Củng Lợi – Wikipedia Tiếng Việt

Củng Lợi
Củng Lợi 2016
Thông tin nghệ sĩ
Phồn thể鞏俐 (phồn thể)
Giản thể巩俐 (giản thể)
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động1987–nay
Quốc tịch Singapore
Phối ngẫu
  • Hoàng Hòa Tường(cưới 1996⁠–⁠ld.2010)
  • Jean-Michel Jarre (cưới 2019)
QuêTế Nam, Sơn Đông, Trung Quốc
Giải thưởng
Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông
Nữ chính xuất sắc nhất2007 Hoàng Kim Giáp
Giải thưởng Hiệp hội Phê bình Điện ảnh Hồng Kông
Nữ chính xuất sắc nhất2007 Hoàng Kim Giáp
Giải Kim Kê
Nữ chính xuất sắc nhất1993 Thu Cúc đi kiện2000 Breaking the Silence
Giải Bách Hoa
Nữ chính xuất sắc nhất1993 Đèn lồng đỏ treo cao2001 Breaking the SilenceNữ phụ xuất sắc nhất1989 Đại hào mĩ châu báo
Other awards
Cúp Volpi cho Nữ chính xuất sắc1992 Thu Cúc đi kiệnGiải Hiệp hội phê bình điện ảnh New York cho Nữ phụ xuất sắc1993 Bá Vương biệt cơGiải Hiệp hội phê bình Hoa Kỳ cho Nữ phụ xuất sắc2005 Hồi ức của một geisha

Củng Lợi (sinh ngày 31 tháng 12 năm 1965) là một nữ diễn viên nổi tiếng người Hoa. Xuất thân Trung Quốc nhưng hiện nay cô mang quốc tịch Singapore.[1] Cô từng hợp tác và là người tình của đạo diễn Trương Nghệ Mưu trong một loạt phim nổi tiếng quốc tế từ những năm 1990 đến 2000. Củng Lợi là người Châu Á thứ hai trong lịch sử giành được giải Volpi Cup cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Venezia với màn thể hiện xuất sắc của cô trong tác phẩm Thu Cúc đi kiện. Nhiều màn trình diễn của Củng Lợi được trong và ngoài Trung Quốc đánh giá rất cao như trong "Cao lương đỏ", "Lồng đèn đỏ treo cao", "Hoàng Kim Giáp" và đặc biệt là "Hồi ức của một Geisha". Cô được công nhận là một trong những nữ diễn viên Trung Quốc nổi tiếng nhất và xuất sắc nhất trong lịch sử.

Cuộc đời và sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Thơ ấu và khởi nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Củng Lợi là là con gái út trong gia đình 5 anh chị em. Cô sinh ngày 01 tháng 1 năm 1966 tại thành phố Thẩm Dương thuộc tỉnh Liêu Ninh của Trung Quốc và lớn lên ở Tế Nam, thủ phủ của Sơn Đông.[2] Củng Lợi cho biết gia đình cô là một gia đình có truyền thống học hành: cha cô là một giáo sư kinh tế tại Đại học Sơn Đông, mẹ và 3 anh trai là giáo viên, còn chị gái là bác sĩ. Cô tiết lộ: "Gia đình không muốn tôi làm diễn viên. Họ không nhận ra rằng diễn xuất cũng là một công việc vất vả."[3]

Từ nhỏ, Củng Lợi đã có mong muốn trở thành một diễn viên và ở trường cô thích nhất là các môn học về âm nhạc và khiêu vũ, do đó cô có tài năng hát hay và múa giỏi. Lớn lên, cô trượt vòng thi tuyển vào cao đẳng 2 lần.[2] Năm 1985, cô được nhận vào Học viện Hý kịch Trung ương – một trường đào tạo diễn viên có tiếng tại Bắc Kinh sau 3 lần thi trượt. 2 năm sau, cô có vai diễn đầu tiên của mình trong phim Cao lương đỏ, cũng là bộ phim đầu tay của đạo diễn Trương Nghệ Mưu.[3]

Cao lương đỏ nhận được những phản ứng tích cực từ những nhà phê bình trong và ngoài Trung Hoa.[4] Dù bản thân Củng Lợi không nhận được giải thưởng nào nhưng bộ phim đã góp phần giúp cho cô trở thành một diễn viên mới sáng giá. Từ đây, Củng Lợi và Trương Nghệ Mưu bắt đầu mối quan hệ tình cảm với nhau.[2] Trong năm 1989, Củng Lợi xuất hiện trong 4 bộ phim: The Empress Dowager, Mr. Sunshine, Tần dũng (phim Hồng Kông), và Đại hào mĩ châu báo (phim Trung Hoa đại lục).[5]

Những thành công vang dội

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong những năm đầu thập niên 1990, Củng Lợi và đạo diễn Trương Nghệ Mưu thường xuyên hợp tác với nhau, và những bộ phim của họ đều nhận được phản ứng tích cực từ những nhà phê bình điện ảnh thế giới. Năm 1990, Củng Lợi thủ vai Cúc Đậu trong bộ phim cùng tên, đóng vai một người phụ nữ bị chồng bạo hành vì không thể sinh con trong khi ông chồng là người bị vô sinh. Cúc Đậu là bộ phim đầu tiên của Trung Quốc được đề cử Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất, và mặc dù bản thân Củng Lợi không nhận được giải thưởng nào, bộ phim đã đưa Củng Lợi thành một trong những tâm điểm chú ý của làng điện ảnh quốc tế.[6]

Năm 1991, bộ phim Đèn lồng đỏ treo cao đã củng cố và mở rộng tên tuổi Củng Lợi thành một ngôi sao điện ảnh ở các nước phương Tây.[7] Trong phim, cô thủ vai Tùng Liên, một cô sinh viên 19 tuổi bị gả cho một gia đình giàu có và phải đối mặt với những toan tính của những người vợ khác. Bộ phim đã giúp cho Củng Lợi giành Giải Bách hoa Nữ diễn viên chính xuất sắc đầu tiên trong sự nghiệp.[8] Vai diễn được giới phê bình quốc tế đánh giá cao nhất của Củng Lợi là vai Thu Cúc trong bộ phim Thu Cúc đi kiện (1992),[9] kể về một người phụ nữ đi tìm công lý cho người chồng bị trưởng thôn đánh.[2] Nhờ vai diễn đó mà cô nhận được Cúp Volpi cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Venezia và Giải Kim Kê cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất.[10] Năm 1994, Củng Lợi, Cát Ưu và Trương Nghệ Mưu hợp tác trong bộ phim Phải sống, kể về những biến động lịch sử của Trung Quốc thời trước và sau Nội chiến Trung Quốc. Một năm sau, cặp đôi Củng Lợi-Trương Nghệ Mưu kết thúc mối quan hệ với nhau sau khi hợp tác trong phim Hội Tam Hoàng Thượng Hải.[2]

Ngoài những bộ phim hợp tác với đạo diễn Trương Nghệ Mưu, Củng Lợi cũng tỏ ra là một nữ diễn viên xuất sắc khi hợp tác cùng các đạo diễn khác. Bộ phim Bá Vương biệt cơ (1993) đạo diễn bởi Trần Khải Ca đã giúp cô giành được Giải thưởng của Hội phê bình phim New York cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất.[11] Năm 2006, tạp chí Premiere công bố danh sách 100 màn diễn xuất xuất sắc nhất mọi thời đại; vai diễn của Củng Lợi trong Bá Vương biệt cơ được xếp hạng thứ 89 trong danh sách này.[12] Cô cũng hợp tác với đạo diễn Trần Khải Ca trong phim Phong Nguyệt (1996) và được đề cử Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất.[13] Bộ phim Breaking the Silence (giản thể: 漂亮妈妈; nôm na nghĩa là Người mẹ đẹp) của đạo diễn Tôn Chu năm 2000 đã mang lại cho Củng Lợi năm giải thưởng ở hạng mục Nữ diễn viên xuất sắc nhất: Giải Kim Kê, Liên hoan phim quốc tế Montreal, Hiệp hội phê bình phim Thượng Hải, Giải Kim Phượng hoàng và Giải Bách hoa.[14] Trong những năm thập niên 1990–2000, Củng Lợi là nữ diễn viên Trung Quốc nổi tiếng nhất tại Hoa Kỳ và các nước phương Tây.[6]

Năm 2006, Củng Lợi và Trương Nghệ Mưu tái hợp trong bộ phim cổ trang Hoàng Kim Giáp, lấy bối cảnh nhà Hậu Đường tại Trung Quốc.[15] Bộ phim giúp cô giành Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất vào năm 2007.[16] Năm 2014, cô tiếp tục hợp tác với đạo diễn họ Trương trong phim Trở về, một bộ phim với nội dung xoay quanh một gia đình Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi cuộc Cách mạng văn hóa thời Mao Trạch Đông vào thập niên 1960.[17]

Dấn thân vào Hollywood

[sửa | sửa mã nguồn]

Không chỉ dừng lại ở những bộ phim của nước nhà, Củng Lợi đã có một số vai diễn trong các bộ phim tiếng Anh và phim Hollywood. Bộ phim tiếng Anh đầu tiên cô tham gia là Hộp đêm Trung Hoa (Chinese Box, 1997).[2] Bộ phim Hollywood đầu tiên và cũng là thành công nhất có sự tham gia của Củng Lợi là phim Hồi ức của một geisha (2005). Trong phim, Củng Lợi thủ vai Hatsumomo, một geisha dù nổi tiếng nhưng lại đố kị với geisha chính của phim là Sayuri (do Chương Tử Di thủ vai) và sau đó bị đuổi khỏi okiya (ngôi nhà chung của các geisha).[18] Mặc dù bộ phim nhận được những ý kiến trái chiều, phần diễn xuất của Củng Lợi được các nhà phê bình đánh giá tích cực: tờ báo The Evening Standard của Anh nhận xét rằng Củng Lợi đã "cứu lấy bộ phim" với vai diễn đầy bí ẩn Hatsumomo.[19] Qua vai diễn trên, Củng Lợi đã giành giải Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất của Ủy ban Quốc gia về Phê bình Điện ảnh của Hoa Kỳ.[20]

Ngoài Hồi ức của một geisha, Củng Lợi còn tham gia diễn xuất trong các bộ phim Mỹ khác: Chuyên án Miami (Miami Vice, 2006), Sát nhân thịt người (Hannibal Rising, 2007) và Thượng Hải (2010).[21] Gần đây cô cũng có vai diễn trong bản chuyển thể người đóng của Hoa Mộc Lan.

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Mối quan hệ tình cảm giữa Củng Lợi và đạo diễn Trương Nghệ Mưu được dư luận Trung Quốc đặc biệt chú ý. Năm 1987, khi hai người hoàn thành những cảnh quay cho phim Cao lương đỏ, bức thư tình của Củng Lợi viết cho Trương Nghệ Mưu. Tháng 3 năm 1988, Trương Nghệ Mưu rời xa vợ để đến với Củng Lợi, và từ đó đến năm 1995, cặp đôi Trương Nghệ Mưu-Củng Lợi trở thành "cặp bài trùng" và hợp tác trong nhiều tác phẩm điện ảnh có giá trị.[22] Đến năm 1995, hai người kết thúc mối quan hệ với nhau.[23] Họ tái hợp vào năm 2006 với bộ phim Hoàng Kim Giáp và năm 2014 với phim Trở về.[24]

Năm 1996, Củng Lợi kết hôn với doanh nhân thuốc lá Singapore tên Hoàng Hòa Tường tại Hồng Kông.[25] Năm 2008, Củng Lợi nhập quốc tịch Singapore và từ bỏ quốc tịch Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vì cả hai quốc gia không chấp nhận quốc tịch kép.[26] Sau khi nhập quốc tịch Singapore, Củng Lợi bị nhiều người Trung Quốc phản đối. Đáp lại, Củng Lợi nói, "Tôi là người Trung Quốc – tôi không quan tâm đến những gì người khác nói."[27] Năm 2010, Củng Lợi và chồng ly dị và hai người không có con.[28]

Vào tháng 5 năm 2019, Củng Lợi kết hôn với nhạc sĩ Jean-Michel Jarre ở Pháp.[29]

Hình ảnh công chúng

[sửa | sửa mã nguồn]

Củng Lợi đã được bình chọn là người phụ nữ đẹp nhất ở Trung Quốc trong năm 2006.[30][31]

Ngoài những công việc liên quan đến điện ảnh, Củng Lợi được chọn làm Đại sứ Thiện nguyện cho Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) vào năm 2000.[32] Ngoài ra, cô cũng là Đại sứ Bảo vệ Môi trường Toàn cầu của Liên Hợp Quốc.[33]

Các phim đã tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai diễn
1987 Cao lương đỏ红高粱 Cửu Nhi
1989 The Empress Dowager西太后 Quế Liên
Mr. Sunshine開心巨無霸
Đại hào mĩ châu báo代号美洲豹 A Lệ
Tần dũng秦俑 Hàn Đông Nhi / Chu Lợi Lợi
1990 Cúc Đậu菊豆 Cúc Đậu
1991 Thánh bài 3賭俠2之上海灘賭聖 Như Tiên / Như Mộng
Đèn lồng đỏ treo cao大红灯笼高高挂 Tùng Liên
Hào môn dạ yến豪門夜宴 Khách mời trong bữa tiệc
1992 Thu Cúc đi kiện秋菊打官司 Thu Cúc
Mộng tỉnh thời phân夢醒時分 Mã Lợi / Mary
1993 Bá Vương biệt cơ霸王别姬 Cúc Tiên
Đường Bá Hổ điểm Thu Hương唐伯虎點秋香 Thu Hương
1994 Thiên Long Bát Bộ新天龍八部之天山童姥 Thiên Sơn Đồng Lão
Họa hồn画魂 Phan Ngọc Lương
Phải sống活着 Gia Trân
Tây Sở Bá Vương西楚霸王 Lữ Trĩ
1995 Hội Tam Hoàng Thượng Hải摇啊摇,摇到外婆桥 Tiêu Kim Bảo
1996 Phong Nguyệt风月 Bàng Như Ý
1997 Hộp đêm Trung Hoa中國匣子 Vivian
1998 Hoàng đế và Thích khách荆柯刺秦王 Triệu Phu nhân
2000 Breaking the Silence漂亮妈妈 Tôn Lệ Dĩnh
2002 Chuyến tàu Châu Ngư周渔的火车 Châu Ngư
2004 2046 Tô Lệ Trân
Thần tình yêu爱神 Cô Hoa
2005 Hồi ức của một geisha Hatsumomo
2006 Chuyên án MiamiMiami Vice Isabelle
Hoàng Kim Giáp满城尽带黄金甲 Vương Hoàng hậu
2007 Sát nhân thịt ngườiHannibal Rising Murasaki Shikibu Lecter
2010 Thượng HảiShanghai Anna Lan Tịnh
2011 Điều nàng muốn我知女人心 Lý Y Loan
2014 Trở về归来 Phùng Uyển Du
2016 Tây du ký 2: Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh西遊記之孫悟空三打白骨精 Bạch Cốt Tinh
2020 Hoa Mộc Lan Tiên Lang

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng Hạng mục Phim Kết quả
1989 Giải Bách hoa Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đại hào mĩ châu báo Đoạt giải
1992 Giải thưởng Điện ảnh Ý Nữ diễn viên nước ngoài xuất sắc nhất Đèn lồng đỏ treo cao Đề cử
Liên hoan phim Venezia Cúp Volpi cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất Thu Cúc đi kiện Đoạt giải
1993 Giải Bách hoa Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đèn lồng đỏ treo cao Đoạt giải
Giải Kim Kê Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Thu Cúc đi kiện Đoạt giải
Giải thưởng Phê bình điện ảnh Nhật Bản Nữ diễn viên nước ngoài xuất sắc nhất Đoạt giải
Hội phê bình phim New York Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Bá Vương biệt cơ Đoạt giải
1997 Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Phong Nguyệt Đề cử
2000 Giải Kim Kê Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Breaking the Silence Đoạt giải
Liên hoan phim quốc tế Montreal Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Hiệp hội phê bình phim Thượng Hải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
2001 Giải Kim Phượng hoàng Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Bách hoa Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
2005 Ủy ban Quốc gia về Phê bình Điện ảnh Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Hồi ức của một geisha Đoạt giải
Giải Vệ tinh Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
2006 Hiệp hội phê bình phim Hồng Kông Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Hoàng Kim Giáp Đoạt giải
2007 Liên hoan phim châu Á Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Kim Tử kinh tưởng Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
2014 Liên hoan phim Trường Xuân Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Trở về Đoạt giải
Giải Kim Mã Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
2015 Giải thưởng Hội đạo diễn phim Trung Quốc Nữ diễn viên của năm Đoạt giải

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Củng Lợi.
  • Củng Lợi trên IMDb

Nguồn tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Kehr, Dave (ngày 16 tháng 7 năm 2004). “Torn Between a Dreamy Idealist and a Veterinarian”. The New York Times. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2008.
  2. ^ a b c d e f Jonathan Crow. “Gong Li – Biography”. AllMovie (The New York Times). Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2016.
  3. ^ a b “Who Is Gong Li?”. Charlest (Whipple). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2001. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2016.
  4. ^ Roger Ebert (28 tháng 2 năm 1989). “Red Sorghum”. Chicago Sun-Times. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  5. ^ Tan Ye, Yun Zhu (2012). Historical Dictionary of Chinese Cinema. Scarecrow Press. tr. 65–67.
  6. ^ a b Harry H. Kuoshu (2002). Celluloid China: Cinematic Encounters with Culture and Society. SIU Press. tr. 151–154.
  7. ^ A. D. Stefanowska (2003). 中國婦女傳記詞典 (bằng tiếng Trung). M.E. Sharpe. tr. 177. ISBN 9780765607980.
  8. ^ “历届大众电影百花奖获奖名单” (bằng tiếng Trung). Tân Hoa xã. tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  9. ^ James F. Scotton, William A. Hachten (2010). New Media for a New China. John Wiley & Sons. tr. 180.
  10. ^ “Gong Li Awards for 'The Story of Qiu Ju'”. Cổng Thông tin quốc tế Trung Hoa. 18 tháng 6 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2016.
  11. ^ “Awards – New York Film Critics Circle”. Hội phê bình phim New York. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  12. ^ “100 Greatest Movie Performance of All Time”. Premiere. tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  13. ^ “第16屆香港電影金像獎得獎名單” (bằng tiếng Trung). Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  14. ^ “Gong Li Awards for 'Breaking the Silence'”. Cổng Thông tin quốc tế Trung Hoa. 18 tháng 6 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2016.
  15. ^ Jonathan Watss (6 tháng 4 năm 2007). “'I don't go to Hollywood. Hollywood goes to China'”. The Guardian. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  16. ^ “26th Winner List”. Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  17. ^ Bob Mondello (9 tháng 9 năm 2015). “'Coming Home' To Heartache and Hope”. NPR. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  18. ^ Quỳnh Như (17 tháng 12 năm 2005). “Geisha – Lối vào Hollywood của Củng Lợi”. Thanh niên. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  19. ^ "Dazzled by the Tricks of an Exotic Trade". The Evening Standard (Luân Đôn, Anh), 12 tháng 1 năm 2006: tr. 34.
  20. ^ “Best Supporting Actress – National Board of Film Review”. Ủy ban Quốc gia về Phê bình Điện ảnh. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  21. ^ “Roles of fame: Gong Li returns for new movie”. South China Morning Post. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  22. ^ Hải Lan (8 tháng 5 năm 2013). “Thư tình Củng Lợi viết cho Trương Nghệ Mưu”. VnExpress. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  23. ^ Howard Feinstein (16 tháng 6 năm 2000). “Life after Gong Li”. The Guardian. Truy cập 3 tháng 4 năm 2015.
  24. ^ Lynden Barber (ngày 25 tháng 2 năm 2015). “Favourite star Gong Li shines for Zhang Yimou”. The Australian. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2015.
  25. ^ Elaine Louie (29 tháng 10 năm 1996). “Chronicle: Gong Li”. 146 (50595). The New York Times. tr. B16.
  26. ^ “Gong Li 'divorces Singaporean husband'”. The Telegraph. 30 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  27. ^ Michael Bristow (13 tháng 6 năm 2010). “Gong Li on Hollywood and hunger”. BBC. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  28. ^ Melissa Aw (18 tháng 5 năm 2012). “Gong Li split S'porean husband 3 years ago”. Yahoo!. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  29. ^ “Jean Michel Jarre Secretly Marries Actress Gong Li”. 20 tháng 5 năm 2019.
  30. ^ “Gong Li voted China's Most Beautiful Person”. China Daily. ngày 23 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2007.
  31. ^ Min, Shen (ngày 22 tháng 5 năm 2006). “Gong Li Voted China's Most Beautiful Star”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2007.
  32. ^ “Get Involved: Gong Li”. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2016.
  33. ^ “UN displays Chinese actress Gong Li portrait”. China Daily. 22 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2016.
  • x
  • t
  • s
Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất
Thập niên 1980
  • Huệ Anh Hồng (1982)
  • Lâm Bích Kỳ (1983)
  • Diệp Đồng (1984)
  • Tư Cầm Cao Oa (1985)
  • Vương Tiểu Phượng (1986)
  • Trương Ngải Gia (1987)
  • Tiêu Phương Phương (1988)
  • Mai Diễm Phương (1989)
Thập niên 1990
  • Trương Mạn Ngọc (1990)
  • Trịnh Du Linh (1991)
  • Diệp Đồng (1992)
  • Trương Mạn Ngọc (1993)
  • Viên Vịnh Nghi (1994)
  • Viên Vịnh Nghi (1995)
  • Tiêu Phương Phương (1996)
  • Trương Mạn Ngọc (1997)
  • Trương Mạn Ngọc (1998)
  • Ngô Quân Như (1999)
Thập niên 2000
  • La Lan (2000)
  • Trương Mạn Ngọc (2001)
  • Trương Ngải Gia (2002)
  • Lý Tâm Khiết (2003)
  • Trương Bá Chi (2004)
  • Chương Tử Di (2005)
  • Châu Tấn (2006)
  • Củng Lợi (2007)
  • Tư Cầm Cao Oa (2008)
  • Bào Khởi Tĩnh (2009)
Thập niên 2010
  • Huệ Anh Hồng (2010)
  • Lưu Gia Linh (2011)
  • Diệp Đức Nhàn (2012)
  • Dương Thiên Hoa (2013)
  • Chương Tử Di (2014)
  • Triệu Vy (2015)
  • Xuân Hạ (2016)
  • Huệ Anh Hồng (2017)
  • Mao Thuấn Quân (2018)
  • Tằng Mỹ Huệ Tư (2019)
Thập niên 2020
  • Châu Đông Vũ (2020)
  • Lưu Nhã Sắt (2022)
  • Trịnh Tú Văn (2023)
  • Dư Hương Ngưng (2024)
  • x
  • t
  • s
Giải thưởng Hiệp hội Phê bình Điện ảnh Hồng Kông cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất
  • Trần Xung (1994)
  • Tư Cầm Cao Oa/Tiêu Phương Phương (1995)
  • Trương Mạn Ngọc (1996)
  • Ngô Thanh Liên (1997)
  • Ngô Quân Như (1998)
  • La Lan (1999)
  • Tần Hải Lộ (2000)
  • Trịnh Tú Văn (2001)
  • Vương Phi (2002)
  • Trương Bá Chi (2003)
  • Chương Tử Di (2004)
  • Châu Tấn (2005)
  • Củng Lợi (2006)
  • Tư Cầm Cao Oa (2007)
  • Bào Khởi Tịnh (2008)
  • Huệ Anh Hồng (2009)
  • Dương Thiên Hoa (2010)
  • Diệp Đức Nhàn (2011)
  • Không trao giải (2012)
  • Chương Tử Di (2013)
  • Triệu Vy (2014)
  • Xuân Hạ (2015)
  • Châu Đông Vũ (2016)
  • Đặng Lệ Hân (2017)
  • Tằng Mỹ Huệ Tư (2018)
  • Thái Tư Vận (2019)
  • Củng Lợi (2020)
  • x
  • t
  • s
Giải Kim Kê cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất
Thập niên 1980
  • 1981 (1):Trương Du
  • 1982 (2):Lý Tú Minh
  • 1983 (3):Phan Hồng, Tư Cầm Cao Oa
  • 1984 (4):Cung Tuyết
  • 1985 (5):Lý Linh
  • 1986 (6):Nhạc Hồng
  • 1987 (7):Lưu Hiểu Khánh
  • 1988 (8):Phan Hồng
  • 1989 (9):Từ Thủ Lị
Thập niên 1990
  • 1990 (10): Không
  • 1991 (11):Hề Mỹ Quyên
  • 1992 (12):Tống Hiểu Anh
  • 1993 (13):Củng Lợi
  • 1994 (14):Phan Hồng
  • 1995 (15):Ngải Lệ Á
  • 1996 (16):Tống Xuân Lệ
  • 1997 (17):Vu Tuệ
  • 1998 (18):Dao Hồng
  • 1999 (19):Ninh Tịnh
Thập niên 2000
  • 2000 (20):Củng Lợi
  • 2001 (21):Tống Xuân Lệ
  • 2002 (22):Dao Hồng, Nghê Bình
  • 2003 (23):Dư Nam
  • 2004 (24):Trịnh Chân Dao, Chương Tử Di
  • 2005 (25):Kim Nhã Cầm
  • 2007 (26):Lưu Gia Linh, Nhan Bính Yến
  • 2009 (27):Tưởng Văn Lệ, Châu Tấn
Thập niên 2010
  • 2011 (28):Na Nhân Hoa
  • 2013 (29):Tống Giai
  • 2015 (30):Badema
  • 2017 (31):Phạm Băng Băng
  • 2019 (32):Vịnh Mai
Thập niên 2020
  • 2020 (33):Châu Đông Vũ
  • 2021 (34):Trương Tiểu Phỉ
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất

Từ khóa » Cũng Lợi Wiki