Đà Lạt – Wikipedia Tiếng Việt

Thành phố Đà Lạt nằm trên cao nguyên Lâm Viên, nơi có độ cao khoảng 1.500m so với mực nước biển. Thành phố có tọa độ địa lý 11°48′36″ đến 12°01′07″ vĩ độ bắc – 108°19′23″ đến 108°36′27″ kinh độ đông, cách Thành phố Hồ Chí Minh 307 km về phía bắc, cách thành phố Hà Nội 1.500 km, cách Đà Nẵng 658 km về phía nam, có vị trí địa lý:

  • Phía đông và đông nam giáp huyện Đơn Dương
  • Phía tây giáp huyện Lâm Hà
  • Phía nam giáp huyện Đức Trọng
  • Phía bắc giáp huyện Lạc Dương.
 
Quang cảnh Đà Lạt với những dãy núi phía xa bao bọc khu vực trung tâm thành phố
 
Quang cảnh Đà Lạt nhìn từ trên cao

Địa hình

sửa

Địa hình Đà Lạt được phân thành hai dạng rõ rệt: địa hình núi và địa hình bình nguyên trên núi.[9] Địa hình núi phân bố xung quanh vùng cao nguyên trung tâm thành phố. Các dãy núi cao khoảng 1.700 mét tạo thành một vành đai chắn gió che cho khu vực lòng chảo trung tâm.[10] Từ thành phố nhìn về hướng bắc, núi Langbiang như một tường thành theo hướng đông bắc – tây nam, kéo dài từ suối Đạ Sar đến hồ Dankia. Hai đỉnh cao nhất của dãy núi này có độ cao 2.167 mét và 2.064 mét.[9] Án ngữ phía đông và đông nam Đà Lạt là hai dãy Bi Doup và Cho Proline. Về phía nam, địa hình núi chuyển tiếp sang bậc địa hình thấp hơn, đặc trưng là khu vực đèo Prenn với các dãy núi cao xen kẽ những thung lũng sâu.[11] Trung tâm Đà Lạt như một lòng chảo hình bầu dục dọc theo hướng bắc – nam với chiều dài khoảng 18 km, chiều rộng khoảng 12 km. Những dãy đồi đỉnh tròn ở đây có độ cao tương đối đồng đều nhau, sườn thoải về hướng hồ Xuân Hương và dần cao về phía các vùng núi bao quanh.[11] Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là dinh Nguyễn Hữu Hào trong Bảo tàng Lâm Đồng với độ cao 1.532m, còn điểm thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương, độ cao 1.398m.[12]

Trên địa phận thành phố Đà Lạt, xen giữa vùng đồi thấp trung tâm thành phố và các dãy núi bao quanh, có thể thấy hơn 20 dòng suối có chiều dài trên 4 km, thuộc các hệ thống suối Cam Ly, Đa Tam và hệ thống sông Đa Nhim. Đây đều là những con suối đầu nguồn thuộc lưu vực sông Đồng Nai, trong đó hơn một nửa là các con suối cạn, chỉ chảy vào mùa mưa và cạn kiệt vào mùa khô.[13] Suối Cam Ly dài 64,1 km, bắt nguồn từ huyện Lạc Dương, chảy theo hướng bắc – nam và đổ vào hồ Xuân Hương. Đây chính là hệ thống suối lớn nhất Đà Lạt, có vai trò quan trọng trong việc tạo cảnh quan cho khu vực đô thị trung tâm.[14] Đà Lạt còn nổi tiếng là thành phố của hồ và thác với khoảng 16 hồ lớn nhỏ phân bố rải rác, phần nhiều là các hồ nhân tạo.[15] Hồ Xuân Hương nằm ở trung tâm thành phố, rộng khoảng 38 ha, được tạo lập năm 1919 trong quá trình xây dựng Đà Lạt.[16] Trước năm 1986, hồ Xuân Hương cùng hồ Chiến Thắng và hồ Than Thở là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho thành phố. Ngày nay, nguồn nước sinh hoạt được dẫn về từ hồ Dankia thuộc huyện Lạc Dương, cách Đà Lạt khoảng 17 km.[15]

Khí hậu

sửa
 
Hồ Xuân Hương nằm ở trung tâm thành phố, một trong những biểu tượng của Đà Lạt

Do nằm ở độ cao 1.500 mét và được các dãy núi cùng quần hệ thực vật rừng, đặc biệt là rừng thông bao quanh, nên đối lập với khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền trung và khí hậu nhiệt đới xavan ở miền nam, thành phố Đà Lạt có một khí hậu miền núi ôn hòa dịu mát quanh năm.[17]

Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới xavan, Đà Lạt có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ cuối tháng 4 và kết thúc vào tháng 10. Còn mùa khô kéo dài từ tháng 11 năm trước đến đầu tháng 4

Nhiệt độ trung bình tháng ở Đà Lạt luôn dưới 23°C, ngay cả trong những tháng nóng nhất. Tuy vậy, Đà Lạt cũng không phải là nơi có nhiệt độ trung bình tháng thấp nếu so với các tỉnh thành phố miền bắc có khí hậu cận nhiệt đới. Trong những tháng mùa đông, nhiệt độ trung bình tháng vẫn trên 15 °C.[18] Theo số liệu thống kê từ năm 1964 tới năm 1998, nhiệt độ trung bình năm ở Đà Lạt là 2,9 °C, trong đó năm 1973 có nhiệt độ trung bình cao nhất lên đến 18,5 °C, còn năm 1967 nhiệt độ trung bình xuống thấp nhất, 17,4 °C.[18] Nếu so sánh với Sa Pa, thị xã nghỉ dưỡng ở miền Bắc ở độ cao 1.581m so với mặt biển và nằm trong vùng cận nhiệt đới, thì nhiệt độ trung bình năm ở Đà Lạt cao hơn 2,6 °C. Vào thời điểm cuối năm, nhiệt độ vào ban đêm có thể xuống thấp từ 10 °C đến 12 °C thậm chí xuống dưới 9 °C. Buổi sáng vào mùa đông, Đà Lạt có mưa phùn và trời ít khi có nắng. [19] và nếu xét riêng các tháng mùa đông thì nhiệt độ trung bình của Đà Lạt cao hơn Sapa đến 7 °C (tuy nhiên về mùa hè Sapa thường ấm hơn khoảng 2 °C đến 3 °C so với Đà Lạt không đáng kể).

Biên độ nhiệt độ ngày đêm ở Đà Lạt rất lớn, trung bình năm đạt 10 °C, cao nhất trong những tháng mùa khô, lên tới 13 – 14 °C, và thấp nhất trong những tháng mùa mưa, chỉ khoảng 6 – 7 °C. Ngược lại, biên độ nhiệt trung bình giữa các tháng trong năm lại nhỏ, tháng ấm nhất và tháng lạnh nhất cũng chỉ chênh lệch 3,5 °C.[20] Độ dài ngày trong các mùa ở Đà Lạt không có sự chênh lệch lớn, trung bình khoảng từ 11 đến ít hơn 12 giờ vào mùa đông và trên 12 giờ vào mùa hè.[17] Tổng số giờ nắng trong năm ở đây tương đối cao, khoảng 2.236 giờ một năm, tập trung chủ yếu vào các tháng 12, 1, 2 và 3 của mùa khô.[21] Tổng lượng bức xạ thu nhập ở Đà Lạt khoảng 140 kCalo/cm²/năm, nhiều nhất vào tháng 3 và ít nhất vào tháng 9.[17] Nếu so với các vùng lân cận, lượng bức xạ Mặt Trời của Đà Lạt không cao, nhưng đây là nguồn năng lượng chủ yếu cho các quá trình trao đổi nhiệt, mang lại nền nhiệt độ thấp và tương đối ôn hòa.[22]

Mùa mưa ở Đà Lạt thường bắt đầu vào cuối tháng 4, đầu tháng 5 và kết thúc vào khoảng cuối tháng 10 . Tuy hàng năm, thời điểm bắt đầu và kết thúc của mùa mưa có thể thay đổi, nhưng mùa mưa ở đây thường kéo dài khoảng hơn 6 tháng.[23] Trung bình, một năm Đà Lạt có 160 ngày mưa với lượng mưa 1.768 mm, tập trung nhiều nhất vào tháng 7 và từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 10 bởi thời gian này là sự hoạt động mạnh của trường gió mùa tây nam. Nếu lấy trung bình từ tháng 5 tới tháng 10, tổng lượng mưa trong mùa mưa ở Đà Lạt chiếm đến gần 85% lượng mưa của cả năm.[23] So với vùng đồng bằng, Đà Lạt có số ngày mưa trong năm nhiều hơn, nhưng lượng mưa lại thấp hơn.[24] Ở Đà Lạt còn có một hiện tượng thời tiết đáng chú ý khác là sương mù, trung bình 80 đến 85 ngày trong một năm, nhưng xuất hiện nhiều nhất vào khoảng thời gian từ tháng 9 tới tháng 10

Dữ liệu khí hậu của Đà Lạt (Cực đoan 1918–1940, và 1964–nay)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Cao kỉ lục °C (°F) 30.0(86.0) 31.0(87.8) 31.5(88.7) 32.1(89.8) 30.6(87.1) 30.5(86.9) 32.0(89.6) 30.0(86.0) 30.2(86.4) 30.0(86.0) 29.2(84.6) 29.4(84.9) 32.1(89.8)
Trung bình ngày tối đa °C (°F) 22.3(72.1) 24.0(75.2) 25.0(77.0) 25.2(77.4) 24.5(76.1) 23.4(74.1) 22.8(73.0) 22.5(72.5) 22.8(73.0) 22.5(72.5) 21.7(71.1) 21.4(70.5) 23.2(73.8)
Trung bình ngày °C (°F) 15.8(60.4) 16.7(62.1) 17.8(64.0) 18.9(66.0) 19.3(66.7) 19.0(66.2) 18.6(65.5) 18.5(65.3) 18.4(65.1) 18.1(64.6) 17.3(63.1) 16.2(61.2) 17.9(64.2)
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) 11.3(52.3) 11.7(53.1) 12.6(54.7) 14.4(57.9) 16.0(60.8) 16.3(61.3) 16.0(60.8) 16.1(61.0) 15.8(60.4) 15.1(59.2) 14.3(57.7) 12.8(55.0) 14.4(57.9)
Thấp kỉ lục °C (°F) −0.1(31.8) −0.6(30.9) 4.2(39.6) 4.0(39.2) 10.0(50.0) 10.9(51.6) 10.4(50.7) 10.6(51.1) 10.0(50.0) 8.1(46.6) 4.4(39.9) 2.6(36.7) −0.6(30.9)
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) 11(0.4) 24(0.9) 62(2.4) 170(6.7) 191(7.5) 213(8.4) 229(9.0) 214(8.4) 282(11.1) 239(9.4) 97(3.8) 36(1.4) 1.768(69.6)
Số ngày mưa trung bình 2 2 5 11 18 20 23 22 23 19 10 5 160
Độ ẩm tương đối trung bình (%) 82 78 77 84 87 88 90 91 90 89 85 84 85
Số giờ nắng trung bình tháng 255 234 255 202 190 147 157 136 133 140 172 215 2.236
Nguồn 1: Địa chí Đà Lạt[25][26]
Nguồn 2: Niên giám Đông Dương[27]

Từ khóa » đà Lạt Thuộc Vùng Màu Gì