Cóp Nhặt Về Chiếc “mũ Cối”

1.

Hình như chỉ còn duy nhất QĐ ND VN là dùng mũ cối? Hình như quân GP ND TQ bỏ mũ cối rồi? Mũ cối nguyên là của TQ chuyển sang ta, từ thời chiến, ta độ lại thành rởm hơn và dùng đến giờ như 1 truyền thống quý báu.

Mình (st. từ tg Dương Quốc Chính) nhớ hồi bé, cỡ 198x, 199x, mũ cối coi như là đồng phục của nam giới miền Bắc, tầm cấp 2 trở lên là dùng hàng ngày rồi, gần như với mọi hoàn cảnh, không có loại nào khác. Mùa đông thì thêm mũ nồi cho ấm. Bọn trẻ con bé hơn thì đội mũ nan bằng tre đan. Bọn choai choai quê mình gọi mũ cối là “ổi”. Ổi có 2 loại, ổi Tàu xịn hơn, rất cứng, khi cũ nó chỉ sờn lớp vải, phần cốt cứng đanh, không sao hết. Anh em dân chơi hoặc cựu binh già mới có. Còn lại chỉ có ổi thường, của VN, mềm xèo, rơi cái là móp, nứt.

Hồi ấy anh em xã hội hay được gọi là dân quân khu, “bộ đội”. Không hiểu sao các anh lại thích mặc đồ bộ đội, đi dép cao su đúc loẹt quẹt. Sau về HN, thấy đường Lê Duẩn bán rất nhiều, chứng tỏ phong trào bộ đội, quân khu là có toàn miền Bắc, chứ không chỉ quê mình. Đương nhiên “bộ đội” phải đội mũ cối và cầm đèn pin. Lưu ý là mũ cối và đèn pin đều là vũ khí khi hữu sự. Đèn pin là hàng Tàu, bằng sắt mạ kền sáng loáng, loại 4 pin nó dài như cái dùi cui, đập nhau rất tốt. Mũ cối cũng dùng để quật nhau. Bọn dân chơi HS cấp 2, 3 cũng đú theo các anh, cũng thành bộ đội nhi đồng.

Hồi SV năm 4, mình vào SG, lúc đó mới phát hiện ra là dân miền Nam không bao giờ đội mũ cối. Hỏi ra mới biết là họ dị ứng với mũ cối, bởi nó gợi lại quá khứ đau thương! Quay lại thời hiện tại. Mũ cối, không biết tại sao, vẫn là đồng phục cho AEQL khi đi thị sát thiên tai, hỏa hoạn, bão lụt…? Chắc tại những chỗ này có đông bộ đội, nên mượn của họ? Mình đánh giá là về độ an toàn để bảo vệ cái sọ trước va chạm, thì mũ cối chưa bằng mũ bảo hiểm của thợ xây, hay mũ xe máy, lại nặng hơn. Còn để bảo vệ cái sọ cho bộ đội thì không thể bằng mũ sắt. Lính toàn thế giới khi tham chiến hầu như dùng mũ sắt, ở chỗ không nguy hiểm lắm thì dùng mũ vải. Chả có lính nước nào dùng mũ cối cả. Vậy đó là truyền thống hay bảo thủ, hay là vì rẻ?

Dân các vùng quê và cả TP tỉnh lẻ miền Bắc vẫn dùng mũ cối như hồi 8x, khi đi lao động, đồng áng, che nắng, xây dựng (thợ xây ở quê đội mũ cối chứ không đội mũ nhựa)… như 1 thói quen. Nếu công an không phạt, họ sẽ dùng làm mũ bảo hiểm xe máy. Có lẽ vì dân yêu bộ đội quá, quen thế từ xưa rồi.Còn AEQL đi thị sát thiên tai thì đội mũ cối chắc là để cho nó gần gũi, dã chiến, nhiều chỗ chả cần phải đội cũng vẫn cứ đội để quay phim chụp ảnh. Xem ảnh xem, mấy anh đứng sau đều không cần đội mũ! Có anh đứng bên mép trái không đội thế nào cũng bị phê bình!

2.

Nơi đầu tiên phát minh ra loại mũ như vậy là quân đội Anh (nguồn st: Báo Dân Việt). Khi quân đội Anh chiếm đóng khai thác thực dân ở Trung Mỹ, khí hậu ở đó rất nóng bức. Vì thích ứng với khí hậu địa phương, quân đội Anh đã chế ra loại mũ bằng gỗ. Không ngờ loại mũ này đã được phát triển rất nhanh. Quân đội Pháp, Hà Lan đều nhanh chóng bắt chước loại mũ này. Quân đội Anh đóng ở Ấn Độ và quân đội Pháp đóng ở Việt Nam đều sử dụng loại mũ gỗ tương tự nhau.

Nam Á và Đông Nam Á khí hậu rất nóng, cũng chỉ có mũ bằng vật liệu gỗ mới thích hợp với hoàn cảnh địa phương. Các khu vực này đều là những vùng rừng già, không phải lo về vấn đề thiếu nguyên vật liệu để làm mũ. Từ khía cạnh này, mũ gỗ là thích hợp nhất. Nhưng vì được chế từ gỗ, tính năng bảo hiểm không cao. Một viên đạn có thể xuyên thủng loại mũ này, cho nên quân đội Anh, Pháp đến lúc chiến đấu sẽ đổi sang mũ sắt.

Quân đội Việt Nam khi đó dùng loại mũ bằng vật liệu gỗ, gọi là mũ cối. Mũ cối chế tác đơn giản, không cần gia công công nghiệp nhiều. Để phục vụ yêu cầu ngụy trang, quân đội Việt Nam bọc bên ngoài mũ cối một lớp vải màu xanh lá cây. Ngày trước, Liên Xô và các nước Đông Âu có viện trợ Việt Nam một số mũ sắt, nhưng số lượng không nhiều, cho nên cơ bản bộ đội Việt Nam vẫn dùng mũ cối.

Việc chế tạo mũ bảo hiểm thép không phải là quá dễ dàng. Đầu tiên cần luyện thép rồi sau đó là một vài công đoạn thủ công nữa. Nửa sau thế kỷ 20, Việt Nam dựa vào năng lực bản thân, vẫn chưa thể sản xuất được. Vì thế, chỉ có các đơn vị bộ đội tinh nhuệ được mang mũ sắt do Liên Xô viện trợ hoặc các mũ sắt chiến lợi phẩm. Ngoài các đơn vị tinh nhuệ ra, chủ yếu bộ đội vẫn dùng mũ cối. Đến thập niên 1980, theo bước phát triển của kỹ thuật luyện cao su, mũ bảo vệ bằng cao su bắt đầu xuất hiện. Nhưng mũ sắt thì phải đến năm 2012 Việt Nam mới sản xuất được.

Năm 2012, Việt Nam bắt đầu tự sản xuất mũ sắt. Hải quân đánh bộ và các đơn vị tinh nhuệ khác bắt đầu dần dần được đổi sang mũ sắt. Nhưng công suất sản xuất có hạn, cho nên rất nhiều bộ đội ở tuyến hai của Việt Nam vẫn đội mũ cối bằng gỗ hoặc cao su. Thực tế, ngoài quân đội ra, loại mũ này còn lưu hành rất phổ biến trong nhân dân Việt Nam. Đặc biệt là những người đi xe máy, rất thích loại mũ này. Một số người đi du lịch Việt Nam cũng chọn mua dép và mũ bảo hiểm Việt Nam làm kỷ niệm. Nói một cách nghiêm túc, loại mũ này dùng làm một sản phẩm dân dụng vẫn còn tốt.

3.

Làm mũ cối không đòi hỏi quá nhiều về sức lực nhưng lại cần sự tỉ mỉ và cầu kỳ. Khó ai có thể nghĩ rằng những chiếc mũ cối xinh xắn và dùng để bảo vệ con người lúc nắng lúc mưa lại được làm hoàn toàn từ phế liệu và những phụ phẩm thừa của ngành may mặc. Dưới bàn tay khéo léo của người dân Nghĩa Hiệp thì những phế liệu như tấm bìa cattông, mảnh vải thừa hoặc những tấm da loại của ngành thuộc da đã trở thành chiếc mũ cối xinh xắn và hữu ích.

Tuy nhiên quy trình để tạo thành chiếc mũ gồm rất nhiều công đoạn, với mỗi một công đoạn lại đòi hỏi ở người thợ một kỹ năng làm nghề khác nhau. Công đoạn đầu tiên và cũng là công đoạn tương đối dễ dàng là thu mua và phân loại bìa cát tông. Những tấm bìa sau khi thu gom, làm sạch đem ngâm trong nước khoảng 10 tiếng, sau đó đem nghiền nhỏ cùng nhựa thông với tỷ lệ 100kg giấy bìa trộn với 19 kg nhựa thông. Tiếp theo cho hỗn hợp trên vào xeo, đánh lạnh, đánh nóng ở nhiệt độ cao để tạo thành cốt mũ. Công đoạn đánh nóng vô cùng quan trọng, chiếc cốt mũ làm ra có đủ tiêu chuẩn, có bị rạn nứt hay không hoàn toàn phụ thuộc vào tay nghề “cầm lửa” của những người thợ. Nếu để nhiệt độ quá thấp, cốt mũ sẽ mềm, bị bẹp còn nhiệt độ quá cao thì sẽ bị rạn nứt lòng mũ và công đoạn đánh nóng thì chỉ có người thợ lành nghề mới làm được. Sau khi hoàn thành cốt mũ, người thợ lại tiếp tục bắt tay vào sơn mặt trong của cốt mũ, xoa giấy giáp, quét keo, dán vải và bọc chỏm mũ. Trong tất cả các công đoạn để làm ra một chiếc mũ cối hoàn chỉnh thì công đoạn dán vải và bọc chỏm mũ là khâu cầu kỳ và tỉ mỉ nhất. Người thợ phải dán vải sao cho các múi mũ phẳng, đối xứng, chỏm mũ phải giữ cố định có như vậy thì khi gặp nước chiếc mũ sẽ không bị thấm,dột. Cuối cùng là công đoạn tán ozê, lồng quai mũ, bọc giấy và đóng hộp.

Sau khi hoàn thiện các khâu, mặt hàng này sẽ đuợc mang đi tiêu thụ ở các nơi như Lạng Sơn, Điện Biên, Móng Cái… chủ yếu bán cho người lao động và khách du lịch. Tùy thuộc vào chất liệu của chiếc mũ mà giá bán của nó có thể dao động từ 30 đến 100 nghìn đồng/1 chiếc. Nghề làm mũ cối không mấy vất vả, vốn bỏ ra không nhiều nhưng mang lại thu nhập tương đối cao cho người lao động. Anh Nguyễn Văn Cự (thôn Yên Lão, Nghĩa Hiệp) làm nghề được gần 10 năm vui vẻ tâm sự: “ Nhờ nghề làm mũ cối mà gia đình tôi thoát được cảnh nghèo túng, có của ăn của để, con cái được học hành đầy đủ. Làm nghề này, vừa tạo được công ăn việc làm cho bà con nông dân lại vừa góp phần nhỏ bé vào việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Người dân quê tôi ví nghề làm mũ cối là nghề “biến phế liệu thành tiền”. (st. Báo Hưng Yên – 2012)

Share this:

  • Facebook
  • X
Like Loading...

Related

Từ khóa » Bọc Lại Mũ Cối