Đặc điểm Chung Của Giai Cấp Công Nhân Là - Mua Trâu

Câu 20. Đặc điểm của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức VN. Tính tất yếu của liên minh công- nông- trí thức trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở VN

Nội dung chính Show
  • Những đặc điểm, điều kiện để giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam
  • Đảng Cộng sản Việt Nam với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam

a. Đặc điểm của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức VN:

- Đặc điểm của giai cấp công nhân VN:

Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng:

+Giai cấp công nhân VN tuy ra đời muộn và chiếm 1 tỷ lệ ít trong thành phần dân cư, nhưng do kế thừa được truyền thống đấu tranh anh dũng kiên cười của dân tộc mà giai cấp công nhân nước ta luôn tỏ rõ là một giai cấp kiên cường, bất khuất.

+ Giai cấp công nhân VN ra đời trong nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp T sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm 1, khiến động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để của CM của giai cấp công nhân được nhân lên gấp bội.

+ Giai cấp công nhân VN ra đời trước giai cấp tư sản VN, lại có Đảng lãnh đạo nên luôn giữ được sự đoàn kết thống nhất và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình

+ Giai cấp công nhân VN đa số xuất thân từ nông dân, có mối liên hệ máu thịt với nông dân. Đó là điều kiện hết sức thuận lợi để thực hiện sự liên minh giai cấp, trước hết là đối với giai cấp nông dân. Ngày nay, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, sẽ có nhiều người nông dân làm việc ở các cơ sở công nghiệp và trở thành công nhân ở chính ngay quê hương mình…

Tuy nhiên số lượng công nhân nước ta còn ít, trình độ văn hóa, tay nghề, khoa học kỹ thuật còn thấp, cách thức làm việc có nơi, có chỗ còn tỏ ra tùy tiện, manh mún. Do vậy để đảm đương được sứ mệnh lịch sử của mình, một trong những điều kiện quan trọng là giai cấp công nhân VN phải liên minh được với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân khác.

- Đặc điểm của giai cấp nông dân VN:

Giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp…

Giai cấp nông dân có nhiều ưu điểm như: lao động rất cần cù, chịu khó, tạo ra lương thực thực phẩm nuôi sống con người, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và hàng xuất khẩu. là lực lượng chiếm số đông trong xã hội, và gắn bó lâu đời với cội nguồn của dân tộc nên có nhiều công lao đóng góp to lớn trong sự nghiệp xâu dựng và bao vệ tổ quốc. Trong xã hội cũ, nông dân bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất nên họ có tinh thần phản kháng chống áp bức, bóc lột, bất công.

Về hạn chế: giai cấp nông dân là những người tư hưũ nhỏ, tuy nhiên tư hữu nông dân không đồng nhất với tư hữu của giai cấp bóc lột. Do phương thức sản xuất phân tán nên nông dân không có sự liên kết chặt chẽ về kinh tế, tư tưởng và tổ chức. Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng độc lập mà tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Muốn được giải phóng, nông dân phải tham gia vào khối liên minh và chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.

- Đặc điểm của tầng lớp trí thức:

Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt của 1 bộ phận lao động trí óc phức tạp và sáng tạo. sản phẩm lao động trực tiếp của họ là những trí thức khoa học, những giá trị về tinh thần, được tạo ra trong quá trình nghên cứu, phát minh,, giảng dạy, quản lý có tác dụng định hướng cho nhận thức và hành động thực tiễn trên mọi lĩnh vực.

Trí thức là những người có trình độ học vấn cao, am hiểu sâu trong lĩnh vực công việc của mình. Các sản phẩm do trí thức tạo ra được áp dụng vào mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất làm tăng năng xuất, chất lượng và hiệu quả. Ngày nau, cách mạng KHKT và công nghệ hiện đại đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì trí thức ngày càng có vai trog quan trọng trong quá trình xây dựng CNXH và hội nhập khu vực, quốc tế. Trong các chế độ XH cũ, phần lớn trí thức là những người lao động, họ bị áp bức bóc lột bất công nên họ cũng có tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột, đòi hòa bình, độc lập dân tộc và dân chủ.

Trí thức không có phương thức sản xuất riêng và địa vị kinh tế, xã hội độc lập nên trí thức cũng ko có hệ tư tưởng độc lập. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp thống trị khái quá về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Tri thức tuy có tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột nhưng lại thieeys kiên quyết, triệt để. Vì vậy, trí thức muôn được giải phóng phải chịu sự lãnh đạo của GC công nhân và tham gia vào khối liên minh.

b. Tính tất yếu của liên minh công- nông- trí thức trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở VN:

- Xuất phát từ những quan điểm lý luận của CN Mac- Lenin và tính tất yếu của liên minh công- nông- trí thức trong xây dựng CNXH, và xuất phát từ đặc điểm của nước ta là từ 1 nước nông ngiệp, đại đa số dân cư là nông dân, trong quá trình cách mạng, đòi hỏi đảng ta phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề liên minh giai cấp. Liên minh giai cấp ở nước ta cũng là 1 tất yếu khách quan, bởi cả ba giai tầng đều cùng chung cảnh ngộ mất nước, đều bị áp bức, bóc lột và cùng chung 1 mục tiêu giải phóng. Quan điểm, đường lối của Đảng ta về tính tất yếu của liên minh công- nông- trí thức được thể hiện từ văn kiện Đại hội II của Đảng lao động VN( 1951) : “ chính quyền của nước VN dân chủ cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân… Lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng do giai cấp công nhân lãnh đạo

Trong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” và trong chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta đặc biệ coi trọng mối liên minh này và coi đó là nền tảng của nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Đến ĐHội lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khảng định tính tất yếu và còn đặt biệt coi trọng vấn đề này khi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội chỉ rõ: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng lãnh đạo”

(Last Updated On: 18/04/2022 By Lytuong.net)

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược, biến nước ta thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, nơi tiêu thụ hàng hóa, khai thác tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt của chúng.

Sau khi đặt được ách thống trị trên toàn bộ nước ta, vào đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp cấu kết với bọn phong kiến tay sai tiến hành khai thác các hầm mỏ, xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, mở các tuyến đường, mở các đồn điền trồng cây công nghiệp,…Từ đó, ở nước ta có một lớp người lao động mới ra đời – đó là những công nhân làm thuê, phần lớn tập trung ở các thành phố, các khu công nghiệp. Năm 1906, nước ta có khoảng 5 vạn công nhân. Đến năm 1924, công nhân đã có 22 vạn người.

Ở nước ta, với hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến thì sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trước hết là phải lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân để giành độc lập dân tộc. Tiếp đến, trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo nhân dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Những đặc điểm, điều kiện để giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam

Giai cấp công nhân là một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế nên có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế; ngoài ra, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc Việt Nam nên còn có những đặc điểm riêng, ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:

– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước cả giai cấp tư sản Việt Nam, là giai cấp đối kháng trực tiếp với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, một thứ chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm mấy đến phát triển công nghiệp, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm.

Mặc dù ra đời muộn, số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp chưa bằng giai cấp công nhân thế giới, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, song giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng dân tộc để giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

– Giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu và kế thừa truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc. Giai cấp công nhân khi ra đời vừa chịu nỗi nhục mất nước, vừa bị áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc nên họ có tinh thần cách mạng kiên cường, triệt để, sớm nhận thức được mối quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng giai cấp, giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.

– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong điều kiện các giai cấp khác đã bế tắc về con đường cứu nước thì chỉ có giai cấp công nhân mới có khả năng tìm thấy lối thoát cho cách mạng

– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thành công, mở ra một chế độ xã hội mới trong lịch sử nhân loại, đó là chế dộ xã hội xã hội chủ nghĩa và cùng lúc đó Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước giảỉ phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đó là yếu tố hết sức quan trọng khích lệ, thúc đẩy giai cấp công nhân Việt Nam đứng lên làm cách mạng để giải phóng dân tộc.

– Phần lớn những người công nhân nước ta vốn xuất thân từ nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, nên có quan hệ mật thiết, tự nhiên với nông dân và đông đảo nhân dân lao động. Chính vì vậy, giai cấp công nhân Việt Nam sớm liên minh với nông dân, tạo thành khối liên minh công – nông và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo cho sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng. Đây cũng là điều kiện cần thiết đảm bảo cho cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi.

– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau một thời gian ngắn thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng Cộng sản đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào công nhân có một bước phát triển nhảy vọt về chất. Giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trở thành lực lượng chính trị độc lập, giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt

– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc và sớm có Đảng lãnh đạo nên không bị tác động bởi các khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa, cải lương, xét lại, không bị giai cấp tư sản đầu độc về tư tưởng nên luôn luôn đoàn kết, thống nhất trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn địa chủ phong kiến tay sai.

Ngoài những đặc điểm nói trên, thể hiện những ưu điểm của giai cấp công nhân Việt Nam, cho đến nay giai cấp công nhân Việt Nam còn có những hạn chế cần phải khắc phục: Số lượng còn ít, trình độ văn hoá, chuyên môn và nghiệp vụ cũng như khoa học kĩ thuật còn thấp; tư tưởng bảo thủ, chủ quan, cách làm ăn tuỳ tiện, manh mún của người sản xuất nhỏ còn ảnh hưởng khá nặng nề.

Nguyên nhân là do nền công nghiệp nước ta chưa phát triển và thành phần đa số xuất thân từ nông dân. Tuy vậy, những hạn chế trên không thuộc về bản chất nên giai cấp công nhân Việt Nam vẫn có đủ khả năng và điều kiện để đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình đối với dân tộc.

Đảng Cộng sản Việt Nam với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03 – 02 – 1930. Do hoàn cảnh của Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một bước nhảy vọt về chất, lên một tầm cao mới.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, lấy sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm mục đích tối cao của mình.

Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo, tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng và lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành từng mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước nhằm tạo ra bước ngoặt lịch sử, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, xây dựng nước ta theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Để đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi, để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng và nâng cao năng lực lãnh đạo là yêu cầu quan trọng hàng đầu, đảm bảo cho Đảng luôn luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng. “Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đảm bảo đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành vi chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao. Đảng quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân”.

(Tài liệu tham khảo: Lê Thị Kim Phương, Lương Thị Cảnh, Ngô Văn Quý, Đề cương chi tiết Học phần Chủ nghĩa xã hội khoa học)

Từ khóa » đặc điểm Chung Của Giai Cấp Công Nhân Việt Nam