đa Chiều Kích - Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân
Có thể bạn quan tâm
Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lý |
HOME TÌM HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
| ĐA CHIỀU KÍCH VÀ KHÔNG GIAN CHẲNG HỀ TRỐNG RỖNG (Multidimensionality and No Empty Space) Tác giả TIM BOYD Bài đăng trong Tạp chí Nhà Thông Thiên Học số tháng 8 năm 2016 Bản dịch www.thongthienhoc.com |
|
Một trong những nguyên lý sâu sắc do H. P. Blavatsky đưa ra cho thế giới thông qua việc tái giới thiệu Thông Thiên Học, đó là ý tưởng ta là những thực thể “đa chiều kích” ở trong một vũ trụ đa chiều kích. Người ta đã cố gắng rất nhiều để định nghĩa và mô tả nhiều cõi khác nhau trong Thiên nhiên mà ta đang hoạt động trong đó. Theo quan điểm Thông Thiên Học thì ta có khuynh hướng suy nghĩ theo kiểu bảy cõi. Giờ đây ý tưởng cho rằng mức nhận thức bình thường của ta chỉ là một trong nhiều mức ắt dễ cho ta chấp nhận hơn so với thời mà H. P. B. trình bày những ý tưởng này - thời ấy phổ điện từ chỉ mới được khám phá và định nghĩa.
Mặc dù điều này có thể không nổi bật trong tâm trí ta, song ta vẫn biết rằng không gian xung quanh ta chứa đầy đủ thứ sóng thuộc đủ mọi loại. Bất cứ ai có một điện thoại di động đều biết rằng khi điện thoại rung chuông thì nguyên nhân là vì có một kiểu mẫu chuyên biệt các năng lượng thuộc một loại hình đặc thù. Những năng lượng này đang vây quanh ta mọi lúc, mọi nơi, nhưng ta chỉ nhận thức được phần nhỏ nhất của phổ điện từ ấy. Ta biết rõ nhất về một dải tần số hạn chế trong chiều kích vật lý. Nếu ngón tay ta bị phỏng thì chú ý của ta bèn tập trung vào cái thể xác này. Mọi thứ có liên quan tới cảm giác đều liên kết ta với thế giới vật lý này - đó là một mức.
Tương tự như với những xúc cảm của ta, khi ta buồn hoặc hạnh phúc thì ta biết rõ sâu sắc cái mức độ tâm thức xúc động khác với các mức độ tâm thức vật lý. Điều này cũng áp dụng cho những tư tưởng với những phẩm chất khác nhau, có những tư tưởng bắt nguồn từ những sự vật cụ thể trong thế giới vật lý và những tư tưởng mang tính cách trừu tượng khái niệm hơn. Đây là những cõi tức bình diện tâm thức mà ta quen thuộc nhất. Thế nhưng trong giáo huấn Thông Thiên Học, người ta bảo rằng có những chiều kích, những cõi tồn tại mà ta có thể hoạt động và thật sự hoạt động trên đó, những cõi này vượt xa những cõi nêu trên.
Tại sao ta lại không biết tới những chiều kích mở rộng hơn này trong bản thể của mình? H. P. B. có bảo rằng: “Bất cứ khi nào cõi tâm thức của ta tác động trên cõi ấy thì cả ta lẫn những sự vật thuộc về cõi ấy đều nhất thời là những thực tại duy nhất”. Khi ta rất giận dữ hoặc buồn bã về một điều gì đó thì ta quên mất cơ thể của mình, ta quên ăn, quên ngủ. Nếu tâm trí ta tập trung vào địa hạt xúc động thì những xúc động là có thực đối với ta thôi -không điều gì bên trên hoặc bên dưới nó được coi là có thực - đối với ta. Cõi (tức bình diện tâm thức) mà tri giác của ta tập trung vào đấy ắt xác định điều gì là có thực ngay lúc cho sẵn ấy.
Một ứng dụng quan trọng của nguyên lý này giúp cho ta làm quen với đủ mức tâm thức mà ta hoạt động trên đó. Có một phép thiền quen thuộc xuyên suốt qui trình này. Đôi khi người ta mô tả nó là thiền về các hạ thể, trong đó khi thực hành thiền, ta tập trung chú tâm trước hết đối với những cảm giác của thể xác. Khi ta đang ngồi thì ta tri giác được áp lực của ghế ngồi, của không khí xung quanh ta, ánh sáng mà ta nhìn thấy; ta tri giác được địa hạt vật lý và những cảm giác băng qua tâm thức của ta. Khi ta đào sâu vào trạng thái chú ý này thì thiên hạ có thể tri giác được tim mình đang đập, người ta có thể cảm nhận được dòng máu đang chảy, thậm chí thường cảm nhận được sự vận chuyển của năng lượng thần kinh xuyên qua cơ thể; điều này lúc nào cũng xảy ra nhưng thường thường ở dưới mức mà ta tri giác được.
Ta quan sát những cảm giác này và việc nhận thức xuất lộ qua qui trình ấy bởi vì nếu ta có thể nhìn thấy và quan sát được những cảm giác này thì ta ắt là một điều gì khác nữa. Ta không phải là cái thể xác này. Thế rồi ta lập lại qui trình này với xúc động, với đủ loại tư tưởng và với chính cái trí nữa. Qui trình này bao trùm việc chú ý, quan sát và nhận thức cho thấy rằng không phải mọi thứ như vậy là đủ rồi, mà còn có thêm một cái gì khác nữa. Mục tiêu có loại thao dượt này là ta trở nên quen thuộc với nhiều mức khác nhau mà ta có thể hoạt động trên đó. Sự quen thuộc này tạo ra cho ta cơ hội sử dụng hữu hiệu đủ thứ khía cạnh trong bản thể của ta. Tính đa chiều kích này trực tiếp liên quan tới nguyên lý “không gian chẳng hề trống rỗng”.
Ý niệm “không gian chẳng hề trống rỗng” là ở chỗ đây là một vũ trụ thông minh và đâu đâu cũng có trí tuệ. Trí tuệ chọn dùng đủ thứ hình tướng, một số hình tướng ta nhìn thấy được, còn hầu hết hình tướng ta không nhìn thấy. Trong Thư của các Chơn sư có một cụm từ kỳ diệu nói tới tương tác của ta với không gian xung quanh và những hình tướng cư ngụ trong không gian ấy. Trong thư đầu tiên của Chơn sư khi gửi cho A. O. Hume, ngài có bảo rằng: “Con người đang liên tục làm cho dòng chảy trong không gian của mình ken đặc thế giới của riêng mình, lúc nhúc đám hậu duệ của óc hoang tưởng, ham muốn, xung động và đam mê”. Mỗi tư tưởng đi ra từ tâm trí ta đều khoác lấy một hình tướng, một sự vật sống động thu hút những sự vật khác thuộc cùng loại. Tùy theo quyền năng tư tưởng của ta, thực thể này sống động, vận động và lưu hành trong nội bộ môi trường tư tưởng chung trong một thời gian dài hay ngắn tỉ lệ với quyền năng tư tưởng của ta.
Nói về những điều vượt ngoài tầm nhận thức bình thường của ta đôi khi có vẻ kỳ quặc giống như nói tới thế giới bên kia. Một trong những lời khuyên mà chúng tôi tâm đắc khi cố gắng lĩnh hội những chiều kích ẩn tàng này, đó là công lý tiên đề của Hermes: “Trên sao dưới vậy, trong sao ngoài vậy”. Nói cách khác, không có sự đứt đoạn trong những qui luật chi phối địa hạt vật lý, xúc động hoặc bất kỳ địa hạt nào khác mà ta đang tồn tại trong đó. Xét ví dụ thu hút những sinh linh khác nhau, hướng về những tư tưởng mà ta tạo ra thì có thể có một ví dụ tương tư hữu ích: Nếu ta lấy một chén mật để ra ngoài cửa thì nó ắt thu hút một vài loại tạo vật: ong, bướm, kiến v.v. . . Đây chẳng phải là điều gì huyền bí đối với ta, lúc nào ta cũng chứng kiến điều ấy. Tương tự như vậy, nếu ta để một đống rác đang thối rữa ra ngoài thì nó ắt thu hút một loại sinh linh khác. Đó ắt không phải là bướm hoặc ong mà là ruồi, dòi bọ v.v. . . Cũng giống như vậy “hương thơm” của tư tưởng ta thu hút một đám sinh linh. Theo lời Chơn sư thì cái dòng chảy từ chúng ta đi ra liên tục làm ken đặc không gian cũng theo cái cách thức ấy.
Lại nữa, nếu ta đã từng trải nghiệm việc ngồi trước mặt một người nào đấy đang nản chí, giận giữ, thì ta hãy liệu hồn đừng để mắt tới họ, chuyện trò với họ, hoặc nhận biết họ bởi vì nếu ta không cẩn thận thì ta ắt bị lây nhiễm. Đứng trước sự trầm cảm nản chí thì khi bỏ đi ta cũng cảm thấy mình bị kiệt sức, cho nên ta không tiến hành tránh né nó thì hãy liệu hồn. Khi giáp mặt với cơn giận dữ thì ta ắt cảm thấy khó chịu hoặc không an tâm. Có một bầu hào quang, một đám lúc nhúc bị thu hút xung quanh mỗi người chúng ta. Công việc của ta là phải chọn lựa cái đám đông đang bu lấy ta ấy.
Trong truyền thống Minh Triết Ngàn Đời, hoặc bất kỳ truyền thống tinh thần nào, ta thấy có nhiều sự khác nhau từ chỗ này sang chỗ khác, nhưng vẫn có một điều trước sau như nhất bất kể trong truyền thuyết nào. Ở Á đông thì người ta dùng thuật ngữ “thần chú” mantra để miêu tả điều này. Ở Âu Mỹ thì ta gọi nó là “cầu nguyện”. Mọi truyền thống đều nói tới sự ích lợi và hữu hiệu của việc trì chú đúng hoặc cầu nguyện đúng. Phần nào thì nó liên quan tới việc làm cho ta quen thuộc với những mức độ hiện tồn khác vốn đang liên tục hoạt động bên trong ta và xung quanh ta. Cũng giống như có những thứ lực bị thu hút về phía sự giận dữ, oán ghét và buồn bã, thì cũng có những lực lượng bị thu hút về phía sự yên bình. Có những kẻ yêu chuộng sự yên bình tụ tập lại cũng giống như loài bướm tụ lại quanh một đóa hoa. Các truyền thống khác nhau gọi chúng bằng nhiều tên gọi khác nhau như Thiên Thần, chư Thiên và những tên gọi khác.
Ta có biết những thần chú và lời cầu nguyện đặc biệt mạnh mẽ. Khi Muhammad được kêu gọi ngâm những câu thơ đầu tiên trong kinh Coran, ông không đọc được vì ông mù chữ. Khi Tổng Thiên thần Gabriel xuất hiện trước mặt ông giơ ra tấm bảng, rồi yêu cầu ông ngâm lên điều được viết trên đó thì Muhammad bảo rằng: “Con không ngâm được vì con không đọc được!”. Tổng Thiên thần dạy: “Cứ ngâm đi, Cứ đọc đi”, thế là Muhammad đọc và sự ngâm vịnh của ông trở thành kinh Coran, đó là việc thuật lại tất cả nhiều sự thật được trao truyền cho ông theo cách này.
Trong Ánh Sáng Trên Đường Đạo, ta thấy có một đoạn hấp dẫn đề cập tới việc đọc. Nó bảo rằng: “Đọc theo ý nghĩa huyền bí là đọc bằng cặp mắt tinh thần”. Nếu bạn hỏi thì bạn ắt có. Thế rồi vấn đề được thắc mắc là: Tại sao người thường lúc nào cũng yêu cầu mà chẳng nhận được điều gì. Câu trả lời là thường thường khi ta yêu cầu thì ta yêu cầu bằng cái trí và lời giải đáp mà ta có thể nhận được không vượt qua cái trí hữu hạn. Nhưng thật sự yêu cầu không chỉ là tìm kiếm thông tin, mà sự yêu cầu ấy phải xuất phát từ một đói khát có ở bên trong ta - sự đói khát sinh ra do hoài bão tinh thần. Chỉ lúc bấy giờ ta mới nhận được một lời giải đáp và lúc bấy giờ ta mới nhìn thấy, đọc thấy, ngâm vịnh. Nhưng khi chưa đạt tới mức ấy thì ta chỉ yêu cầu bằng cái trí và ắt nhận được những lời giải đáp xứng đáng với cái trí như thế.
Cầu nguyện tức chân ngôn mantra bắt nguồn từ sự đói khát Đấng thiêng liêng. Nhiều chân ngôn mantra và lời cầu nguyện có một quyền năng tinh thần nào đấy chỉ qua những phẩm tính của âm thanh thôi. Nhưng chỉ khi một ý định thâm thúy hơn và sự thông hiểu khiến cho ta có thể liên kết với cái lời cầu nguyện ấy thì nó mới trở thành một điều gì đấy có thể nối kết ta được. Một lời cầu nguyện theo truyền thống kinh Phệ đà mà ta quen thuộc nghe đâu rất có tác dụng, đó chính là chân ngôn Gāyatri. I. K. Taimni đã nói rất nhiều về điều đó trong quyển sách tuyệt hảo Gāyatri, Phép Thực hành Tôn giáo Hằng ngày của tín đồ Ấn giáo. Nhưng cần có một phép thực hành sơ bộ trước khi ta thậm chí bước vào thật sự cầu nguyện. Nó đòi hỏi ta phải hiến mình cho những thần lực cao siêu tác động ở các bình diện khác nhau trong bản thể ta. Nó có liên kết với bảy luân xa biểu diễn những môi trường của tâm thức: Om Bhuh (luân xa chót xương sống); Om Bhuvah (luân xa lá lách); Om Suvah (luân xa rún); Om Mahah (luân xa tim); Om Janaha (luân xa họng); Om Tapah (luân xa giữa hai chân mày); Om Satyam (luân xa đỉnh đầu). Đây là một phép thực hành chính qui đòi hỏi ta phải làm quen với tính thông tuệ và những quyền năng ngự trong Thiên nhiên cũng như bên trong ta. Đây là phép thực hành sơ khởi của Gāyatri. Người ta khuyên nên thực hành nó trên cơ sở hàng ngày. Muốn biết những điều khác xin các bạn hãy tham chiếu quyển sách của I. K. Taimni.
Còn một lời cầu nguyện nữa mà tôi sẽ chia xẻ, có tác giả vô danh thị theo truyền thống Kitô giáo. Lần đầu tiên tôi bắt gặp nó là bộ phận của phần dẫn nhập một quyển sách nhỏ bàn về thần bí học thực tiễn. Đó là quyển Đám Mây Huyền Vi. Vì nó là một lời cầu nguyện Kitô giáo cho nên nó ngỏ lời với Thượng Đế với vai trò là Đấng thiêng liêng.
Hỡi Thượng Đế mà mọi tâm hồn đều cởi mở đối với ngài,
mà ham muốn hùng biện đối với ngài,
và không có điều gì bí mật được che giấu ngài;
Xin ngài hãy tẩy rửa tư tưởng trong tâm hồn con
bằng việc tuôn đổ thần khí của ngài,
để cho con có thể yêu thương ngài bằng một tình thương trọn vẹn
và ca ngợi ngài đúng như ngài xứng đáng.
Trong ví dụ đặc thù này, ta có thể phân tích bằng trí, nhưng bộ phận quan trọng hơn là mối liên kết với hoài bão tinh thần ở bên trong. Lời câu chuyện này bắt đầu bằng việc công nhận điều vốn thiêng liêng và vô hạn, có một sự giải thoát nào đấy mang khía cạnh là ý tưởng công nhận Thượng Đế, tính Đơn nhất, Nhất như, mà mọi tâm hồn đều hoàn toàn cởi mở đối với ngài và được ngài thấy rõ. Có một sự tự do nào đấy theo ý nghĩa là không cần phải bảo vệ chúng ta chống lại Đấng thiêng liêng. Tất cả đều cởi mở và “không một điều bí mật nào được che giấu đối với ngài”.
Bất cứ ai đã trải nghiệm sinh hoạt trong thế giới này một số năm, ắt có kinh nghiệm ứng xử ở một mức độ nào đấy theo những phương cách mà có lẽ họ chẳng muốn như vậy. Rất thường khi người ta tốn nhiều năng lượng để cố gắng giữ trong tâm hồn mình những điều “bí mật”, che giấu chúng. Có lẽ đi tới kể lể với người lân cận không phải là chuyện tốt, nhưng chắc chắn trong sự tịch lặng của buổi tham thiền, người ta có thể cảm nhận được trở lại tính cởi mở là một tiềm năng giải thoát.
Sự hùng biện là một cách để nói điều mang tính thuyết phục. “Đối với ngài thì ham muốn mang tính hùng biện nhằm nói tới cái sự ham muốn thuyết phục Đấng thiêng liêng đến viếng chúng ta, sinh hoạt bên trong ta, vận động từ bên trong ta ra bên ngoài. Ham muốn của ta là được hiệp nhất với Đấng thiêng liêng, trải nghiệm tính Đơn nhất, Nhất như. Ham muốn này thuyết phục ta gở bỏ những hàng rào cá nhân. Đây là khía cạnh công nhận của lời cầu nguyện này. Phần kế tiếp là lời khẩn khoản, thỉnh cầu “hãy thanh tẩy tư tưởng trong tâm hồn con”, những tư tưởng hết lúc này đến lúc khác cứ đi xuyên qua tâm hồn con. Tại sao vậy? Để cho “con có thể yêu thương ngài”, để cho con có thể biểu hiện một tình thương vô hạn, chính Đấng thiêng liêng được con “yêu thương trọn vẹn và ca ngợi đúng như ngài xứng đáng .
Thắc mắc mà tôi kết thúc đó là: Đâu là lời ca ngợi xứng đáng với Đấng thiêng liêng, Đấng Nhất như với mọi biểu hiện của nó? Liệu nó có ngụ ý là ta hát lên những bài ca về vẻ đẹp của vạn vật hoặc nói những lời lẽ với nhau hay nó còn có nghĩa gì khác nữa? Tôi xin gợi ý rằng có lẽ lời ca ngợi sâu sắc nhất mà ta có thể hiến ra đó là công nhận sự hiện diện của Đấng thiêng liêng này nơi mọi người, mọi vật, nơi trọn cả không gian mà ta dường như nghĩ là nó trống rỗng, nó hằng hiện diện, hằng dũng mãnh và toàn tri. Đây là lời ca ngợi hay nhất mà ta có thể hiến ra được.
Trí trực giác là một năng khiếu thiêng liêng, còn trí thuần lý là kẻ giúp việc trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội tôn vinh kẻ giúp việc mà lại bỏ quên năng khiếu thiên tài. Chúng ta ắt không giải quyết được những vấn đề trên thế giới xuất phát từ cùng một mức suy nghĩ giống như khi ta tạo ra những vấn đề ấy. Hơn bao giờ hết, cái thế kỷ mới này đòi hỏi ta suy tư theo kiểu mới: Ta phải thay đổi những phân tích dựa trên mặt vật chất đối với cái thế giới xung quanh ta thì mới bao quát được những viễn cảnh rộng lớn hơn, nhiều chiều kích hơn.
Albert Einstein
HOME TÌM HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
Từ khóa » đa Chiều Kích
-
Top 15 đa Chiều Kích Là Gì
-
Các Chiều Kích Không Gian, Khoa Học Tâm Linh
-
Starseed Đa Chiều Kích - Những Bậc Thầy Thăng Lên Thật Sự
-
Nhận Thức đa Chiều Kích - Home | Facebook
-
Chiều Kích - Wiktionary Tiếng Việt
-
Con Người - Cơ Thể đa Chiều Kích | Sách Nói Tâm Linh | - YouTube
-
Con Người - Cơ Thể đa Chiều Kích-SÁCH TÂM LINH - Amazon Music
-
Các Chiều Kích Của Hệ Thống – Phần I - CSCI INDOCHINA
-
Mật độ Rung động Trong Các Chiều Kích Và Sự Tiến Hóa Của Con Người
-
Các Chiều Kích Không Gian, Thần Phật Sống ở đâu?
-
Chiều Kích Không Gian - PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN DẤU ẤN ĐỊA ...
-
Đế Pin 18650 1x5 Lắp Ghép Đa Chiều - Thegioiic
-
Chiều Kích Thứ Tư Trong Mưa Nguồn Và Lá Hoa Cồn Của Bùi Giáng
-
Chiều Kích đặc Biệt Của Con Người Trong Nhạc Trịnh Công Sơn