng về nương tựaNguyền ước ngàn lời xin kính dâng: (C)
Nam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCon nguyền nhìn sâu vào năm uẩnNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCon nguyền thấy được tự tánh KhôngNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCon nguyền sớm lên bờ giải thoátNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCon nguyền vượt thắng mọi tai ươngNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCon nguyền ngồi trên thuyền Bát NhãNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCon nguyền có mặt đủ ba thânNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCon nguyền thành tựu quả giải thoátNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCon nguyền nuôi dưỡng đại bi tâmNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCon nguyền thâm nhập Như Lai TạngNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCon nguyền gạn lọc tâm ý trong (C)
Nam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCho con vượt thoát hầm ái dụcNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCho con đập vỡ khối trần tâmNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCho con đủ phương tiện quyền xảoNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCho con xây dựng được tăng thânNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCho con chuyển hóa được hờn giậnNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCho con nhổ được gốc vô minhNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCho con đưa cao đuốc chánh tínNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmCho con được mắt tuệ sáng trong Nam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin trên tay có đóa sen vàngNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin mắt nhìn thấy được Pháp thânNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin nguyền xây dựng tình huynh đệNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin nguyền bồi đắp nghĩa đồng mônNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin nguyền tập nói lời ái ngữNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin nguyền học nhìn bằng mắt thươngNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin nguyền thành tựu hạnh đế thínhNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin nguyền chánh niệm sống phân minhNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin nguyền định căn mau thành tựuNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin nguyền ngày đêm bước kiện hànhNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin nguyền an cư trên thật địaNam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin nguyền được năm mắt sáu thông (C)
Nam mô Bồ Tát Quan Thế ÂmXin cùng con đi vào vùng chiến tranhchấm dứt đao binh, im hơi bom đạnXin cùng con đi vào vùng khổ bệnhđem theo linh dược cam lộ thanh lươngXin cùng con đi vào cõi ma đóiđem theo pháp thực của hiểu và thươngXin cùng con đi vào vùng địa ngụcgiải trừ nhiệt não đem lại thanh lươngXin cùng con đi vào vùng tranh chấpgiải tỏa hận thù, khơi suối yêu thương.Nam mô Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm Nam mô Bồ Tát Đại Bi Quan Thế ÂmNam mô Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (CC)
Kệ Vô Thường
Ngày nay đã quaÐời sống ngắn lạiHãy nhìn cho kỹTa đã làm gì?Ðại chúng hãy cùng tinh tấnThực tập hết lòngSống cho sâu sắc và thảnh thơiHãy nhớ vô thườngÐừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.(C)
Quay Về Nương Tựa
Con về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)
Đã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời. Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)
Về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người thể nhận được giác tánh, sớm mở lòng Bồ Đề.Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)
Hồi Hướng
Trì tụng kinh thâm diệuTạo công đức vô biênĐệ tử xin hồi hướngCho chúng sinh mọi miền. (C)
Pháp môn xin nguyện họcÂn nghĩa xin nguyện đềnPhiền não xin nguyện đoạnQuả Bụt xin chứng nên. (CCC)
Từ khóa » Công Phu Hàm Dưỡng
-
9 đức Tính Của Một Người Có Hàm Dưỡng Cao - Trí Thức VN
-
Bốn điều Người Có Hàm Dưỡng Nhất định Không Làm
-
HÀM DƯỠNG NỘI TẠI - Thiền Viện Thường Chiếu
-
Đức Tính Của Người Có Hàm Dưỡng Cao
-
5 đặc điểm Chỉ Rõ Một Người Có Hàm Dưỡng, Khí Chất Hay Không
-
Cho Và Độ - Cái Chí Của Người Hàm Dưỡng - Vườn Hoa Phật Giáo
-
Công Phu Chiều Thứ Ba - Làng Mai
-
Quân Tử Tứ Tu: Có Cảnh Giới, Có độ Lượng, Có Sự Sắc Bén, Có Hàm ...
-
7 đặc Trưng Của 1 Người Có Hàm Dưỡng, Khí Chất, Càng Về Già Vận ...
-
Phuong Phap Tu Tap
-
Phụ Nữ đẹp ở Thanh Tao, Thắng ở Hàm Dưỡng, Hơn Nhau ở Nội Tâm ...
-
Phần 3: Phương Pháp Kỹ Thuật Và Hạ Thủ Công Phu - Tịnh Độ