Cúc Đậu – Wikipedia Tiếng Việt

Bước tới nội dung

Nội dung

chuyển sang thanh bên ẩn
  • Đầu
  • 1 Tóm tắt
  • 2 Chuyển thể
  • 3 Nhận xét
  • 4 Giải thưởng và đề cử
  • 5 Tham khảo
  • Bài viết
  • Thảo luận
Tiếng Việt
  • Đọc
  • Sửa đổi
  • Sửa mã nguồn
  • Xem lịch sử
Công cụ Công cụ chuyển sang thanh bên ẩn Tác vụ
  • Đọc
  • Sửa đổi
  • Sửa mã nguồn
  • Xem lịch sử
Chung
  • Các liên kết đến đây
  • Thay đổi liên quan
  • Thông tin trang
  • Trích dẫn trang này
  • Tạo URL rút gọn
  • Tải mã QR
In và xuất
  • Tạo một quyển sách
  • Tải dưới dạng PDF
  • Bản để in ra
Tại dự án khác
  • Khoản mục Wikidata
Giao diện chuyển sang thanh bên ẩn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)
Cúc Đậu
Đạo diễnTrương Nghệ MưuDương Phượng Lương
Tác giảLưu Hằng
Sản xuấtHồ KiệnTokuma YasuyoshiTrương Văn Trạch
Diễn viênCủng LợiLý Bảo ĐiềnLý VĩTrương NghịTùng Trí Quân
Quay phimCố Trường Vệ
Dựng phimĐỗ Viện
Âm nhạcTriệu Phú Bình
Công chiếu1990
Thời lượng95 phút
Quốc gia Trung Quốc
Ngôn ngữtiếng Quan thoại

Cúc Đậu (chữ Hán: 菊豆) là một cuốn phim Trung Quốc, trình chiếu năm 1990, do Trương Nghệ Mưu đạo diễn. Bộ phim được đề cử cho giải Oscar phim ngoại ngữ hay nhất của năm 1990.

Tóm tắt

[sửa | sửa mã nguồn]

Nói về chuyện của một thiếu nữ trẻ tên là Cúc Đậu (hay Ju Dou - do Củng Lợi thủ vai) bị bán làm vợ cho một tên chủ tiệm làm nghệ nhuộm vải là Dương Kim San (Yang Jinshan). San hành hạ Đậu, thường là vào ban đêm, một cách tàn nhẫn vì nàng không sinh con nối dòng cho hắn. Oái oăm một điều là San lại bất năng và vô sinh. Sự ngược đãi của San bị Dương Thiên Thanh (Yang Tianqing), một người cháu kêu bằng chú của y, thường xuyên chứng kiến. Bị ức chế và cám dỗ, cuối cùng Cúc Đậu lén lút dan díu với Thanh sinh ra một đứa con trai là Thiên Bạch (Tianbai), mà lúc đầu San mừng rỡ cứ ngỡ là con mình và thay đổi thái độ và lối cư xử với Đậu. Bất ngờ một hôm kia, San bị té, bán thân bất toại từ lưng trở xuống, và phải chịu lệ thuộc vào sự chăm sóc của Đậu và Thanh. Để trả thù những sự ngược đãi và hành hạ của San trước kia đối với mình, Đậu ngang nhiên suồng sã và đi lại với Thanh ngay trước mặt San. Nhưng sau khi San bị té xuống hồ nhuộm chết, thì cả hai Đậu và Thanh lại phải càng sống lén lút hơn để tránh những dư luận khắt khe của xã hội Trung Hoa thời bấy giờ. Cuối cùng Thanh lại bị chính con trai của mình là Bạch ngược đãi và liệng xuống hồ nhuộm, chết ngộp, y như cái chết của San. Phim kết thúc khi Đậu, trong cơn đau đớn tột cùng đã phóng hỏa đốt cháy xưởng nhuộm, không rõ nàng có tự thiêu không và số phận của con trai mình là Bạch ra sao.

Chuyển thể

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ phim được chuyển thể từ một cuốn tiểu thuyết. Trong cuốn tiểu thuyết, Thiên Thanh là cháu ruột của Kim San và do đó mối quan hệ giữa Thanh và Đậu là loạn luân. Tuy nhiên trong phim, đạo diễn đã sửa đổi chi tiết đó, Thanh không có quan hệ máu mủ với Kim San.[1]

Nhận xét

[sửa | sửa mã nguồn]

Giống như hầu hết các bộ phim khác, đạo diễn Trương Nghệ Mưu rất chú trọng đến tình tiết, âm thanh, ánh sáng, và bỏ lửng những khúc phim nóng bỏng gay cấn như lúc Thanh lén nhìn trộm lúc Đậu thoát y. Những lúc San hành hạ Đậu mà người xem phim chỉ nghe được những tiếng rên xiết qua sự tức tối và bất an thôi thúc của Thanh... Cảnh đám ma của San mà theo phong tục xưa Đậu và Thanh phải làm bộ khóc thảm thiết, ngăn chận linh cửu đúng bốn mươi chín lần trước khi hạ huyệt. Cảnh San bị tàn phế ngồi trong lu gỗ có bánh xe bị Thanh dùng ròng rọc câu lên để biệt lập. Cánh phơi vải với nhiều màu rực rỡ, cảnh thuốc nhuộm loan ra từ từ trong hồ...là những tiểu tiết xuất sắc, vừa gợi hình, gợi cảm của phim, mà người xem có thể tưởng tượng theo từng cảm giác riêng.[cần dẫn nguồn]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng Hạng mục Kết quả
1990 Pháp Liên hoan phim Cannes Giải Luis Buñuel Đoạt giải
Cành cọ vàng Đề cử
Tây Ban Nha Liên hoan phim quốc tế Valladolid Golden Spike Đoạt giải
Hoa Kỳ Liên hoan phim Chicago Giải Hugo vàng Đoạt giải
Thụy Điển Liên hoan phim quốc tế Thụy Điển Phim nước ngoài xuất sắc nhất Đoạt giải
1991 Hoa Kỳ Giải Oscar Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất Đề cử

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Gateward, Frances K. Zhang Yimou: Interviews (Conversations with filmmakers series, ISSN 1556-1593). Đại học Mississippi, 2001. ISBN 1578062624, 9781578062621. tr. 159.
Stub icon

Bài viết về điện ảnh này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s
  • x
  • t
  • s
Trương Nghệ Mưu
Đạo diễn
  • Cao lương đỏ (1987)
  • Đại hào mĩ châu báo (1988)
  • Cúc Đậu (1990)
  • Đèn lồng đỏ treo cao (1991)
  • Thu Cúc đi kiện (1992)
  • Phải sống (1994)
  • Hội Tam hoàng Thượng Hải (1995)
  • Hữu thoại hảo hảo thuyết (1997)
  • Không thiếu em nào (1999)
  • Đường về nhà (1999)
  • Hạnh phúc thì quang (2000)
  • Anh hùng (2002)
  • Thập diện mai phục (2004)
  • Thiên lí tẩu đan kị (2005)
  • Hoàng Kim Giáp (2006)
  • Tam thương phách án kinh kỳ (2009)
  • Chuyện tình cây sơn tra (2010)
  • Trở về (2014)
  • Tử chiến Trường Thành (2016)
  • Vô ảnh (2018)
Quay phim
  • Hồng tượng (1982)
  • Nhất cá hòa bát cá (1983)
  • Hoàng thổ địa (1984)
  • Lão tỉnh (1986)
  • Đại duyệt binh (1986)
Đóng phimCổ kim đại chiến Tần dũng tình (1989)
KhácLễ khai mạc Thế vận hội Mùa hè 2008
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Cúc_Đậu&oldid=71249648” Thể loại:
  • Sơ khai điện ảnh
  • Phim năm 1989
  • Phim do Trương Nghệ Mưu đạo diễn
  • Đề cử giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất
  • Phim năm 1990
  • Phim chính kịch lãng mạn thập niên 1990
  • Phim Trung Quốc
Thể loại ẩn:
  • Trang sử dụng liên kết tự động ISBN
  • Trang thiếu chú thích trong bài
  • Bài viết có trích dẫn không khớp
  • Tất cả bài viết sơ khai
Tìm kiếm Tìm kiếm Đóng mở mục lục Cúc Đậu 19 ngôn ngữ Thêm đề tài

Từ khóa » đánh Giá Phim Cúc đậu