ĐẶC ĐIỂM TIẾNG NÓI VÀ CHỮ VIẾT CỦA DÂN TỘC CHĂM
Có thể bạn quan tâm
Bia ký Đông Yên Châu Nguồn: G. Coedes, La plus ancienne inscription en langue Cham, pp.46 – 49.
Chữ viết trên tấm bia này (thế kỷ IV) có nguồn gốc từ loại văn tự Devanagari của Ấn độ mà người Chăm thường dùng tiếng Chăm để khắc trên các bia đá song song với tiếng Phạn cho đến thế kỷ XV.
* (3) Văn tự thuộc thời kỳ cận đại (thế kỷ XVI – XVIII) là loại chữ chủ yếu viết trên lá buông hay trên giấy. Loại chữ viết này thường viết theo ba phong cách khác nhau. Mỗi loại đều có tên gọi riêng như akhar rik, akhar yok, akhar atuel.
Akhar rik là chữ viết theo nghi thức tôn giáo được các giới tăng lữ (Po Adhia, Pasaih) và tu sĩ (Po Gru, Acar) dùng để viết bùa chú và phiên một số
từ trong các văn bản viết tay. Nó được xem như là một loại chữ viết “thiêng liêng, tôn nghiêm”.
Mẫu chữ xưa nhất của người Chăm mà chúng ta biết được là mẫu chữ có nguồn gốc ở miền Nam Ấn độ, được thể hiện ở trên bia ký Võ Cạnh (vừa đề cập ở trên), có niên đại phỏng đoán vào thế kỷ III. Nhưng từ thế kỷ IV trở về sau, họ có khuynh hướng sáng tạo mẫu chữ của riêng để ghi chép tiếng nói của mình trên các bia ký. Lúc đầu được trình bày xen kẻ với tiếng Phạn, sau đó càng về sau tiếng Chăm càng chiếm tỷ lệ cao hơn. Trong quá trình khắc chạm, các chữ viết trên bia ký được hoàn chỉnh dần dần và cuối cùng dẫn đến kết quả xuất hiện một loại mẫu tự mới goi là akhar rik.
Đây là một loại chữ mang nhiều dấu ấn gạch nối giữa văn tự cổ đại khắc trên đá với văn tự hiện đại viết trên lá buông, sau đó viết trên giấy. Ngày nay, loại chữ này ít người biết đọc, chủ yếu các vị tăng lữ và các vị tu sĩ lớn tuổi có thể biết đọc, biết viết. Ví dụ như Gru Độ, 82 tuổi (Palei Panat, thôn Bình Thắng, xã Phan Hòa, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận); Imam Ngói, 70 tuổi (Palei Aia Mâng Mih, thôn Bình Minh, xã Phan Hòa, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận).
Akhar Rik Nguồn: A. Cabaton, Nouvelles Recherches sur les Chams,
Akhar Rik Photograph: Gru Hajan Akhar yok là một loại chữ “huyền bí”, theo cách giải thích của Aymonier. Do đó, A. Cabaton gọi akhar yok là “chữ viết che dấu”. Thực ra, đây là một dạng văn tự dùng các mẫu tự phụ âm và các mẫu tự nguyên âm liên kết với nhau theo một trình tự nhất định, gần giống như cấu trúc văn tự Latinh. Có nghĩa là chỉ có ina akhar (con chữ, chữ cái/nguyên âm, phụ âm), không có takai akhar (dấu chữ/ký hiệu). Theo chúng tôi, ý nghĩa của từ “yok” là phía sau, chữ này đứng sau chữ kia theo thứ tự đánh vần, không có các dấu chữ đứng trước như akhar thrah (takai trak, dar sa, dar sa – dar dua đứng phía trước) hoặc các dấu chữ ở trên (như papaoh thek, papaoh ngâk, traoh ao) hay ở dưới mẫu tự (như takai klak, takai kuak, takai kuk). Do đó, cách ráp vần đơn giản hơn, khác nhiều với cách ráp vần và đánh vần của akhar rik và akhar thrah.
Akhar Yok, Nguồn: A. Cabaton, Nouvelles Recherches sur les Chams, p. 94 Akhar atuel là loại văn tự viết gần giống như văn tự trung đại nhưng có khuynh hướng viết tắt đối với một số từ. A. Aymonier gọi là “chữ treo, viết theo ký hiệu chữ đầu”. Theo tiếng Chăm, “atuel” có nghĩa là treo, vì vậy, A. Cabaton gọi akhar atuel là “chữ tắt theo lối treo”[1]. Thay vì viết liên tục theo thứ tự kế tiếp ngang hàng nhau như akhar yok hay văn tự Latinh (chữ trước và chữ sau ngang hàng với nhau), ngược lại Akhar atuel viết theo cách khác. Các phụ âm cuối không viết ngang bằng và xếp ngang hàng ở phía sau của phụ âm đầu hoặc kéo dài chân chữ (inâ akhar matai), mà trái lại viết nhỏ hơn và đặt ở dưới chân của phụ âm đầu
Akhar Atuel. Nguồn: E. Aymonier và A. Cabaton, Dictionnaire cam – franҫais, p. XII. * (4) Loại văn tự thuộc thời kỳ hiện đại (từ sau thế kỷ XIX đến nay) là loại chữ thông dụng được người Chăm sử dụng phổ biến để ghi chép các văn bản hành chính, các chứng từ pháp lý, các chỉ dụ của vua, các văn thơ, lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, tập quán v… v…
Ngày nay, văn tự này được gọi là akhar thrah. Có thể nói, trong các loại văn tự vừa nêu trên, chỉ có akhar thrah là loại văn tự còn được sử dụng một cách phổ biến ở trong mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi của người Chăm, từ các giới tăng lữ, tu sĩ, chức sắc, bô lão cho đến các giới nhân sĩ trí thức, bao gồm các trí thức Chăm có học vị khoa học hiện nay, sinh viên và nông dân Chăm. Do đó, các tư liệu văn bản hiện nay đang còn lưu giữ trong các gia đình của người Chăm ở Việt Nam đa phần là akhar thrah. Ngoài ra, chúng ta có thể tìm thấy văn bản này ở một số thư viện ở Việt Nam, Mã Lai, Pháp và Mỹ.
Akhar Thrah Photograph: Gru Hajan Các quyển sách ghi chép bằng các văn tự akhar rik, akhar yok, akhar atuel, akhar thrah thường có kích thước không đều nhau và ngay cả về độ dày mỏng của các quyển sách và tập văn bản cũng không đồng nhất. Với loại văn bản viết trên lá buông thì kích thước thay đổi từ 40 x 105 mm đến 30 x 416 mm. Văn bản viết trên giấy mỏng thì có kích thước từ 225 x 225 mm đến 115 x 190 mm. Còn văn bản viết trên giấy dày thì có khổ từ 230 x 250 mm đến 110 x 160 mm… Nhưng tính trung bình giữa tập mỏng nhất và tập dày nhất thì có thể ước lượng mỗi tập văn bản trung bình khoảng từ 50 đến 400 trang.
Các quyển tập văn bản viết tay của người Chăm Photograph: Gru Hajan 3.Sự ảnh hưởng của văn tự Sanskrit đối với chữ viết của người Chăm:
Trong suốt hành trình sáng tạo ra nền văn hóa phong phú, đặc sắc và đa dạng, người Chăm đã sáng tạo ra nhiều dạng chữ viết để ghi chép ghi chép lại những trang lịch sử, văn hoá và các sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc mình từ những năm đầu công nguyên. Mặc dù, văn tự Chăm có sự biến đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, nhưng vẫn luôn giữ những qui tắc cơ bản của cấu trúc và hệ thống của văn tự Sankrit. Dưới đây là bảng so sánh văn tự Sanskrit với các dạng văn tự akhar tapaoh, akhar rik, akhar atuel, akhar yok, akhar thrah.
Mẫu tự Sanskrit (Devanagari),Nguồn: Thomas Egenes, Introduction to Sanskrit, p. 44 
Qua sự so sánh ở trên cho thấy, về mặt hình thức có sự biến đổi về kiểu chữ theo phong cách khác nhau của mỗi thời kỳ lịch sử. Về mặt âm vận có thêm một số nguyên âm như âm [â], [e] ([â] đọc theo mẫu tự tiếng Việt là [ư], [e] đọc theo mẫu tự tiếng Việt là [ơ]). Nhưng nhìn chung, về mặt cơ bản là giống nhau.
4. Tình hình bảo tồn và phát huy giá trị các tư liệu bằng văn tự Chăm
4.1. Tình hình bảo tồn tư liệu văn tự Chăm ở trong các gia đình tăng lữ, giáo sĩ Chăm:
Số lượng tư liệu viết bằng văn tự Chăm đa phần được lưu giữ ở trong các gia đình tăng lữ, giáo sĩ người Chăm, nó mang ý nghĩa như một bảo bối và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các tư liệu này được sao chép rất cẩn thận khi cá nhân này trở thành thành viên của tầng lớp chức sắc. Vì vậy, hầu hết số lượng tư liệu viết bằng văn tự Chăm được bảo quản rất tốt và xem như là gia bảo, là hình ảnh tiền bối trên con đường hành nghề và tu luyện của mình.
Trước đây, số lượng tư liệu viết bằng văn tự Chăm lưu giữ ở trong các gia đình chức sắc Chăm đều được bọc bằng vải, hoặc để trong rương làm bằng mây hoặc gỗ. Nhân tố nắng mưa ít làm tác hại. Thông dụng hơn cả là chúng được giữ trong những chiếc giỏ mây tre (aciét) treo dưới trần nhà. Những cuốn sách thông dụng được sử dụng hàng ngày như những cẩm nang được xếp ngay ngắn trên Kla tapuk (giá sách) gần danaok Po Gru (bàn thờ tổ).
Theo tục lệ của người Chăm, hàng năm thường thực hiện nghi thức kiểm tra gọi là Pambang akhar (báo cáo với với tổ tiên và bậc tiền bối) và Pahuor akhar (làm trong sạch chữ). Nhưng ngày nay, nhiều chức sắc không còn hưởng bổng lộc từ ruộng đất của gia đình, dòng họ, làng xã, đền tháp, thánh đường nên họ buộc phải tập trung thời gian và sức lực để mưu sinh
nuôi sống gia đình, không còn thời gian để luyện tập kinh kệ và chăm sóc các tập sách cổ do tổ tiên để lại.
4.2. Tình hình lưu giữ tư liệu bằng văn tự Chăm ở trong các gia nhân sĩ, trí thức Chăm:
Trước đây, khá nhiều đội ngũ nhân sĩ, trí thức Chăm quan tâm đến lịch sử, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán, nên thường chú trọng đến việc tìm hiểu văn hoá cộng đồng mình qua các tư liệu viết bằng văn tự. Do đó, ở trong các gia đình nhân sĩ, trí thức Chăm thường có ý thức lưu trữ và bảo tồn khá tốt những tư liệu viết bằng văn tự Chăm. Nhưng ngày nay, những lớp thế hệ trên đang lần lượt ra đi và không còn nhiều. Vì vậy, những tư liệu bằng văn tự Chăm không được thế hệ sau quan tâm đúng mức như trước đây nữa. Từ sự vô tâm của các thành viên trong gia đình thuộc thế hệ ngày nay đã đẩy những tư liệu bằng văn tự Chăm đến sự huỷ hoại, hư hao, mất mát ngày càng trầm trọng hơn.
4.3. Thực trạng nghiên cứu, lưu giữ tư liệu bằng văn tự Chăm ở trong các Bảo tàng, Thư viện, Trung tâm Nghiên cứu và Trường học:
Vào năm 1969, sau một thời gian dài không một ai tiếp tục quan tâm đến việc nghiên cứu và sưu tầm tư liệu bằng văn tự Chăm của người Chăm, Trung tâm Lịch sử và Văn minh Bán đảo Đông Dương bắt đầu kiểm kê lại tư liệu Chăm ở trong các kho lưu trữ của các thư viện Pháp cho thấy nơi đây lưu giữ các văn bản bằng tư liệu bằng văn tự Chăm với số lượng rất đáng kể, gồm có tất cả là 347 tập.
Sau năm 1969, ở Phan Rang tỉnh Ninh Thuận hình thành Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hoá Chăm, do một học giả người Pháp G. Moussay sáng lập ra. Trong thời gian hoạt động, nhờ có sự cộng tác của các trí thức Chăm, Trung tâm này đã thu thập được một số văn bản viết tay bằng văn tự Chăm. Nhưng từ sau năm 1975, những tư liệu này phần lớn đã được chuyển sang Pháp, một số còn lại hầu như ít ai quan tâm đến nên đã bị thất lạc khá nhiều.
Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá Chăm, ở đây lưu trữ khoảng chừng 3.000 trang photocopy (khoảng 95 cuốn), 550 cuộn phim trắng đen 336 cuốn băng (khoảng chừng 336 cuốn, tương ứng với 20.000 trang), 12 cuốn tập văn bản gốc của người Raglai và 7 tập văn bản gốc viết trên lá buông.
Những năm gần đây, Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã tiến hành nghiên cứu và sưu tầm văn tự của người Chăm do Toyota Foundation tài trợ. Chương trình này đã được thực hiện từ tháng 12/1998 đến tháng 12/2002. Qua chương trình này, họ đã sưu tập được trên 500 tập với khoảng 10.000 trang viết tay với nhiều kích cở khác nhau.
Qua cuộc khảo sát của một số gia đình người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận trong thời gian vừa qua của Cục Lưu Trữ Nhà Nước và Đoàn Chuyên gia Nhật Bản thuộc Trung Tâm Tu Bổ và Phục Chế Giấy Tokyo từ ngày 7-9/2/2001 cho thấy tình hình văn bản cổ ở trong các gia đình người Chăm hiện nay đang ở trong tình trạng báo động về sự huỷ hoại và mất mát.
Riêng tư liệu văn khắc, cho đến nay rất ít người xem trọng. Đa số xem đây là một loại chữ viết cổ rất xa lạ đối với họ, kể cả một số người có chuyên môn về Bảo tàng. Điều này dễ hiểu, bởi vì những người biết đọc văn khắc trên các bia ký Champa rất hiếm. Do đó, hầu như không biết giá trị nội dung của mỗi bia ký mà họ đang quản lý là như thế nào. Nhiều Bảo tàng đưa vào trong kho chứa. Một số Bảo tàng vứt ở ngoài lộ thiên, thỉnh thoảng dùng làm ghế ngồi hay bàn để bình trà khi thấy thuận tiện. Thậm chí còn bị một số người vô tâm xâm phạm trước sự thờ ơ của những nhà chức trách.
5. Thực trạng truyền dạy văn tự Chăm hiện nay
Trước năm 1975, văn tự Chăm chủ yếu được truyền dạy cho thế trẻ bởi các tăng lữ, tu sĩ, chức sắc hay các bô lão. Do đó, phương pháp dạy học chủ
yếu theo phương pháp truyền thống. Sau năm 1975, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam, văn tự Chăm được tổ chức dạy cho các em học sinh ở cấp bậc tiểu học.
Để đáp ứng chương trình giảng dạy chữ Chăm ở các trường tiểu học, tỉnh Thuận Hải (nay tách thành hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận) thành lập Ban biên soạn chữ Chăm, cơ quan đặt tại tỉnh Ninh Thuận ngày nay. Đến nay, Ban biên soạn chữ Chăm đã biên soạn nhiều giáo trình tiếng Chăm, từ lớp 1 đến lớp 5. Đây là giáo trình chính thức được giảng dạy chữ Chăm ở trong Trường Tiểu học hiện nay.
Kết quả của chương trình giảng dạy chữ Chăm đã giúp các thế hệ trẻ người Chăm có điều kiện thuận lợi tiếp cận chữ Chăm. Nhưng, sau 5 năm theo học chữ Chăm ở bậc tiểu học, các em học sinh Chăm không đọc được văn tự Chăm do cha ông họ để lại. Có nghĩa là không có triển vọng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống dân tộc của chính họ. Chính lý do nêu trên, văn tự Chăm trong tương lai ít có cơ hội phát huy giá trị nó. Đào tạo một thế hệ trẻ đoạn tuyệt với sự tiếp nối thế hệ cha ông. Đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm cản trở việc bảo tồn văn tự Chăm nói riêng, di sản văn hóa Chăm nói chung.
Hiện nay, nơi cộng đồng người Chăm sống tập trung đông hơn cả chỉ còn ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Chính vì vậy, ở đây vẫn còn bảo lưu nhiều giá trị văn hoá của cha ông để lại như hệ thống lễ tục, lễ hội, điệu múa, âm nhạc, kiến trúc, kinh kệ, luật tục, phong tục, tập quán và các dòng văn học dân gian… Những giá trị văn hoá này không chỉ vẫn còn thực hiện phổ biến ở trong đời sống sinh hoạt của cộng đồng mà còn được ghi chép lại ở trong các văn bản thư tịch cổ đang được lưu giữ ở trong các gia đình người Chăm ngày nay.
Để đáp ứng tình hình trên, Trung tâm Bảo trợ Sinh viên Dân tộc Thiểu số và Chi hội Dân tộc Chăm thuộc Hội Dân tộc học Thành phố Hồ Chí Minh
đã mở một lớp học tiếng Chăm cho các sinh viên có quan tâm và yêu thích văn hóa Chăm. Lớp học dự kiến mở một lớp khoảng 30 học viên, nhưng số lượng sinh viên đăng ký theo học 84 người. Trong đó, đa phần là sinh viên Chăm, sinh viên Sử học và sinh viên Nhân học. Điều này, chứng tỏ nhu cầu học tiếng Chăm theo truyền thống của sinh viên nói chung, sinh viên Chăm nói riêng là có thực.
6. Tình hình khai thác tư liệu văn tự Chăm trong việc nghiên cứu người Chăm ở Việt Nam
Từ sau năm 1975 cho đến nay, việc nghiên cứu văn hóa Chăm ngày càng được nhiều người quan tâm và đã xuất bản một số quyển sách về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, ngôn ngữ, văn học liên quan đến tộc người Chăm.
Đặc biệt, bên cạnh các công trình nêu trên, cũng không ít sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh của khoa Lịch sử học, Nhân học, Văn hóa học, Đông Phương học đã chọn đề tài văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, ngôn ngữ, văn học liên quan đến tộc người Chăm để làm khóa luận tốt nghiệp đại học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Mặc dầu có khá nhiều công trình và đề tài nghiên cứu về người Chăm, nhưng khi điểm qua một số công trình nghiên cứu tiêu biểu vừa nêu trên cho thấy hầu như rất ít các công trình nghiên cứu này khai thác nguồn tư liệu trực tiếp từ các tư liệu bằng văn tự Chăm. Do hạn chế về nguồn tư liệu gốc bằng văn tự Chăm nên không có cứ liệu để kiểm chứng độ chuẩn xác khi tham khảo các nguồn tài liệu khác. Trên thực tế hiện nay, những người nghiên cứu thường hay sử dụng tiếng Việt để giao tiếp và thực hiện các cuộc phỏng vấn đối với các thông tín viên ở tại địa bàn nghiên cứu. Điều này dễ bị ngộ nhận, sai lệch và thiếu chân thực khi phiên dịch, giải nghĩa hay diễn đạt theo tiếng Việt. Qua các kinh nghiệm của các nhà dân tộc học và nhân học cho thấy, độ tin cậy của dữ liệu thu thập trên thực tế tùy
thuộc vào việc thành thạo tiếng nói và chữ viết đối tượng nghiên cứu hay không.
Nhìn chung, nguyên nhân dẫn đến những trường hợp nêu trên là do ít ai sử dụng tư liệu viết bằng chữ Chăm làm căn cứ khoa học trong đề tài nghiên cứu của mình. Vì vậy, những kết quả nghiên cứu dễ bị sai lệch nhiều, không chính xác, dẫn đến sự nhầm lẫn, hiểu sai ý nghĩa, đưa ra lời nhận định không chính xác.
Xét về phương pháp tiến hành điền dã dân tộc học, việc đầu tiên cần nên cân nhắc là khả năng am hiểu tiếng nói và chữ viết của một cộng đồng mà nhà nghiên cứu sẽ tiếp xúc, trao đổi, phỏng vấn và được xem là kỷ năng của một người quan sát tham dự.
Kết luận
Trong quá trình giao lưu văn hóa, người Chăm đã sớm biết sử dụng văn tự Sanskrit để ghi chép lại những trang lịch sử, văn hoá và các sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc mình từ những năm đầu công nguyên. Trên cơ sở của hệ thống văn tự Sanskrit này, người Chăm đã sáng tạo nên các chữ viết riêng nhằm chuyển tải ngôn ngữ tộc người của họ một cách hoàn thiện hơn.
Mặc dù, văn tự Chăm có sự biến đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, nhưng vẫn luôn giữ những qui tắc cơ bản của cấu trúc và hệ thống của văn tự Sankrit. Điều này, có thể nói rằng, văn hoá Ấn Độ và văn hoá Việt Nam nói chung, văn hoá Chăm nói riêng là hai nền văn hoá đã có mối quan hệ giao lưu từ lâu đời.
Dấu ấn của nền văn minh và văn hoá Ấn Độ đã để lại khá đậm nét trong văn tự của người Chăm. Ngày nay, văn tự Chăm là nguồn tư liệu văn bản cổ vô giá và đã trở thành di sản quí báu, trong đó chứa đựng những thông tin của tiền nhân, những thông điệp từ quá khứ, thể hiện mối giao lưu của hai nền văn hóa Việt Nam – Ấn Độ. Những tư liệu này chỉ mất đi chứ không thể sản sinh thêm. Đặc biệt, nó có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm hiện nay. Nó không những thể hiện tư duy mà còn thể hiện bản sắc văn hoá của một dân tộc. Một khối lượng lớn những tư liệu bằng nguyên vật liệu đá, kim loại, lá buông, giấy đang ở trong tình trạng báo động và đang bị hủy hoại bởi môi trường, khí hậu, chiến tranh, thời gian và sự vô tâm bởi con người.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do ngày nay ít còn ai quan tâm, kể cả một số nhà nghiên cứu văn hóa tộc người Chăm vẫn còn hờ hững đối với tư liệu văn bản Chăm, với lý do là khó đọc cần nên thay cách viết theo kiểu mới dễ viết, dễ đọc hơn. Đây là nguồn tài liệu vô cùng qúy giá không chỉ đối với việc nghiên cứu lịch sử – văn hoá của dân tộc Chăm mà còn là những nguồn tư liệu qúy để các nhà khoa học tìm hiểu về lịch sử và quá trình giao lưu văn hóa giữa tộc người Chăm và Đông Nam Á, giữa Champa và Ấn Độ, giữa Việt Nam và Thế giới. Nếu không sớm đặt vấn đề để khai thác nguồn tư liệu này thì không bao lâu chúng ta khó có cơ hội để khôi phục và bảo tồn.
Để bảo tồn nguồn tư liệu này một cách bền vững cần nên có một Viện nghiên cứu hay Trung tâm chuyên nghiên cứu về ngôn ngữ và văn hóa Chăm ở trong một Trường Đại học thì mới có hy vọng cứu vớt kịp thời di sản văn hóa Champa một cách toàn diện.
Tác giả: Gru Hajan
www.chamranam.com
Từ khóa » Dịch Tiếng Dân Tộc Chăm
-
Tiếng Chăm – Wikipedia Tiếng Việt
-
Người Chăm – Wikipedia Tiếng Việt
-
Từ điển Tiếng Chăm - Từ điển Các Nhà Khoa Học Tiên Phong Về Nền ...
-
Tiếng Chăm - Bộ GD&ĐT
-
Nghĩa Của "người Chăm" Trong Tiếng Anh
-
Nghĩa đúng Từ "Kau" Trong Tiếng Chăm
-
Dịch Thuật Công Chứng Tiếng Chăm
-
5.000 Từ Vựng Việt – Chăm: Thử Bàn Về Cách Chọn Từ
-
Tiếng Chăm Lên Sóng Truyền Hình - Ủy Ban Dân Tộc
-
Cùng Nhau Học Tiếng Chăm - Bài 1: Học Đếm Số - YouTube
-
Vũ Ngọc Ánh Về Bình Thuận Học Tiếng Chăm. - YouTube
-
Người đi Tìm Chữ Viết Chăm H'Roi
-
Người Chăm Và Văn Hóa Chăm ở Việt Nam - BBC News Tiếng Việt
-
Người Chăm Và Mùa Covid-19 ở Việt Nam - BBC News Tiếng Việt