Đặc điểm Thơ Pushkin Qua Bài Thơ “Tôi Yêu Em” - Minh Thúy Sinh

Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

Đặc điểm thơ Pushkin qua bài thơ “Tôi yêu em”

BÀI TẬP NHÓM CÁC THỂ LOẠI VÀ TÁC GIA TIÊU BIỂU VĂN HỌC ĐÔNG ÂU-NGA ĐỀ BÀI: Đặc điểm thơ Pushkin qua bài thơ “Tôi yêu em” Nhóm 8: Nguyễn Thị Hải Yến - Lớp DK64 ( Nhóm trưởng) Hoàng Thị Thu Thuyên - Lớp DK64 Vi Thị Nhàn - Lớp CK64 MỤC LỤC: I. Khát quát chung 1.1 Tác giả Pushkin 1.2 Tác phẩm“Tôi yêu em” 1.2.1 Xuất xứ 1.2.2 Nhan đề II. Đặc điểm thơ trữ tình của Puskin 2.1 Chủ đề 2.1.1 Chủ đề phê phán chế độ chuyên chế Nga hoàng 2.1.2 Chủ đề ca ngợi tự do 2.1.3 Chủ đề về lòng yêu mến thiên nhiên xứ sở 2.1.4Chủ đề về tình yêu 2.2 Kết cấu 2.3 Ngôn ngữ 2.3.1 Ngôn ngữ giản dị, trong sáng 2.3.2 Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng 2.3.3 Ngôn ngữ giàu tính nhạc III. Đặc điểm thơ Pushkin qua bài “Tôi yêu em” 3.1 Đề tài tình yêu 3.2 Kết cấu hài hoà cân đối 3.2.1 Khổ 1 3.2.2 Khổ 2 3.3 Ngôn ngữ 3.3.1 Ngôn ngữ giản dị trong sáng 3.3.2 Ngôn ngữ giàu nhạc tính 3.3.3 Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng IV. Tổng kết I. Khái quát 1.1 Tác giả Pushkin sinh ngày 6 tháng 6 năm 1799 (26 tháng 5 theo lịch cũ) tại thành phố Moskva trong một gia đình quý tộc Nga có nguồn gốc từ thế kỷ 12. Mẹ ông thuộc dòng dõi của Abram Petrovich Gannibal, một người nô lệ da đen của vua Pyotr Đại đế.Nhờ thông minh xuất chúng và có những đóng góp lớn về quân sự, hàng hải cho nước Nga, Gannibal đã được Pyotr Đại đế nhận làm con nuôi.Thời thơ ấu, trong những tháng hè, Puskin thường tới sống với bà ngoại tại ngôi làng nhỏ Zakharov, gần thành phố Zvenigorod, ngoại ô Moskva.Những tháng ngày êm đềm ở đây về sau này được phản ảnh trong những bài thơ đầu tiên của Pushkin ("Thầy tu", 1813; "Bova", 1814; "Lời nhắn cho Yudin", 1815; "Giấc mơ", 1816). Thời niên thiếu, Lên sáu tuổi, Pushkin được tuyển vào trường Lyceum Hoàng gia, tại Tsarskoe Selo (Hoàng Thôn, nay là thị trấn Puskin) gần kinh đô Sankt-Peterburg. Thời gian theo học tại đây Ông đã chứng kiến cuộc chiến tranh giữa quân đội Nga hoàng với quân Pháp của Napoléon I (1812). Ông có bài thơ nổi tiếng về chủ đề này - "Hồi ức ở Hoàng Thôn" (1815 Sau khi tốt nghiệp Lyceum, Pushkin tích cực tham gia vào các hoạt động văn học nghệ thuật của giới quý tộc trí thức trẻ tại Sankt-Peterburg, lúc bấy giờ đang nỗ lực đấu tranh cho một cuộc cách mạng xoá bỏ chế độ nông nô tại Nga. Thời gian này Ông cho ra đời những bài thơ mang tính chính trị như "Gửi Chaadaev" (1818), "Gửi N.Ya. Plyuskova" (1818), "Làng quê" (1819)... Năm 1820 Puskin cho in bản trường ca đầu tiên của mình - "Ruslan và Lyudmila" và ngay lập tức tạo được tiếng vang lớn về phong cách cũng như chủ đề, mặc dù cũng phải chịu sự công kích dữ dội từ phía chính quyền. Đi đày, Mùa xuân 1820, do những bài thơ cách mạng, thống đốc Sankt-Peterburg, bá tước M. Miloradovich, đã quyết định đày Puskin tới Sibir. Tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ và ảnh hưởng của những người bạn (Nikolai Mikhailovich Karamzin, Pyotr Yakovlevich Chaadayev, Fyodor Nikolayevich Glinka), cuối cùng ông chỉ phải chịu mức án nhẹ hơn là bị trục xuất khỏi thành phố Sankt-Peterburg vô thời hạn. Sau khi rời Sankt-Peterburg, Puskin đã đi xuống miền nam nước Nga, tới Kavkaz và Krym, Moldova, Kiev. Trong thời gian này ông vẫn tiếp tục cho ra đời những tác phẩm mới có ảnh hưởng rất lớn tới văn học Nga thế kỷ 19, như "Người tù binh Kavkaz" , "Gavriiliada" , "Anh em lũ cướp”, "Đài phun nước Bakhchisaraysky". Năm 1823, ở Kishinov, Puskin bắt tay vào viết tiểu thuyết bằng thơ, kiệt tác "Yevgeny Onegin". Tháng 7 năm 1824, với đơn xin ân xá, Pushkin được chính quyền cho phép về ở khu trang trại Pskov tại vùng Mikhailovskoe dưới sự kiểm soát của gia đình. Tại Mikhailovskoe ông đã sang tác những tác phẩm lịch sử như vở kịch "Boris Godunov”, "Với biển cả”, trường ca "Những người Digan" Năm 1825, trong lần sang thăm trang trại láng giềng, Pushkin đã gặp nàng Anna Kern, người tạo cho ông cảm hứng để sáng tác bài thơ nổi tiếng "Gửi K". Cuối năm 1825 đầu năm 1826 kết thúc chương năm và sáu của "Evgeny Onegin", mà lúc đó Pushkin coi là đoạn kết cho phần một của tác phẩm. Cuối năm 1825, thông qua một số viên chức có thiện chí, Pushkin đã được tiếp cận Nga hoàng Nikolai I để đệ đơn xin ân xá và được Nga hoàng chấp thuận. Tuy nhiên sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Tháng Chạp năm 1825 tại Sankt-Peterburg, chính quyền đã xem xét lại tất cả các ấn phẩm chống đối chính quyền của Puskin trước đó và quyết định buộc ông bị quản thúc tại gia và có chính sách kiểm duyệt nghiêm khắc các tác phẩm của nhà thơ. Pushkin đã chuyển về Moskva sống trong thời gian này. Năm 1831 được đánh dấu bởi một sự kiện rất quan trọng trong sự nghiệp của Pushkin, ông đã có buổi gặp gỡ với Nikolai Vasilyevich Gogol, một nhà văn Nga nổi tiếng khác. Cả hai nhanh chóng trở thành bạn thân và luôn hỗ trợ nhau trong hoạt động nghệ thuật.Pushkin đã có ảnh hưởng lớn tới những nhân vật trong các tác phẩm châm biếm phê phán hiện thực của Gogol. Cùng năm 1831, Pushkin kết hôn với người đẹp Natalia Goncharova, người đã đem lại cho Ông cảm hứng sáng tác lớn lao. Ông hoàn tất chương "Bức thư của Onegin" trong tác phẩm "Evegeny Onegin" và cũng là chương kết của công trình vĩ đại mà nhà thơ đã mất 8 năm để thực hiện. Trở lại Sankt-Peterburg. Tháng 11 năm 1833, Pushkin trở lại Sankt-Peterburg, và cảm thấy cần phải có những thay đổi lớn trong cuộc sống, ông không muốn bị kìm kẹp trong bốn bức tường do chế độ quản thúc. Nhờ sự sủng ái của Sa hoàng Nikolai I, đầu năm 1834 chế độ quản thúc đối với Pushkin được nới lỏng, tuy nhiên các tác phẩm thơ ca của ông vẫn phải có sự đồng ý của Sa hoàng mới được phát hành. Do vậy hoàn cảnh kinh tế của nhà thơ không được thuận lợi, Puskin phải đăng ký vào một chức vụ thư lại trong viện biên sử của Sa hoàng. Thời kỳ này, Pushkin chuyển hướng sang viết văn xuôi. Ông sáng tác truyện vừa như "Con đầm bích", tiểu thuyết như "Dubrovski", "Con gà trống vàng", "Người da đen của Pyotr Đại đế" (không hoàn thành).. 1.2 Tác phẩm“Tôi yêu em” Pushkin là đại diện xuất sắc của văn học Nga thế kỉ XIX.Ông thành công ở các thể loại như truyện ngắn, trường ca và thơ trữ tình. Thể loại nào của Pushkin cũng đậm chất trữ tình và đề cao khát vọng tự do của con người. Nhưng với “Tôi yêu em”, Pushkin luôn được nhắc đến với tư cách là nhà thơ tình vĩ đại. Một trong những chủ đề lớn của thơ trữ tình Pushkin là tình yêu “Hầu như tình yêu, tình bạn luôn luôn là những tình cảm chi phối nhà thơ nhiều nhất và là ngọn nguồn trực tiếp nhất của hạnh phúc và đau khổ của cả đời ông”.Cùng với “gửi K”, “Tôi yêu em” là bài thơ nổi tiếng của Pushkin về tình yêu.Thời kì sống ở Pêtecbua, Pushkin thường lui tới nhà vị chủ tịch Viện hàn lâm nghệ thuật và cũng vì một thiếu nữ đẹp tên là A.A. Ôlênhia, con gái vị chủ nhà. Mùa hè năm 1828, nhà thơ ngỏ lời cầu hôn nhưng không được nhận lời. Năm 1829, bài thơ ra đời trên cơ sở của mối tình có thực này, bài thơ được in trong tập “Những bông hoa phương Bắc” 1.2.1 Xuất xứ Bài thơ có hai phương án xuất xứ: Phương án thứ nhất, theo lời của người cháu của Anna Olenina, cô con gái ông chủ tịch viện Hàn lâm nghệ thuật Nga, người đã không chấp nhận lời cầu hôn của Pushkin vào tháng 11/1828, thì năm 1829 Pushkin có chép bài thơ này vào Albom tặng Olenina, dưới bài thơ có ghi thêm “Plus-que-prfait” đại ý nói về tình yêu như chuyện đã qua, nhưng bút tích này hiện không còn lưu giữ được. Theo phương án thứ hai là dựa trên sự gần gũi về ý thơ của bài “Tôi yêu em” và bài “một chút tên tôi đối với nàng” cùng hai bức thư của Pushkin ngày 2/2/1930, nhà nghiên cứu B.P.Gorodetsky cho rằng bài thơ “Tôi yêu em”được viết tặng “người đàn bà mê hồn thật sự” gốc Balan là Karolina Adamovna Sobanscaya (1794-1885), Pushkin làm quen với bà ở Kiev từ năm 1921 khi bà ta đã bỏ người chồng đầu được 5 năm, sau đó nhà thơ gặp lại bà ở Peterburg vào cuối năm 1829, bài thơ “Tôi yêu em” có lẽ được sáng tác trong khoảng thời gian đó để tặng cho bà Sobanskaya. Việc xác định xuất xứ của bài thơ có thể quyết định khuynh hướng tiếp cận với bài thơ. Theo cách tiếp cận thứ nhất có thể hiểu bài thơ theo hướng nhân vật trữ tình yêu nhưng không được đáp lại. Còn như cách tiếp cận thứ hai lại có thể nói về motip “tình yêu hồi sinh trong lần gặp lại” rất phổ biến trong thơ tình yêu của Pushkin. 1.2.2 Nhan đề Bài thơ vốn không đề.Với những bài thơ như vậy người ta ước định gọi nó bằng dòng thơ bằng dòng thơ đầu tiên.Trong bài thơ này, bài thơ được gọi tên bằng điệp ngữ được lặp lại ba lần trong bài thơ bởi nó mở ra ngay ở dòng đầu tiên của bài.Dịch giả Thúy Toàn dịch điệp ngữ ấy là “Tôi yêu em” và lấy nó làm tiêu đề của bài thơ. II. Đặc điểm thơ trữ tình của Puskin 2.1 Chủ đề Pushkin được mặc nhiên thừa nhận là “Mặt trời của thi ca Nga”.Thơ trữ tình của Pushkin chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong kho tàng thơ ca Nga.Trong hơn 20 năm sáng tác, Ông đã để lại hơn 800 bài thơ có giá trị. Mặc dù Pushkin có viết văn, viết kịch nhưng thủy chung Ông vẫn là nhà thơ. Về quy mô sáng tác, Pushkin gần gũi với Gớt hơn cả, và nếu gạt sang một bên những hứng thú khoa học và những giả thiết của Gớt, thì sẽ thấy sáng tác của Pushkin đa dạng hơn, rộng lớn hơn toàn khối những thành tựu của nhà đại văn hào Đức.Thơ Pushkin có nội dung rộng lớn, phong phú, đa dạng nhưng có thể quy về các chủ đề lớn như sau: Chủ đề phê phán chế độ chuyên chế Nga hoàng; Chủ đề ca ngợi tự do; Chủ đề thiên nhiên; Chủ đề tình yêu. 2.1.1 Chủ đề phê phán chế độ chuyên chế Nga hoàng Thơ Pushkin gắn liền với quá trình vận động cách mạng ở Nga trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX. Chính nội dung phản ánh cuộc sống nhân dân kết hợp với khí thế thời đại đã làm nên giá trị các tác phẩm trữ tình của Pushkin. Nội dung phản ánh xã hội đương thời là không thể phủ định, tuy nhiên, cần thấy rõ nội dung phản ánh trong thơ Pushkin mang tính khuynh hướng rõ rệt. Ðó là thái độ phủ định chế độ Nga hoàng một cách trực tiếp thông qua sự tái hiện một cách chân thật bộ mặt xấu xa của xã hội cùng với sự phê phán gay gắt xã hội đó. Thơ Pushkin ca ngợi cái đẹp, thơ Ông cũng phê phán, phủ định cái xấu. Nhưng cái xấu ở đây không phải là cái xấu ngẫu nhiên, cái xấu của sự vật tương đối, mà nó là cái xấu bản chất của xã hội, của chế độ, cái xấu đang bao trùm lên tất cả, chi phối mọi trật tự xã hội. Thơ Pushkin bộc lộ trực tiếp thái độ phủ định Nga hoàng - tên đầu sỏ của chế độ chuyên chế : “Hỡi tên vua chuyên quyền bạo ngược Ta căm ngươi ngôi báu của ngươi Ta thấy trước với niềm vui cay độc Cái chết của ngươi, của cháu con ngươi.” ( Tự Do ) Pushkin đã dùng hình tượng cây Ansa để nói lên tính chất phản động của tên độc tài trong thế kỷ bạo tàn : “Còn tên chúa lấy ra chất độc Tẩm mũi tên, tên trúng đích trăm lần Ðem chết chóc gieo ra ngoài bờ cõi Qua biên thùy sang các nước lân bang” ( Cây Ansa ) Trong tác phẩm “Những câu chuyện thần thoại Noen”, nhà thơ đã thể hiện thái độ châm biếm, nhạo báng đối với hành động và lời nói phỉnh gạt nhân dân của tên vua chuyên quyền: “Hỡi nhân dân của cả nước Nga Hãy biết rằng toàn thế gian đã biết Ta đã may chiến phục cho ta Theo kiểu nước Áo, Theo kiểu Ðức Hãy vui lên dân chúng, hãy vui lên; Ta no, ta béo, ta béo tròn Bọn viết báo ngợi ca ta trên báo Ta uống, ta ăn, ta hứa hão Và việc công ta chẳng nhọc nhằn ...” Ðồng thời với thái độ phê phán, đã kích chính quyền chuyên chế, Pushkin còn tái hiện những kiếp đời bất hạnh triền miên của người dân lao động và bộc lộ thái độ đồng cảm với họ. Ðó có thể là người thiếu phụ buột phải bỏ đứa con rứt ruột của mình; đó có thể là những con người suốt đời làm thân nô lệ không dám nghĩ đến hoài bão, ước mơ: “ Theo luống cày còng lưng tê tái Dưới làn roi khổ nhục ê chề Ðám nông nô xơ xác chân kéo lê Trên luống đất bọn chủ nô tàn ác Ách nặng nề kéo lê cho tới chết Không dám nuôi chút hoài bão, ước mong.” ( Làng - 1819 ). Tóm lại, nội dung phê phán đả kích phủ định chế độ nông nô chuyên chế Nga hoàng chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong việc tạo ra giá trị to lớn trong thơ Pushkin. Lần đầu tiên, với tinh thần tiến bộ và dũng cảm, Pushkin đã dám phê phán bản chất chế độ xã hội đương thời, phê phán từ tên vua cầm đầu cho đến bộ máy chính quyền, xã hội thượng lưu bệnh hoạn. Ðiều đáng trân trọng ở đây là nhà thơ đã phản ánh đúng bản chất xã hội và bộc lộ thái độ phê phán một cách mãnh liệt, không hề hòa hoãn, không hề khoan nhượng.Chính tinh thần dũng cảm, thái độ kiên định, tình cảm phân minh đó đã đem đến cho những bài thơ của Pushkin một sức mạnh vô biên, một khả năng to lớn trong việc thức tỉnh nhân dân, cổ vũ nhân dân đứng lên chống lại cường quyền, cải tạo xã hội. 2.1.2 Chủ đề ca ngợi tự do Nội dung ca ngợi tự do trong thơ Pushkin có một dung lượng khá lớn và gắn liền với nội dung phê phán Nga hoàng. Nếu như việc tái hiện về mặt xã hội đem đến cho tác phẩm một gía trị nhận thức to lớn thì nội dung ca ngợi và khẳng định tự do đem lại cho tác phẩm một giá trị tư tưởng - tình cảm lớn lao. Trong bài thơ “Tự do” Pushkin phát biểu Tự do như là một nhà cách mạng quý tộc. Nhà thơ không nhằm vào cuộc cách mạng toàn dân để thủ tiêu chế độ quân chủ mà trông cậy vào cuộc cách mạng do các nhà quý tộc cách mạng đang chuẩn bị.Ðối với Pushkin Luật pháp đứng trên nhà vua và nhân dân. Nghĩa là tự do phải dựa trên việc hạn chế quyền hành của nhà vua, phải tiến hành cải cách từ trên xuống, phải bãi bỏ chế độ nông nô: “Chỉ nơi nào có liên minh chặt chẽ, Giữa tự do và pháp luật nghiêm minh Ðưa mộc lên che chở mọi chúng sinh, Trao thanh kiếm vào tay người trung thực, Ðể trừng phạt không phân chia đẳng cấp, Bất cứ kẻ nào gây tội ác gian tham. Chỉ nơi nào tự do với luật hình, Không e sợ, không mắc điều tham nhũng, Chỉ nơi ấy lê dân không thê thảm Không lao đao dưới trướng của đế vương. Hỡi các đế vương ! Các ngươi có mũ ngọc ngai vàng Do luật pháp chứ không do tạo hóa, Trên nhân dân các ngươi ngồi cao hơn cả Nhưng muôn đời luật phát trên các ngươi” Ðối Pushkin, tự do là khát vọng cao nhất, là tiếng lòng tha thiết nhất, mãnh liệt nhất đối với nhân dân. Ông đã dùng nhiều từ ngữ, hình ảnh để diễn tả khái niệm tự do và cùng với nó là hạnh phúc, giải phóng như: lửa tự do rực cháy; bình minh rực cháy của tự do; sao hạnh phúc nguy nga hiện sáng; nhân dân cởi tròng thoát ách; dông tố đâu hình ảnh của tự do; bay, bay đi ta loài chim tự do... Cả một đời người Pushkin mất tự do. Vì vậy thơ Pushkin đọng nỗi cay đắng của người mất tự do. Nga hoàng đã dùng nhiều cách để tước đoạt tự do của nhà thơ: đưa đi khỏi Pêtecbua, giam lỏng ở vùng quê, kiểm duyệt khắt khe... Từ nỗi đắng cay của mình, Pushkin hiểu nỗi cay đắng của nhân dân. Có lẽ vì thế, với Pushkin tự do luôn gắn liền với nhân dân, gắn liền với giải phóng. Tự do là nội dung của thời đại, ngôn ngữ của thời đại. Pushkin đã đưa nội dung và ngôn ngữ ấy vào thơ, đốt cháy trong thơ ngọn lửa chiến đấu, có biết bao chiến sĩ đã yêu thơ Pushkin, có biết bao người yêu thơ Pushkin mà đến với phong trào cách mạng. 2.1.3 Lòng yêu mến thiên nhiên xứ sở Trong thơ trữ tình của Pushkin, số lượng bài thơ, câu thơ viết về thiên nhiên chiếm một khối lượng khá lớn. Thiên nhiên chiếm một vị trí khá quan trọng trong sáng tác của nhà thơ và mang một nội dung độc đáo. Thứ nhất , thiên nhiên trong thơ Pushkin thể hiện trọn vẹn cái hồn của thiên nhiên Nga, nét độc đáo và đặc trưng của thiên nhiên Nga. Trong thơ ông, người ta chỉ nhận ra những cảnh sắc chỉ riêng có ở nước Nga chứ không phải ở một xứ sở nào khác. Vì thế, thiên nhiên trong thơ Puskin mang tính chân thực và có tính chất tư liệu, góp phần tạo nên giá trị cho các bài thơ. Thứ hai, thiên nhiên trong thơ Puskin thể hiện một nội dung lớn, đó là sự thể hiện tình yêu chân thành của một con người ham sống, ham giao cảm với đời, với cảnh sắc thiên nhiên, tìm thấy trong thiên nhiên những gì tươi sáng, trân trọng và thân thương, gần gũi nhất. Ðó chính là sự thể hiện tình yêu cái đẹp và cái thiện của con người. Thứ ba, thiên nhiên trong thơ Puskin có tính chất ngợi ca đất nước Nga sâu sắc, có tác dụng thúc đẩy người đọc thêm yêu thên nhiên và con người Nga hơn. Ngôn ngữ thể hiện thiên nhiên trong thơ Puskin mang tính chất đơn nghĩa, nó thể hiện nội dung từ ngữ với ý nghĩa cuối cùng. Cũng vì thế mà thiên nhiên trong thơ Puskin mang tính khách thể rõ ràng, ít được dùng một cách ẩn dụ để thể hiện tâm trạng. 2.1.4 Nội dung ngợi ca tình yêu Một trong những chủ đề lớn của thơ trữ tình Pushkin là tình yêu “Hầu như tình yêu, tình bạn luôn luôn là những tình cảm chi phối nhà thơ nhiều nhất và là ngọn nguồn trực tiếp nhất của hạnh phúc và đau khổ của cả đời Ông …Màu sắc chung của thơ Pushkin, đặc biệt trong thơ trữ tình, là vẻ đẹp nội tâm con người và lòng nhân ái vuốt ve tâm hồn”. (Biêlinxki).Pushkin được mệnh danh là nhà thơ tình thế giới. Nhiều bài thơ tình của Pushkin đã đi vào thế giới bất tử. Thơ tình yêu của Pushkin thường bắt nguồn từ những xúc cảm cụ thể, chân thực với những trải nghiệm tình cảm sâu xa do đó, đã thể được những vẻ đẹp đa dạng, tinh tế của thế giới tâm hồn con người. Thơ tình yêu của Pushkin thuộc mảng thơ viết về vẻ đẹp nội tâm của con người.Tình yêu chính là nguồn lực sống, nguồn lực sáng tạo, có sức mạnh làm hồi sinh tâm hồn con người chứ không phải là tình cảm giới tính. Đó là vẻ đẹp nhân văn vừa cao cả vừa trần thế. Bài thơ “Gửi” được Pushkin sáng tác vào năm 1825 không chỉ ghi nhận lại cảm xúc của nhà thơ về hai lần gặp gỡ người đẹp Anna Kern, mà còn là lời tụng ca sức mạnh của sắc đẹp và tình yêu có khả năng làm hồi sinh con người, tạo ra nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận: Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu: Trước mắt anh em bỗng hiện lên, Như hư ảnh mong manh vụt biến, Như thiên thần sắc đẹp trắng trong. Trong day dứt sầu đau tuyệt vọng, Giữa ồn ào xáo động buồn lo Tiếng em nói bên tai anh văng vẳng, Bóng dáng em anh gặp lại trong mơ. Tháng ngày qua. Những cơn gió bụi Đã xua tan mộng đẹp tuổi thơ, Lãng quên rồi giọng em hiền dịu, Nhòa tan rồi bóng dáng nguy nga…..” Pushkin viết nhiều bài thơ về tình yêu nam nữ.Nhưng tình yêu nam nữ trong thơ của ông không phải là tình yêu thông thường với ý nghĩa bình thường của nó. Ðọc thơ tình của Pushkin, người ta luôn cảm nhận được sự chân thành, sự trong sáng, sự tế nhị trong tâm hồn của người đang yêu.Trong thơ tình của Pushkin Ông luôn đặt hạnh phúc của người mình yêu cao hơn tất cả. Ông phải chịu rất nhiều đau đớn và nỗi đau của mình luôn đặt sau hạnh phúc của người mình yêu thương.Trong bài thơ “Tôi yêu em” đã thể hiện sâu sắc tình cảm sự hi sinh cao cả vì hạnh phúc mình Ông yêu. Thơ tình yêu của Pushkin luôn làm cho người đọc nhận thức khi yêu phải yêu cho đẹp, cao thượng, phải có văn hóa và nhân cách trong tình yêu.Những bài thơ của Pushkin luôn phủ định tình yêu giả dối, ích kỉ, vụ lợi và suy tính, tiền bạc. Tiếp nữa, Pushkin ý thức được tình cảm không phải là tình cảm bất biến mà nó có thể thay đổi theo thời gian. Cách nhìn hiện thực về tình yêu, biết đối diện và chấp nhận những đau khổ trong tình yêu để mong người mình yêu được hạnh phúc. Trong thơ trữ tình của Pushkin Ông thể hiện rất ngắn gọn, trong sáng, giản dị nhưng tinh tế đằm thắm ý nghĩa sâu sắc. Những bài thơ tình đặc sắc của Pushkin là: “Gửi”, “Tôi yêu em”.., “Ngài và anh”, “Cô và em”; “Trên đồi Grudia đêm xuống”, “Lá thư bị đốt cháy”... 2. 2 Kết cấu Kết cấu trong thơ Pushkin mang tính đối xứng được thể hiện ở sự hài hòa giữa các đối cực.Các đối cực ấy là những xúc cảm của một chủ thể động, được thể hiện qua sự vận động tâm tưởng nhân vật trữ tình và sở trường của Pushkin là hóa giải mâu thuẫn với các đối cực tâm trạng để đạt tới cảm xúc hài hòa. Cảm xúc sầu buồn là tâm trạng xuyên suốt các trang thơ nhưng tác giả đã trang bị để nỗi sầu buồn ấy không còn đáng sợ nữa.Màu sắc, hình ảnh,âm thanh trong thơ Pushkin thường mang nặng tâm trạng của nhân vật trữ tình, nhưng tâm trạng ấy thường hướng tới sự cân bằng, hài hòa đến kì lạ. Những trải nghiệm của chính bản thân và sự nhạy cảm của một tâm hồn nhân hậu đã giúp nhà thơ phát hiện và thể hiện vẻ đẹp của tình yêu chân chính. Nhà thơ đã phát hiện và xử lí các tình huống của tình yêu theo chuẩn mực đạo đức của nhân dân lao động. Những tình cảm cao đẹp mà nhà thơ ca ngợi đối lập hoàn toàn với cuộc sống nhơ nhớp bẩn thỉu của xã hội thượng lưu, cái xã hội mà tình yêu chỉ là sự chiếm đoạt, ích kỉ.Thơ trữ tình của Pushkin tràn ngập cảm hứng của “cái ta”chung được thể hiện một cách sâu sắc, hài hòa qua “cái tôi” nghệ sĩ của nhân vật trữ tình.Thơ Puskin vừa cao cả vừa gần gũi với cuộc sống. Nhà phê bình Belinsky nhận định “Trong thơ của Pushkin có bầu trời, nhưng bầu trời đó bao giờ cũng hòa với mặt đất”. Sự hài hòa đặc trưng cho thơ Puhksin không chỉ được thể hiện trên cơ sở khả năng tổng hòa vào trong mình những thành tố tưởng khó có thể dung hòa, mà nó còn bắt nguồn từ ý thức về quy luật vận động tất yếu của cuộc sống trong dòng chảy không gian và thời gian. Kết quả là nhà thơ không để mất đi một cực nào và dung hòa bằng việc giải quyết được mâu thuẫn. Có được điều đó là vì Pushkin là bậc thầy của sự hài hòa, mang những khát vọng của sự hài hòa. Pushkin yêu thích sự cân đối và hài hòa, nhưng không phải là sự cân đối và hài hòa tĩnh tại. Đó là sự hài hòa đạt được nhờ khả năng hóa giải, hòa nhập và chuyển hóa các thành tố khác biệt vào nhau trong xu thế vận động chung như trong cuộc đời sống động. Chính sự hóa giải mâu thuẫn giữa các đối cực mà thơ Pushkin thường mang kết cấu đối xứng, tạo được ấn tượng về sự hài hòa. 2. 3 Ngôn ngữ Ngôn ngữ trong các tác phẩm thơ của Pushkin vừa giản dị, tinh tế, dễ hiểu, đầy tính nhạc mà vẫn luôn mang ý tưởng sâu sắc.Đây chính là điều làm nên giá trị chân lý toàn cầu của Ông. 2.3.1 Ngôn ngữ giản dị, trong sáng Sự giản dị và sự thoải mái của nhà thơ là kết qủa của tài nghệ tinh tế.Thơ Pushkin vốn rất giản dị, gần gũi cuộc sống. Những hình ảnh biểu tượng trong thơ ông thường dễ hiểu nhưng rất có chiều sâu. Hiểu ở mức độ nào phụ thuộc vào sự đồng cảm và rung động của trái tim người đọc. Thế nhưng điều mà bất cứ độc giả nào cũng cảm nhận được chính là những giá trị đạo đức trong thơ Pushkin. Những vần thơ trong sáng và đầy cảm hứng nhân văn của ông có khả năng tác động rất mạnh mẽ đến tâm hồn người đọc.tạo nên khả năng thanh lọc tâm hồn đối với nhiều thế hệ bạn đọc.Pushkin am hiểu mọi khả năng, toàn bộ vẻ phong phú kỳ diệu của tiếng mẹ đẻ nhưng tư tưởng của ông bao giờ cũng được thể hiện trong một hình thức giản dị tới mức tưởng như không thể nào diễn tả giản dị hơn. Nhà soạn kịch Nga ÔXTRÔPXKI từng nhận xét rằng :“Chúng ta đọc thấy ở Pushkin những câu thơ trơn tru quá, giản dị quá và ta cứ tưởng rằng tự nhiên thơ ông nó tuôn ra trong hình thức như thế. Vậy mà ta không biết rằng ông đã bỏ biết bao công sức cho câu thơ được giản dị và trơn tru.”Trong bài “Tự do” Ông viếtlúc còn trẻ: “Lũ bạo chúa hoàn cầu! Run đi chứ! Còn các anh hãy dũng cảm nghe đây, Quật khởi lên, hỡi nô lệ cúi đầu!” Bài thơ đã truyền được nhiệt tình cách mạng cho tầng lớp thanh niên tiến bộ qua hình thức ngôn ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, đầy sức thuyết phục, họ xem đó là lời kêu gọi đấu tranhtinh thần yêu tự do, chống chế độ độc tài. Sự giản dị, trong sáng ,không sử dụng những lời lẽ cầu kì xa lạ của câu chữ đã làm nên chất thơ. Chất thơ của Pushkin toát ra từ những xúc cảm chân thành thể hiện qua hình thức là những lời nói giản dị đến mức trong suốt nhưng đầy thiết tha, tế nhị,ít dùng mĩ từ mà vẫn gợi cảm.Chất thơ của bài thơ chính là sự thành thực của người làm thơ "lòng nhân ái làm xúc động lòng người ở vẻ diễm lệ nghệ thuật của nó" (Bi-ê-lin-xki).” Suốt đời mình Pushkin say mê nghệ thuật ngôn từ. Chẳng những Pushkin đã làm cho thơ Nga thật sự là thơ, ông còn bồi đắp và hoàn thiện ngôn ngữ văn học Nga. Pushkin rất yêu tiếng mẹ đẻ.Ông có nỗ lực cách tân ngôn ngữ thơ ca Nga, kéo ngôn ngữ thơ ca Nga về với ngôn ngữ đời thường: “Số phận tiếng Nga vô cùng may mắn, vào thế kỷ XI, tiếng Hy Lạp cổ bỗng nhiên mở ra trước tiếng Nga vốn từ vựng của mình, kho báu của sự hài hòa, cung cấp cho tiếng Nga những luật lệ ngữ pháp đã được nghiền ngẫm kỹ của mình”. 2.3.2 Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng. Ngôn ngữ thơ Pushkin còn hàm súc, cô đọng qua việc dùng nghệ thuật “ý ngoài lời” ưa gợi nhiều hơn tả. Hoặc không miêu tả dài dòng mà gợi trường liên tưởng. Ví dụ như khi nói về vẻ đẹp của bầu trời mùa thu, của không gian thu “yên tĩnh ngọt lành”: “Thiên nhiên tàn úa bỗng tươi Rừng thay áo mới cả trời vàng au” (Thu vàng) Pushkin gợi cả khung cảnh nơi đây qua “màu vàng”.Màu vàng như nhuộm thắm không gian, ánh hắt lên cả bầu trời. Cảnh đẹp như bức họa Mùa thu vàng của Levitan khiến bức tranh đất trời như xao động, cả cánh rừng rực màu vàng của lá... Còn hơn thế bởi sau cảnh là phập phồng cảm xúc con người. Có gì như sự bồi hồi xao xuyến, như sự nồng nàn say đắm của con người trước vẻ đẹp mùa thu. Nhà thơ cũng miêu tả“Con đường mùa đông” rất đặc trưng Nga trong một đêm trăng mờ. Con đường trắng xóa băng tuyết trải dài giữa thảo nguyên mênh mông và hoang vắng. Cũng có trăng nhưng là ánh trăng vô hồn, ánh trăng buồn bã đang uể oải chiếu sáng xuống cánh đồng buồn, điều đó càng làm gợi lên tâm trạng nhân vật trữ tình đầy u buồn, cô quạnh: “Trăng buồn bã dội ánh sáng Lên cánh đồng u buồn.” (Con đường mùa đông) 2.3.3 Ngôn ngữ giàu nhạctính. Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ- mà bằng cả âm thanh nhịp điệu của từ ngữ ấy.Ngôn ngữ trong thơ Pushkin chính là như thế- giàu nhạc điệu và du dương như một bản Xônat làm say đắm lòng người. Ngôn ngữ trong thơ của Pushkin giàu tính nhạc được thể hiện ở cách phối hợp âm thanh, cách ngắt nhịp và vần.đó là sự thay đổi những âm thanh cao thấp khác nhau giữa thanh bằng và thanh trắc nhằm tạo ra những câu thơ có độ vang trầm bổng.Ngoài ra, nhạc điệu còn thể hiện ở việc Pushkin đã phát huy, vận dụng nghệ thuật ngôn từ vào thơ góp phần tạo nên những vần thơ mang đậm tính trữ tình lãng mạn, say đắm. Nghệ thuật ngôn từ đó có thể là cách láy từ, hệ thống điệp từ, … và đặc biệt là sự thay đổi nhịp điệu linh hoạt trong thơ. Phong cách trữ tình thể hiện tình yêu với giọng điệu thay đổi một cách sinh động, chân thực. III. Đặc điểm thơ Pushkin qua bài “Tôi yêu em” Trong quá trình làm sáng tỏ đặc điểm thơ Pushkin qua bài “Tôi yêu em”, chúng tôi thống nhất sử dụng bản dịch nghĩa của Thúy Toàn.Bản dịch này cho đến nay vẫn được coi là trội hơn cả, vì nó khá sát nghĩa và thể hiện được tình cảm đằm thắm, chân thành gần với nguyên tác, trong đó có những hình ảnh, cảm xúc đồng điệu với nhà thơ Pushkin. 3. 1 Chủ đề tình yêu Thơ trữ tình Pushkin là kết quả của một tâm hồn được nuôi dưỡng bởi bầu sữa của văn hoá dân gian Nga nên luôn trong sáng, ngọt ngào và giàu giá trị nhân văn. “Tôi yêu em” là kết tinh xuất sắc nhất, là một trong những bài thơ tình nổi tiếng của Pushkin, của thi ca Nga và của cả nền thơ ca thế giới. Với “Tôi yêu em”, Pushkin luôn được nhắc đến với tư cách là nhà thơ tình vĩ đại, tên tuổi Pushkin sống mãi trong lòng bạn đọc. Pushkin cũng từng viết về những tình yêu không được đáp lại như thế nhưng với một trạng thái cảm xúc khác. Tình cảm cũng rất chân thành, mãnh liệt nhưng trái tim không được đáp lại thì không cao thượng, không sẵn sàng hi sinh như thế mà cay đắng và khắc nghiệt hơn. Do đó, “Tôi yêu em” còn là một trong những bài thơ tình yêu thấm đẫm “nỗi buồn sáng trong”, đó là : nhân vật trữ tình bao giờ cũng ý thức được sự thay đổi tình cảm theo thời gian và luôn biết đặt hạnh phúc của người mình yêu lên cao hơn nỗi đau của chính mình. Như vậy, nỗi buồn dù xót xa, thấm thía nhưng không hề vị kỉ. “Tôi yêu em” phảng phất nỗi buồn của mối tình đơn phương nhưng qua đó lại thể hiện một quan niệm rất nhân văn về tình yêu, là “nỗi buồn trong sáng” của một tâm hồn yêu đương chân thành, mãnh liệt, nhân hậu, vị tha. Bài thơ dạy cho người ta biết yêu một cách cao đẹp. 3.2 Kết cấu hài hoà cân đối Mạch cảm xúc của bài thơ tự nó đã chia thành hai phần dưới hình thức hai khổ thơ bốn câu: Bốn câu đầu, nhân vật trữ tình - tôi, khẳng định tình yêu vẫn còn nhưng xin rút lui vì không muốn gây phiền muộn cho người mình yêu. Bốn câu cuối, dồn tả các cung bậc khác nhau của tình yêu và lời khẳng định một tình yêu đằm thắm, chân thành.Và trong mỗi câu thơ lại có hai vế. Điều quan trọng hơn là có thể thấy sự tăng tiến mâu thuẫn từ khổ 1 sang khổ 2 dường như kết nối hai khổ thơ lại thành một cấu trúc thống nhất cả tám câu thơ vận động theo mạch tâm trạng của nhân vật trữ tình. Một kết cấu hài hoà cân đối đã làm nên vẻ đẹp của bài thơ nhưng không làm suy giảm sự tinh tế của cảm xúc. 3.2.1 Khổ 1 Mở đầu bài thơ là một lời bộc lộ chân thành xuất phát từ một trái tim trung thực, báo hiệu một tình yêu thực sự. “Tôi đã yêu cô”, lời lẽ giản dị mà mang bao nỗi quyến rũ, bí ẩn muôn đời. Ngay trong hai câu đầu này đã xuất hiện hai đối cực: lí trí của chàng trai muốn dừng tình yêu lại nhưng tình cảm vẫn còn cháy bỏng: Tôi đã yêu cô: tình yêu còn, có thể là, Trong tâm hồn tôi lụi tắt chưa hoàn toàn; Đây là một lời khẳng định tình yêu, nhưng có thể thấy trong lời khẳng định ấy sự cố gắng của lí trí muốn đẩy “tình yêu” vào quá khứ (“đã yêu”), gián cách mình với người mình yêu (“cô”). Theo mạch logic, nhân vật trữ tình muốn khẳng định “tình yêu…đã lụi tắt” nhưng ngay sau khi nhắc lại từ “tình yêu” thì cố gắng của lí trí vấp phải vô vàn trở ngại tình cảm. Bất chấp cả nguyên tắc ngữ nghĩa và cú pháp , giọng thơ trở nên ngập ngừng. Sự đứt quãng, không liền mạch của câu thơ hiện lên sự trăn trở, phân vân day dứt của nhân vật trữ tình. Dùng một ngữ mang tính phủ định“lụi tắt chưa hoàn toàn”, nhân vật trữ tình bày tỏ một tình yêu, một say mê mang dáng vẻ âm thầm, dai dẳng, dấu hiệu của những cảm xúc vững bền, của một trái tim chung thủy, không phải là sự đam mê bột phát vụt sáng lóe rồi lụi tàn ngay đấy. Hai dòng thơ, đơn giản là một lời xác nhận sự tồn tại của một tình yêu. Một tình yêu mà dù muốn cũng không thể nguôi. Mạch thơ chuyển đột ngột: Nhưng hãy để nó không làm cô lo lắng nữa: Tôi không muốn làm cô buồn vì bất cứ lẽ gì. Câu thơ toát lên cái điềm tĩnh của lí trí, cái dồn nén của cảm xúc.Từ “nhưng” cùng với từ mạnh thể hiện quyết tâm như “hãy để…không”, “không muốn…bất cứ lẽ gì” thể hiện sự gồng lên của lí trí để thoát ra, đoạn tuyệt với tình trạng lưỡng phân ở hai câu đầu. Điệp từ “không” ở cả hai câu thơ nhấn mạnh sự dứt khoát: cần phải dập tắt ngọn lửa tình yêu dù chỉ là âm thầm, dai dẳng để tránh cho “cô buồn vì bất cứ lẽ gì.”. Nhưng đằng sau những lời lẽ điềm tĩnh, đúng mực ấy là bao nỗi niềm, bao sắc thái của tình yêu: có cái chua xót của thân phận vì nếu tình yêu không đem lại hạnh phúc, niềm vui mà chỉ là nỗi băn khoăn, buồn bã cho người mình yêu thì nên chấm dứt tình yêu đó; có sự chế ngự của lí trí đối với con tim: có cái cao thượng, tế nhị của tình tôi (điều quan trọng không phải là tình yêu của tôi mà là sự yên tĩnh, thanh thản của cô gái mình yêu); có cái tôn thờ, sùng kính của bậc nam nhi đối với người phụ nữ. Tình yêu có thể chấm dứt vì nhiều lí do, nhưng cái lí do đầy dịu dàng, trân trọng và cao thượng ấy đối với nguời phụ nữ dễ mấy ai có được. Một mong muốn cao thượng chỉ có thể xuất phát từ một tình cảm chân thành của một trái tim biết yêu thương, biết hi sinh. Câu thơ đã xác nhận một chân lí của tình yêu là đã yêu thì không đòi hỏi, yêu là mong muốn những điều tốt lành đến với người mình yêu thương. Chấp nhận âm thầm chịu đựng tình yêu đơn phương, nhân vật trữ tình đã nâng mình lên cao hơn.Tình cảm theo đó cũng không bị mất đi mà chỉ bị nén xuống. Khổ 1 xét bề ngoài câu chữ, nhân vật trữ tình dường như thông báo việc rút lui, chối bỏ say mê, dập tắt lửa tình.Đó là trật tự lôgíc trong cách giãi bày tình cảm của nhân vật trữ tình.Nhưng trật tự logic đó chỉ là bề ngoài, còn trong sâu thẳm tâm linh, mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình cuồn cuộn chảy, bất chấp logic. Không nén được, cảm xúc đó cứ bật lên thành ý thơ thẳng thắn, minh bạch và rất rõ ràng: còn yêu và rất yêu nhưng không muốn làm cô phải suy nghĩ. Nhưng nếu chấp nhận dễ dàng như vậy thì có vẻ lí trí quá và tình yêu của “tôi” đối với cô chưa đủ sức thuyết phục, còn kém mãnh liệt. Sự mãnh liệt của tình yêu được thể hiện ở bốn dòng thơ tiếp theo. 3.2.2 Khổ 2 Một lần nữa, mối tình đơn phương lại được xác nhận.Dù lí trí được nhấn mạnh nhưng tình yêu vẫn còn nồng cháy, đây chính là sức cản khiến lí trí không thể chiến thắng được tình yêu, lí trí phải đi vòng từ ngoài vào trong để thể hiện sự quyết tâm.Không làm cô buồn, cô lo lắng, lí trí muốn dừng tình yêu lại mong cô gái được bình yên, hạnh phúc. Tôi đã yêu cô không lời, không hi vọng, Khi thì bị sự rụt rè, khi thì bị thói ghen tuông giày vò; Tôi đã yêu cô chân thành như thể, đằm thắm như thể, Câu 5,6,7 mỗi câu thơ đều có hai sắc thái tạo thành một cặp đều được nhấn mạnh. Tác giả sử dụng biện pháp liệt kê dằn mạnh xuống từng vế như một lời kể vô vọng với các yếu tố láy “không…không…”, “khi thì…khi thì” có hàm ý trách móc vô cớ, nhấn mạnh đối cực tình yêu nồng cháy, mạch trào lên của tình cảm. Nhân vật trữ tình bộc lộ thẳng thắn tâm hồn mình: một tình yêu âm thầm, không hi vọng. Nhưng dù vậy, tình yêu ấy vẫn diễn ra với mọi sắc thái muôn thuở: Câu 5,6 kết với nhau thành một khối, cùng một trường mực cảm muốn “hi vọng” nhưng không “hi vọng” được; “rụt rè”-muốn mạnh mẽ mà không mạnh mẽ được , “ghen tuông”-muốn tin mà không tin được. Đây là những tâm trạng của bề mặt tình yêu: nỗi đau khổ âm thầm, niềm tuyệt vọng, sự rụt rè, lòng ghen tuông giày vò. Câu thơ mang tính chất thú nhận đã khơi mở những lớp tình cảm phức tạp và rất con người dưới đáy sâu tâm hồn, chỉ cho phép nói rằng tình yêu của mình chưa li tắt chứ không phải là đang bùng cháy mãnh liệt. Câu 7 láy lại lời khẳng định tình yêu “Tôi đã yêu cô” một cách trọn vẹn với điệp từ “như thể…như thể” nhấn mạnh hai sắc thái kết tinh bản chất của tình yêu: “chân thành”, “đằm thắm”. Lí trí không mất đi mà ẩn đằng sau, làm câu thơ đưa đến nhận thức về bản chất của tình yêu.Nhân vật trữ tình không chìm đắm trong day dứt của hiện tại và hướng tới tương lai, nhấn mạnh hạnh phúc của người yêu là quan trọng nhất. Câu thơ thứ 8 hóa giải mâu thuẫn của cả lí trí và tình cảm, trở thành lời cầu chúc hướng tới cái tốt đẹp nhất của tương lai làm câu thơ sáng lên vẻ đẹp nhân văn: Cầu trời ban cho cô được yêu bởi một người khác. Như vậy, lí trí và tình cảm đều mong muốn hướng tới hạnh phúc của người mình yêu. Thói thường tình yêu thường kèm theo sự ích kỉ, ai đã yêu mà không từng ghen. Nhân vật “tôi” cũng như vậy. Nhưng sự ích kỉ không thể chiến thắng được sự cao thượng của một trái tim biết yêu thương. Nếu chỉ là lời cầu mong cho người mình yêu những điều tốt đẹp nhất thì đơn giản quá và không có khả năng thể hiện tình yêu như “Cầu trời ban cho cô được yêu bởi một người khác”.“Người khác” thể hiện sự cao thượng tột cùng của lí trí, rất khó khăn khi một người khác có thể đem lại hạnh phúc cho người mình yêu.Đó là tình yêu vừa cao cả vừa trần thế- tình cảm nhân văn thể hiện sự vượt qua chính mình nhưng vẫn thể hiện niềm tin của chính mình.Tư tưởng và giá trị của bài thơ được cô đọng ở câu thơ này.Chỉ một lời cầu chúc thôi nhưng nói được bao điều.Nó khẳng định tấm tình chân thành của “tôi”, đồng thời thể hiện tình yêu mãnh liệt và chân chính.Lời cầu chúc cũng chính là lời khẳng định tình yêu chân thành và đằm thắm của mình, đó là tình yêu thực sự, tình yêu xứng đáng nhất với em.Đây không chỉ là một lời cầu chúc tuyệt vời nhất, thể hiện hay nhất tình cảm của “tôi” mà còn là một lời thổ lộ thật thông minh. Như vậy, cấu trúc bài thơ dựng trên mâu thuẫn nghệ thuật giữa trật tự lôgic và mạch cảm xúc, giữa lí trí điềm tĩnh và xúc cảm dâng trào.Nhưng nó đã được hóa giải mâu thuẫn dựa vào sở trường hài hòa giữa các đối cực của Pushkin, điều đó tạo nên một kết cấu hài hòa cho bài thơ.Ở cả bài thơ, hai đối cực vẫn hiện hữu, một cực (lí trí) được nhấn mạnh nhưng cực còn lại (tình cảm) không hề bị mất đi. Trên bề mặt kết cấu, trật tự lôgic và lí trí nói lên việc “rút lui”, chối bỏ say mê, dập tắt ngọn lửa tình. Còn trong bề sâu mạch trần thuật trữ tình, xúc cảm không ghìm nén được mà tuôn trào mãnh liệt, bất chấp lôgic và lí trí.Mâu thuẫn nghệ thuật này giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc tình yêu chân thành đằm thắm mà thiết tha mãnh liệt, đam mê mà vị tha, độ lượng của nhà thơ. Nhân vật trữ tình thể hiện qua dòng tâm tưởng chủ yếu qua dòng thời gian từ quá khứ đến tương lai. Nhìn lại mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ thì đây là bài thơ về một mối tình đơn phương nhưng qua đó lại thể hiện một quan niệm rất nhân văn về tình yêu. Và mạch cảm xúc của bài thơ được phát triển theo lôgíc tâm trạng nhưng có sự kết hợp rất khéo với lí trí. Sự hài hoà giữa cảm xúc và lí trí đã tạo nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn cho bài thơ.Tâm trạng được thể hiện không quá bản năng nhưng cũng không quá nặng nề khô cứng.Cảm xúc có khi mâu thuẫn với lí trí nhưng lại được giải quyết một cách rất hợp lí, hợp với sự phát triển của mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình. 3.3 Ngôn ngữ giản dị, trong sáng; hàm súc, cô đọng và giàu nhạctính 3.3.1 Ngôn ngữ giản dị trong sáng Bài thơ “Tôi yêu em” đã gây một niềm xúc động lớn lao vì đã vươn tới những giá trị tinh thần chung của loài người: những tình cảm chân thành, cao thượng, nhân ái của tình yêu chứa đựng trong những lời lẽ giản dị, trong sáng nhất. Những cảm xúc này được Pushkin ghi nhận lại chỉ bằng những câu thơ ngắn gọn và nhẹ nhàng nhưng để lại một ấn tượng sâu sắc, điều này khác hẳn với những quan điểm truyền thống là một bài thơ hay thì ngôn ngữ phải trau chuốt và độc đáo. Sức hấp dẫn của bài thơ trước hết là bởi “Đối tượng tự nó hấp dẫn đến mức chả cần gì tới sự tô điểm nào cả” (Pushkin).Có lẽ cũng vì vậy mà bài thơ không ngừng gây xúc động trong lòng bao thế hệ bạn đọc. Lời giãi bày tình yêu của Pushkin được thể hiện bằng hình thức giản dị mà tinh tế.Chất thơ toát ra từ lời thơ giản dị đến mức trong suốt; ít dùng mĩ từ mà vẫn gợi cảm, không ví von, bóng gió. Tác giả chỉ dùng vài từ mang tính phủ định “chưa hoàn toàn”, “không làm”, “không muốn làm”, “không lời”, “không hi vọng”. Vì thế mà câu thơ bộc lộ thấu đạt những xúc cảm, trải nghiệm chân thành, sâu sắc trong trái tim yêu chân thực, chung thủy mà âm thầm kín đáo, da diết day dứt khôn nguôi, có pha chút dè dặt ngậm ngùi và dự cảm dang dở của nhân vật tôi. Thơ tình của nhân loại chưa bao giờ được chứng kiến một thiên tình sử trong một hình thức nhỏ bé như vậy. Và cũng chưa bao giờ thơ tình của nhân loại đạt đến sự minh triết của tình yêu sáng chói như vậy. 3.3.2 Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng Ở phần trên, các đặc điểm của thơ Pushkin trong bài “Tôi yêu em” đã được làm sáng tỏ dưới tư liệu là bản dịch nghĩa của Thúy Toàn để bám sát nguyên tác. Đến phần ngôn ngữ hàm súc và ngôn ngữ giàu nhạc tính, tôi xin được lấy tư liệu là bản dịch thơ của Thúy Toàn để quá trình phân tích được sáng rõ, cân xứng hơn. Nếu Pushkin mở đầu bài thơ theo một cách khác thì bài thơ "Tôi yêu em" không còn là bài thơ trữ tình mà là một trường ca. Puskin đã cắt ngang thiên tình sử để tự sự và trữ tình. Mọi biến cố, mọi xúc cảm, thời gian và không gian đều được dồn nén lại: Tôi yêu em: đến nay chừng có thể Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai. Động từ "yêu" trong nguyên tác đều dùng thì quá khứ đến hiện tại bằng hình ảnh "ngọn lửa tình".Hình tượng ngọn lửa vừa thể hiện sự nồng nhiệt của tình cảm, và diễn tả sự dài lâu, đằng đẵng của nhà thơ đối với người tình.Lối cắt ngang thiên tình sử để giãi bày như vậy khiến cho bài thơ cô đọng, hàm súc.Tác giả không kể lể, chừng mực trong lối biểu hiện cảm xúc, mực thước, kín đáo là những nét nổi bật của phong cách cổ điển.Giai điệu chính của bài thơ đã xuất hiện mà điều muốn nói chỉ mới được sửa soạn nói thôi, nghĩa là nó sẽ được nói qua những biến tấu trong giây phút thăng hoa của tâm hồn thi nhân. Puskin say đắm với người tình, mải mê kiếm tìm mộng đẹp, nhưng chỉ nhận được toàn cay đắng và não nề, cái mà người tình thi sĩ kiếm tìm được lại là thơ. "Tôi yêu em..." là thơ rồi, tôi thôi, không yêu em nữa là cũng để yêu em. Thơ tình của nhân loại chưa từng thấy những lời yêu của trái tim nhân hậu như thế này: Nhưng không để em bận lòng thêm nữa Hay hồn em phải gợn bóng u hoài. Tưởng chừng như Pushkin không dụng công làm thơ mà cấu tứ thật là mới mẻ.Tình mới mà thành thơ mới, tâm hồn cao thượng mà thành thơ cao thượng.Nhà thơ đã chấp nhận thất bại, nhưng không phũ phàng, hằn học.Biến đau thương thành tình yêu thì thật lạ. Tứ thơ lớn cho nên không cần những lời hoa mĩ, không cần các biện pháp tu từ mà vẫn cô đọng, thấm thía.Bài thơ tình phát triển theo những biểu lộ mới mẻ của tình cảm và những nghịch lí: Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm Câu em được người tình như tôi đã yêu em. Nhà thơ đã chọn những chi tiết chính xác để bày tỏ lòng yêu của mình."Tôi yêu em âm thầm", đó là một thứ tình yêu như sóng ngầm, như than hầm, nung nấu, cháy bỏng.Nhưng "không hi vọng", đây cũng là một sự thổ lộ thành thật. Tinh thần cao thượng của Pushkin được diễn tả theo nhịp độ tăng cấp: không yêu em nữa là cũng để yêu em và cầu cho người tình (từ chối mình) được sống hạnh phúc trong tình yêu. Minh triết tình yêu đó là điều hết sức mới mẻ và tạo ra sức hấp dẫn lạ thường.Đấy là nhân cách cao thượng của Pushkin, đấy cũng là tinh hoa của nền văn học Nga, một nền văn học nhân đạo và lí tưởng. 3.3.3 Ngôn ngữ giàu nhạc tính Ngôn ngữ trong thơ còn là ngôn ngữ giàu nhạc tính khiến bài thơ giàu nhạc điệu và du dương như một bản Xonat làm say đắm lòng người. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính thể hiện ở nhịp điệu bao gồm cách phối hợp âm thanh, cách ngắt nhịp và vần.Nhạc tính trong thơ còn thể hiện ở sự trầm bổng, độ ngân vang của ngôn ngữ thơ.Đó là sự thay đổi những âm thanh cao thấp khác nhau giữa thanh bằng và thanh trắc. Trong bản dịch thơ của Thúy Toàn: Tôi yêu em đến nay chừng có thể, Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai, Nhưng không để em bận lòng thêm nữa, Hay hồn em phải gợn bóng u hoài. Tôi yêu em âm thầm, không hy vọng, Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen, Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm, Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em! Với 8 dòng thơ, 66 từ trong đó có 46 từ mang thanh bằng và chỉ có 20 từ mang thanh trắc.Đặc biệt ở một số dòng thơ tỉ lệ thanh bằng gần như chiếm tỉ lệ tuyệt đối, gợi tả nhạc điệu du dương, đưa tâm hồn phiêu du bay bổng. Dưới đây là hệ thống thanh điệu trong bản dịch thơ “Tôi yêu em”: B B B T B B T B T T B B T T B B B B T B T B B T B B B T T T B B B B B B B B B T T T B B T T B B B B B B B B B T B B T B B B B T B B Trong bản dịch thơ, “Tôi yêu em” lặp lại nhiều lần như một điệp khúc (tương ứng với nó trong bản dịch nghĩa “Tôi đã yêu em” lặp lại ba lần ) mang lại nhiều cảm xúc góp phần không nhỏ cho tính nhạc của bài. Nó vừa mang sự quyết tâm khẳng định không chút hồ nghi, băn khoăn, do dự, vừa là một sự thú nhận với tất cả sự chân thành thốt lên tự đáy lòng. Đó là khát vọng cháy bỏng của một trái tim yêu muốn được đáp lại. Nhạc tính còn thể hiện ở nhịp thơ: nhịp thơ trong bài rất linh hoạt, khi thì nhịp thơ chậm rãi, giọng điệu trầm tĩnh ; khi thì nhịp thơ dồn dập, liên tiếp xuất hiện các tính từ chỉ trạng thái cảm xúc (âm thầm, không hi vọng, chân thành, đằm thắm), đã bộc lộ mức độ mãnh liệt của tình yêu. Độ trầm bổng, độ ngân vang của ngôn ngữ thơ kết hợp hài hòa với nhịp thơ linh hoạt đã tạo nên đặc trưng của bài thơ là giọng trữ tình dồn nén mà mãnh liệt, tạo được sức mạnh biểu đạt tình cảm lớn lao trong lòng độc giả. IV.Tổng kết Kết lại, thơ trữ tình của Pushkin đã thể hiện sâu sắc thái độ phê phán chế độ Nga Hoàng, thể hiện khát vọng tự do của con người; Ông đã khắc họa rõ nét tình yêu thiên nhiên xứ sở nươc Nga và đặc biệt Pushkin đã thể hiện tình yêu rất chân thànhsâu sắc. Thơ trữ tình của Pushkin có kết cấu mang tính đối xứng được thể hiện ở sự hài hòa giữa các đối cựcđặc điểm ngắn gọn,ngôn ngữ trong các tác phẩm thơ của Pushkin vừa giản dị, tinh tế, dễ hiểu, đầy tính nhạc mà vẫn luôn mang ý tưởng sâu sắc.Đây chính là điều làm nên giá trị chân lý toàn cầu của Ông. Thơ của Ông là tổng hòa của niềm say mê với cảm xúc tràn trê và với ánh sáng trí tuệ. Nó được xem như là cuốn sử biên niên của thời đại. Qua thơ trữ tình của Pushkin, chúng ta có thể thấy được hình ảnh con người dũng cảm kiên cường trong đấu tranh, chân thành chung thủy trong tình bạn, lành mạnh, trong sáng và tha thiết trong tình yêu, ý thức trách nhiệm cao trong sáng tác nghệ thuật. Thơ của Puskin có tác dụng to lớn trong việc nhân đạo hóa con người, giáo dục con người sống tốt hơn, nhân bản hơn Qua việc tìm hiểu đặc điểm thơ trữ tình trong bài thơ “Tôi yêu em”ta thấy Ông đã thể hiện được tình yêu chân thành đằm thắm, rạo rực tha thiết và cao cả sâu sắc hơn là tấm lòng nguyện hi sinh để người mình yêu luôn được hạnh phúc. Tình yêu của Pushkin được thể hiện trong bài thơ qua kết cấu hài hòa đối xứng.Cấu trúc bài thơ dựng trên mâu thuẫn nghệ thuật giữa trật tự lôgic và mạch cảm xúc, giữa lí trí điềm tĩnh và xúc cảm dâng trào.Nhưng nó đã được hóa giải mâu thuẫn dựa vào sở trường hài hòa giữa các đối cực của Pushkin, điều đó tạo nên một kết cấu hài hòa cho bài thơ.Đồng thời, nhà thơ sử dụng lớp ngôn từ rất chân thành, giản dị, trong sáng, hàm xúc, cô đọng.Lời giãi bày tình yêu của Pushkin được thể hiện bằng hình thức giản dị mà tinh tế.Chất thơ toát ra từ lời thơ giản dị đến mức trong suốt; ít dùng mĩ từ mà vẫn gợi cảm, không ví von, bóng gió.Và bài thơ nói về một tình yêu cao thượng, không vị kỉ nhưng không kém phần đau đớn trần thế. Trong chỉnh thể hài hòa ấy, ta không thể xác định được cao thượng nhiều hơn hay đau đớn trần thế nhiều hơn. Chính nhờ sự giao hòa giữa “mặt đất và bầu trời” ấy mà nỗi buồn trong thơ Pushkin luôn luôn trở thành “sáng trong” Bằng tấm lòng nhân đạo tài năng nghệ thuật Pushkin đã mang đến cho nền văn học Nga giá trị văn học to lớn sâu sắc.Không chỉ vậy, Ông còn là người dẫn đường cho rất nhiều thế hệ văn học trên thế giới. Pushkin được nhân dân Nga ca ngợi thừa nhận là “Mặt trời của thi ca Nga”, Ông xứng đáng là nhà thơ trữ tình vĩ đại nhất trong nền văn học Nga cũng như trên diễn đàn văn học thế giới. * TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Puskin- Wikipedia Tiếng việt. 2.Bài thơ Tôi yêu em- Wikipedia Tiếng việt. 3.Giáo trình văn học Nga – Đỗ Hải Phong (Chủ biên) nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. 4.Pushkin bàn về thơ và nhà thơ của Giáo Sư Đỗ Hải Hà. 5.Đề tài thơ tình của Pushkin- tài liệu Text. * PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
Thành viên Công việc
Nguyễn Thị Hải Yến- Lớp DK64 -II. Đặc điểm thơ trữ tình của Puskin: 2.2 Kết cấu 2.3Ngôn ngữ -III. Đặc điểm thơ trữ tình của Puskin qua bài “Tôi yêu em”
Hoàng Thị Thu Thuyên- Lớp DK64 -II. Đặc điểm thơ trữ tình của Puskin: 2.1. Chủ đề -IV. Tổng kết
Vi Thị Nhàn- Lớp CK64 -I. Khái quát. -II. Đặc điểm thơ trữ tình của Puskin: 2.2Kết cấu 2.3 Ngôn ngữ

1 nhận xét:

  1. Unknownlúc 17:51 5 tháng 5, 2020

    hay

    Trả lờiXóaTrả lời
      Trả lời
Thêm nhận xétTải thêm... Bài đăng Cũ hơn Trang chủ Đăng ký: Đăng Nhận xét (Atom)

Lưu trữ Blog

  • ▼  2017 (27)
    • ▼  tháng 11 (25)
      • Đặc điểm thơ Pushkin qua bài thơ “Tôi yêu em”
      • Thế nào là “nỗi buồn sáng trong” trong thơ A.Pushk...
      • Tính cách Nga thể hiện qua truyện ngắn “Số phận co...
      • TRUYỆN NGẮN “MỘT CON NGƯỜI RA ĐỜI” ...
      • Quan niệm về con người của Maxim Gorky
      • Xung đột kịch trong Chờ Godot của Samuel Beckett
      • Xung đột kịch Trong khi chờ đợi Gôđôcủa Beckett
      • Cái cười trong Lão hà tiện của Moliere
      • Bài thuyết trình: Làm rõ quá trình chuyển biến...
      • Tinh thần nhân văn trong tác phẩm “Người lái buôn ...
      • TINH THẦN NHÂN VĂN  TRONG CHÀNG THƯƠNG NHÂN THÀN...
      • Trình bày nguyên lí Tảng băng trôi Trong tác phẩm ...
      • Trình bày nghệ thuật tiểu thuyết của Honore De Bal...
      • vai trò của tác phẩm “Robinson Crusoe” trong phong...
      • NGHỆ THUẬT LÃNG MẠN QUA HÌNH TƯỢNG JEAN VALIJEAN T...
      • TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA NGỮ VĂN ———&...
      • Đặc điểm truyện ngắn O. Henry qua tác phẩm “Chiếc ...
      • Tinh thần nhân văn của thời đại Phục hưng qua truy...
      • TINH THẦN NHÂN VĂN CỦA THỜI ĐẠI PHỤC HƯNG QUA TÁC...
      • II. Tư tưởng nhân văn trong truyên “Mười ngày”. ...
      • ĐỀ TÀI: Tính toàn dân tộc trong sử thi Iliat của ...
      • ĐẶC TRƯNG SỬ THI TRONG "ODYSSEY"
      • Chủ đề: Đọc hiểu văn bản truyện ngắn 1945 - 1975
      • Nhà thơ Sergei Aleksandrovich Esenin
      • Lá thư gửi Thầy”

Giới thiệu về tôi

Unknown Xem hồ sơ hoàn chỉnh của tôi

Từ khóa » Thơ Chủ đề Tình Yêu Của Puskin