Cư Jút – Wikipedia Tiếng Việt

Huyện Cư Jút nằm ở phía bắc tỉnh Đắk Nông, nằm trên trục đường Quốc lộ 14, cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 20 km về phía tây, cách thành phố Gia Nghĩa khoảng 110 km về phía bắc, có vị trí địa lý:

  • Phía đông giáp thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
  • Phía tây giáp huyện Pechr Chenda, tỉnh Mondulkiri, Vương quốc Campuchia với biên giới dài 20 km
  • Phía nam giáp huyện Đắk Mil và huyện Krông Nô
  • Phía bắc giáp huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

Huyện Cư Jút có diện tích 723,26 km², dân số năm 2020 là 92.464 người,[3] mật độ dân số đạt 128 người/km².

Địa hình

sửa

Phía đông huyện Cư Jút tương đối bằng phẳng, là nơi tập trung phần lớn dân cư của huyện.

Trong khi đồi núi tập trung ở phía tây của huyện, chủ yếu thuộc địa bàn xã Đắk Wil.

Khí hậu

sửa

Vùng Cư Jút chịu sự chi phối bởi kiến tạo địa chất của cao nguyên, địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Tây sang Đông, từ Nam đến Bắc, độ cao trung bình khoảng 330 m. Lượng mưa trên địa bàn lớn, trung bình hàng năm từ 1.700 – 1.800 mm, có nhiều sông suối nên địa hình chia cắt mạnh. Cư Jút mang đặc điểm khí hậu của miền cao nguyên nhiệt đới gió mùa, quanh năm mát mẻ, có hai mùa mưa nắng rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, tập trung 90% lượng mưa hàng năm, là thời gian phát triển mạnh của các loại cây trồng; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể cộng với gió mùa Đông bắc làm tỉ lệ bốc hơi nước cao gây khô hạn, hệ thống thực vật kém phát triển. Nhiệt độ trung bình 23,4 °C; độ ẩm trung bình 85%, số giờ nắng trung bình 2.288 giờ/năm.

Chế độ nhiệt: Nhiệt độ cao nhất trong năm: 27,8 °C. Nhiệt độ thấp nhất trong năm: 14,3 °C. Nhiệt độ trung bình năm: 23,4 °C. Biên độ nhiệt ngày đêm: 10-15 °C. Tổng tích ôn: 8.500 – 9.000 °C.

Chế độ gió: Hướng gió thịnh hành mùa mưa là tây nam, mùa khô là Đông bắc.[4]

Tài nguyên đất

sửa

Tài nguyên đất có 5 nhóm chính:

  1. Đất vàng nhạt phát triển trên sản phẩm phong hóa bột kết (Fq), diện tích lớn nhất: 33.150 ha chiếm tỷ lệ hơn 46%, phân bổ vùng phía tây huyện trên địa bàn xã Đăk Wil, đây là loại đất được hình thành trên đá mẹ là phiến sét, thành phần cơ giới là thịt nhẹ, tầng dày nhỏ hơn 30 cm, độ dốc thay đổi từ cấp II đến IV, rất nhiều đá lộ đầu thành cụm. Đối với loại đất này khi canh tác cần có biện pháp cải tạo đất thường xuyên, không khai hoang trong mùa mưa và canh tác luân canh, bảo đảm độ che phủ thực vật thường xuyên và hạn chế đến mức thấp nhất về xói mòn rửa trôi.
  2. Đất vàng trên phiến sét: Feralit–Salit (Fs): 21.735ha chiếm 30,235% diện tích phân bổ chủ yếu trên địa hình núi cao tập trung thành dãy vùng trung tâm và rìa phía bắc, phía đông huyện, trên địa bàn nhiều xã: Ea Pô (phía bắc xã), Đăk Drông, Tâm Thắng, Ea Tling, Trúc Sơn,... đây là đất được hình thành trên đá mẹ là phiến sét, phong hóa triệt để, thành phần cơ giới là thịt nặng, ít xốp, khi mất nước trở nên chai rắn, tầng dày 70 – 100 cm, ít dốc (cấp II, III), thảm thực vật được khai thác trồng cây, chủ yếu cây hàng năm.
  3. Đất đen trên đá Basalt và Tù (Rk), diện tích 14.374 ha chiếm xấp xỉ 20% diện tích tự nhiên, phân bổ ở các thung lũng vùng trung tâm (phía đông Đăk Wil, Đăk Drông, Cư Knia), phát triển chủ yếu trên nền đá mẹ Basalt nên giàu các nguyên tố sắt (Fe), nhôm (Al), calci (Ca), magiê (Mg), phospho (P), kali (K), natri (Na), nhóm đất này có địa hình lượn sóng, rất giàu dinh dưỡng, có tầng dày thích hợp cho nhiều loại cây trồng.
  4. Đất nâu đỏ trên đá Basalt (Fk): 3.332 ha diện tích khá thấp (3,244% diện tích), phân bổ rải rác vùng phía nam, là nhóm đất hình thành trên đá mẹ basalt nên giàu các nguyên tố sắt (Fe), nhôm (Al), calci (Ca), magiê (Mg), kali (K), natri (Na), đất tơi xốp, thành phần cơ giới thịt nặng đến trung bình, tầng dày từ 50 – 100 cm, độ dốc cấp III, IV, đây là nhóm đất giàu mùn, dinh dưỡng cao nên thích hợp cho các loại cây công nghiệp dài ngày: cà phê, tiêu, cao su hoặc ngắn ngày như: lạc, đậu nành,...
  5. Đất thung lũng dốc tụ (D): Diện tích nhỏ 297 ha chiếm 0,413% diện tích phân bổ rải rác ven sông suối, được hình thành bởi quá trình bào mòn vận chuyển vật chất, thường bị ngập nước nên gây hóa, đất bị kết von. Đất khá giàu mùn hữu cơ, đất thịt nhẹ ít thoát nước thích hợp cho cây trồng lương thực.[4]

Tài nguyên rừng

sửa

Diện tích rừng và đất lâm nghiệp: 44.411,5 ha, trong đó: diện tích đất có rừng: 39.950,68 ha (rừng tự nhiên: 38.664,42 ha, rừng trồng: 1.286,3 ha), bao gồm: rừng sản xuất: 35.212,48 ha; rừng phòng hộ: 1.464,7 ha; rừng đặc dụng: 2.794 ha.[4]

Tài nguyên khoáng sản

sửa

Khoáng sản vật liệu xây dựng như: đất sét phân bố trên địa bàn các xã: Trúc Sơn, Cư Knia, Đăk Drông, có thể khai thác sản xuất gạch, ngói phục vụ xây dựng các công trình và xây dựng dân dụng; ngoài ra còn có đá bazan bọt làm nguyên liệu sản xuất gạch ốp lát cách âm, cách nhiệt (công ty sản xuất đá Granit – tại khu công nghiệp Tâm Thắng đang sản xuất); huyện còn có hàng triệu mét khối đá, cát tập trung ở các xã: Ea Pô, Nam Dong, Đắk Drông, Đắk Wil,... để sản xuất vật liệu xây dựng phục vụ cho nhu cầu xây dựng ở tỉnh Đăk Lăk và tỉnh Đăk Nông.

Khoáng sản có mỏ quặng antimon ở địa bàn xã Đăk Drông hiện nay công ty Vinaxuki đang khai thác.[4]

Tài nguyên nước

sửa

Huyện Cư Jút có mạng lưới sông suối khá dày, với mật độ 0,4 – 0,6 km/km². Sông Srêpốk chảy qua địa bàn huyện ở phía đông và đông bắc. Các sông suối trong vùng chủ yếu thuộc lưu vực sông Srêpốk nên đã tạo ra hệ thống nước mặt phong phú. Phần lưu vực sông Srêpốk qua huyện dài khoảng 40 km là đoạn đầu của hợp lưu hai nhánh Krông Nô và Krông Na chảy dọc theo ranh giới phía đông theo hướng Nam Bắc.

Ngoài ra trên địa bàn huyện có nhiều hồ đập thủy lợi như: đập Trúc Sơn, đập Đăk Drông, đập Cư Pu, đập Buôn Bur, đập tiểu khu 839, đập Đăk Diêr, đập tiểu khu 840,... cung cấp nước tưới cho hàng ngàn ha lúa đông xuân và một số diện tích cây trồng khác: cà phê, tiêu, cây ăn quả,....[4]

Từ khóa » đặc Sản Cư Jut