DÂN TỘC GIẤY - Haivanchan

DÂN TỘC GIẤY

Người Giấy là một quần thể cư dân nông nghiệp có nhiều kinh nghiệm làm lúa nước, cư trú chủ yếu ở các huyện Bát Xát, Mường Khương, Bảo Yên, Bào Thắng (tỉnh Lào Cai) huyện Yên Minh, Đồng Văn (tỉnh Hà Giang), huyện Phong Thổ, Mường Tè (tỉnh Lai Châu) và còn có một bộ phận người Giấy huyện Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng). Tỉnh Lào Cai là nơi tụ cư của người Giấy đông nhất. Người Giấy còn có tên gọi khác như: Nhắng hay Giẳng là những tên gọi có biến âm từ tộc danh Giấy, thí dụ ở tỉnh Lào Cai và Lai Châu người Tày, người Thái gọi người Giấy là Giẳng, người Việt gọi người Giấy là Nhắng, còn Giấy là tên tự gọi.

Trong lịch sử xa xưa người Giấy còn được gọi là Bố Y, Bạch Y Chủng Cha, Sa Nhân, Pu Năm... Tiếng Giấy thuộc ngứ hệ Thái - KaĐai với dân số khoảng 38.014 người, gợi lại những quá khứ di cư của người Giấy xuống phương nam thật đen tối và đầy nước mắt, tổ tiên của họ phần đông là những nông nô (người chủng chá) phải đi làm cuông, làm nhóc cho giai cấp thống trị Hán tộc, họ bị bóc lột rất nặng nề, đẩy họ vào con đường cùng, sống cơ cực, đói rách, buộc họ phải từ bỏ quê hương, đi tìm đất sinh sống khác.

Những gia đình đầu tiên sang Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ XVIII cách dây 200 năm, tiếp theo có nhiều dòng họ chuyển cư tiếp, cách ngày nay từ 100 đến 150 năm. Đặc điểm của người Giấy có quan hệ mật thiết về các mặt như ăn ở, may mặc, ngôn ngữ, phong tục... rất gần gũi với người Tày, Nùng, Thái, Bố Y, Tu Dí, Pu Lá. . .

Theo tục lệ cổ truyền hàng năm người Giấy tổ chức lễ roóng pọc để mở đầu cho mùa làm ruộng, như hội xuống đồng ở các vùng người Tày. Người Giấy coi cây lúa tẻ là cây lương thực chính. Họ tích lũy được nhiều kinh nghiệm làm lúa nước trên các thửa ruộng bậc thang, có tinh thần hợp tác trong cộng đồng, tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động, sản xuất, như lập ra từng nhóm ăn rau (tương tự như tổ đổi công của người Việt trước đây). Bên cạnh việc trồng lúa nước, gia đình nào cũng phát triển làm nương rẫy, trồng ngô, khoai, sắn, bầu bí, rau, cây có củ, nhiều cây lương thực, thực phẩm trồng gối vụ đan xen khác.

Chăn nuôi cũng được người Giấy khai thác và đặc biệt chú ý nuôi trâu dùng để cày bừa, ngựa nuôi dùng làm phương tiện đi lại vận chuyển hàng hoá, lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng dùng để lo khi có việc đình đám, cưới hỏi, lễ Tết và cải thiện bữa ăn trong sinh hoạt của gia đình. Tập quán của người Giấy ngoài ngôi nhà chính, mỗi gia đình còn có một ngôi nhà phụ, ở ngoài rẫy để người già ra ở trông coi hoa màu và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Riêng trâu của nhiều gia đình trong bản, được thả rong ở một khu rừng đã rào chắn có tên là lùng vái, khi nào cần mới đưa trâu về, chăn dắt hoặc sử dụng lấy thịt làm đồ lễ hiến sinh.

Trong xã hội người Giấy, nghề thủ công nghiệp phát triển còn chưa được mạnh, phổ biến là đan những dụng cụ, đồ dùng cho gia đình bằng tre, tự túc làm để dùng là chính, không có tính chất sản phẩm hàng hoá trao đổi. Có một vài địa phương, người Giấy biết đúc lưỡi cày, làm ren sửa chữa công cụ, làm đồ trang sức, vòng bạc, vòng đồng, trồng bông kéo sợi dệt vải khổ hẹp và dệt thổ cẩm rất đẹp và trang nhã.

Ngôi nhà cổ truyền thống của người Giấy là nhà sàn, hiện nay có nhóm người Giấy ở hai tỉnh Hà Giang và Cao Bằng vẫn ở ngôi nhà sàn truyền thống, còn nhóm người Giấy ở Lào Cai và Sơn La thì ở nhà đất, nhưng mặt trước nhà vẫn làm sân phơi. Đặc điểm chung các ngôi nhà của người Giấy, dù nhà sàn hay nhà đất, bao giờ cũng cao và rộng lòng. Vì kèo gỗ được gá lên bốn hàng cột cái, trên quá giang và câu đầu, có hai cái trụ mô phỏng cái chõ cơm (ăn ray rán) xung quanh nhà làm vách tre nứa, hoặc bằng ván gỗ ghép lại, ở một số nơi còn làm tường nhà bằng đất nện kỹ. Trong nhà, bàn thờ đặt ở gian giữa, còn hai bên ngăn ra để làm buồng ngủ cho phụ nữ.

Tập quán người Giấy ăn cơm đỗ gạo, bằng cách luộc gạo cho chín dở, rồi mới đem vào chõ đổ lên như xôi, nước luộc gạo dùng làm đồ uống trong ngày. Chế biến các món ăn và cách nấu nướng trong gia đình vào ngày lễ Tết, ngày cưới phần nào bị ảnh hưởng của người Hán. Hàng năm đến mùa thu khi có lúa non là mùa cốm, nhà nào cũng làm cốm. Ngày ''hội cốm'' của bản nhộn nhịp khắp nơi, trai gái gặp nhau tỏ tình kết bạn dưới ánh trăng mùa thu.

Y phục của người phụ nữ Giấy theo kiểu truyền thống, mặc váy xoè che kín gối, còn cách mặc ngày nay có cải tiến để đơn giản ít thêu thùa, gồm một chiếc quần màu chàm đen, có dải vải đỏ được đắp trên phần cạp, chiếc áo cánh năm thân hở tà đai che kín mông, khuy cài sang nách phải, cổ áo và cổ tay được viền những dải vải khác màu nơi trên nền áo.

Nam giới mặc quần lá toạ, áo cánh xẻ tà, mở khuy áo đằng trước. Phụ nữ để tóc dài vấn quanh đầu có những sợi chỉ hồng buông theo chiều dài của đuôi tóc. Khi đi chơi, người phụ nữ nào cũng thích mang theo một chiếc túi vải, có trang trí những đường thêu gấp khúc.

Xưa kia xã hội người Giấy có một người đại diện đứng đầu một khu vực hành chính (tương đương với một xã) gọi là srảy (lý trưởng) dưới quyền là pỏ (phó lý), sru quản lý vài ba thôn. Họ được rất nhiều quyền lợi, được hưởng những thửa ruộng công do những người dân sống dưới quyền phải cày cấy sẵn. Riêng đối với srảy còn có lính phục dịch hầu hạ, có cả những người trong thảo quả để cho srảy đứng ra thu hoa lợi.

Các bản trong khu vực khi có đám tang, đám cưới tổ chức cả đội xoè để làm vui trong yến tiệc. Trong ba chức dịch này, người đứng đầu thôn hoặc bản là Pinh giúp việc cho họ, đốc thúc đi phu, đóng thuế là xịp ná, hai chức dịch này cũng được hưởng những suất ruộng công, được miễn sưa thuế nhưng phải tự mình cày cấy lấy để thu hoạch sản phẩm.

Dưới thời Pháp thuộc ngoài các chức dịch hành chính nói trên, còn có các người tham gia trong bộ máy quân sự ở địa phương (hay thường gọi là địa phương quan), bộ máy quản lý hành chính Nhà nước như: Châu đoàn, tổng đoàn, xã đoàn, lính địa phương, lính nhà vua, họ đều là những người có địa vị cao trong xã hội người Giấy. Nông dân và các tầng lớp lao động khác phải sống nghèo khổ, cơ cực, bắt làm lao dịch, nộp sưu cao, thuế nặng, lại luôn bị bắt phải cống nạp cho tầng lớp trên mới được yên thân.

Ngày xưa các bản của người Giấy, ruộng đất hầu hết là ruộng công điền, ruộng tư điền chiếm một tỷ lệ rất ít, chỉ khoảng 2% ở mỗi làng. Mỗi bản có một khu rừng cấm, cây nào cao nhất được gọi là cây chủ rừng. Hàng năm dân bản tổ chức cấm bang để cầu cúng thần của bản làng, cứ vào dịp đầu năm và cuối năm hai lần lại làm lễ cúng bái tại gốc cây chủ rừng, cầu chúc cho dân làng may mắn và hạnh phúc.

Mỗi làng cũng để dành ra một phần ruộng công dùng vào,việc thờ cúng như: Ruộng thần (ná xia), ruộng thổ công (ná thủ tỷ). Khi tổ chức cấm bang, có dựng ở đầu làng một cổng tre, với tấm phên đan mắt cáo, treo những dấu hiệu của đồ vật làm lễ hiến tế như: Tai lợn, tai trâu, chân hay một dúm lông con vật. Nếu bất cứ ai không theo luật lệ, cứ tự tiện đi vào làng, sẽ bị phạt vạ bằng hiện vật gà, rượu để cúng tạ thần, có nhiều nơi làng còn bắt vạ bất cứ vật gì mà làng đã ''thông báo'' như trên tấm phên làng giết con vật nào, thì bồi thường con vật ấy.

Gia đình trong xã hội người Giấy là gia đình nhỏ phụ quyền, mọi công việc trong nhà đều do người chồng, người cha quyết định. Người phụ nữ phải tuyệt đối tuân theo lễ giáo tam tòng. Trong quan hệ hôn nhân còn nặng tính chất mua bán, trải qua nhiều bước lễ nghi hình thức, gây nhiều rắc rối phức tạp cho trai gái trong làng.

Tập quán cổ truyền xa xưa của người Giấy, phụ nữ khi sinh nở có thói quen đẻ ngồi, đem rau thai chôn xuống gầm giường. Trong buồng cữ nơi sinh cháu bé đặt một bàn thờ mụ (mè pang) đến khi đầy tháng mới làm lễ trình báo tổ tiên, đồng thời mới được đặt tên cho cháu bé. Trong khi lễ, thầy cúng đã lập lá số (sru nình) bằng một mảnh vải đỏ, lá số này dùng khi cháu bé lớn lên khi trưởng thành, lấy vợ hoặc lấy chồng sẽ so tuổi để kết hôn, tục chết thì chọn giờ nhập quan, giờ hạ huyệt của người đó.

Tang lễ xưa kia của người Giấy có tục quàn xác ở nhà, từ ba đến năm ngày rồi mới đưa đi chôn cất. Khi báo tang gia chủ phải chắp tay giữa ngực, ngồi quỳ ở dưới hiên nhà thân nhân, lúc đưa đám phải đi nhanh như chạy vì sợ bị ''cướp xác''. Người nào chết ở trường hợp ''bất dắc kỳ tử'' thì không được quàn xác ở trong nhà. Phong tục để tang của người Giấy không được cắt tóc cạo râu trong thời gian 90 ngày đối với tang cha, 120 ngày đối với tang mẹ, làm lễ dạn tang thường tổ chức và trước Tết Nguyên Đán hàng năm.

Trong tín ngưỡng tiềm thức tâm linh của người Giấy quan niệm, thế giới loài người đang sinh sống gồm có ba tầng, con người ở tầng giữa, tầng trời ở trên cao đẹp đẽ được vinh hiển, cao sang, tầng trong lòng đất nhỏ bé đầy những quỷ dữ và tội lỗi.

Mỗi gia đình nơi người Giấy ở đều có bàn thờ đặt ở giữa nhà, đặt nhiều bát hương, mỗi bát hương thờ một ngôi như: Trời, đất, tổ tiên, vua bếp và thổ thần. ..

Người Giấy còn lưu giữ bảo tồn được nhiều nét văn hoá có giá trị tinh thần trong đời sống xã hội, rất nhiều hình thức như truyện kể, truyện cười, truyện thơ, câu đố, nhiều bài hát dân ca tỏ tình, hát chúc mừng trước mâm rượu (vươn là làu), hát loan đêm của những đôi trai gái (vươn chăng hằm), và hát tiễn đưa (vươn sroỏng vãn) ba hình thức hát dân ca này được cộng đồng người Giấy ai cũng yêu thích, nhất là lớp thanh niên trẻ.

Người Giấy đã đóng góp nhiều công sức, đổ mồ hôi và máu để bảo vệ quê hương, đấu tranh chống áp bức, bóc lột trước đây, ngày nay xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Từ khóa » Dân Tộc Giấy ở Hà Giang