Danh Sách Bài Bản Cải Lương Việt Nam

   
  • Trang chủ
    • Tài nguyên hiện có: 1922 tác phẩm | 321 Tác giả
  • Bản quyền
    • Thoả thuận chung
    • Bản quyền Tác phẩm
    • Thư ngỏ gừi Tác giả
  • Tiểu sử
    • Soạn giả sân khấu
    • Nghệ sĩ Sân khấu
  • Vọng cổ
    • Tân cổ giao duyên
    • Vọng cổ Thiếu nhi
    • Vọng cổ Phật giáo
    • Vọng cổ về Bác Hồ
    • Vọng cổ về Biển Đảo
    • Vọng cổ hài
  • Tài tử
    • Bài bản
    • Các điệu lý
  • Kịch bản
    • Cải lương
    • Tuồng cổ
    • Trích đoạn
    • Nhạc Hồ quảng
  • Sự kiện
    • Vọng cổ đồng quê
    • Thông tin & Sự kiện
    • Cuộc thi sáng tác
    • VCĐQ trên Báo Chí
    • Sách Vọng cổ
  • Tư liệu
  • Định danh
  • Thống kê
  • Tài khoản
    • Quản lý bài viết
    • Đăng bài viết
    • Đăng nhập
    • Đăng ký
    • Quên mật khẩu
Trang chủ > Events > Tư liệu sáng tác Danh sách bài bản cải lương Việt Nam Đăng lúc: Chủ nhật - 30/09/2018 11:29 - Người đăng bài viết: Vọng cổ Đồng Quê

DANH SÁCH CÁC BÀI BẢN CẢI LƯƠNG Danh sách theo thứ tự ABC 1 Ái Tử Kê 2 Ánh Nắng 3 Ánh Trăng 4 Bá Hoa 5 Bát Man Tấn Cống 6 Bắc Sơn Trà 7 Bài Tạ (Tọa Ngọc Lầu) 8 Bắn Nhạn 9 Bình Bán Chấn 10 Bình Bán Vắn 11 Bình Sa Lạc Nhạn 12 Cao Phi 13 Cao San 14 Chi Hoa Trường Hận 15 Chiêu Quân 16 Chinh Phụ Ly Tình (Chinh Phụ) 17 Chuồn chuồn 18 Cổ Bản 19 Cổ Bản Vắn 20 Dạ Cổ Hoài Lang 21 Dạ Khúc 22 Đăng Sơn Lãm Thủy (Xàng xàng liu) 23 Đường Thái Tôn 24 Dì Phạn 25 Đoản Khúc Lam Giang 26 Duyên Kỳ Ngộ 27 Giang Nam 28 Giang Nam Cửu Khúc 29 Giang Tô Điểu Ngữ 30 Hàn Giang 31 Hành Vân 32 Hoài Nam Khúc 33 Hoài Tình 34 Hướng Mã Hồi Thành 35 Khốc Hoàng Thiên 36 Khổng Minh tọa lầu 37 Khúc Ca Hoa Chúc 38 Kiều Nương 39 Kim Tiền Bản 40 Kim Tiền Huế 41 Lạc Âm Thiều 42 Lạc Xuân Hoa 43 Lệ Rơi Thấm Đá 44 Liên Hườn 45 Liêu Giang 46 Liễu Thuận Nương 47 Long Đăng 48 Long Hổ Hội 49 Long Hổ (nhạc cải lương) 50 Long Hổ (nhạc Huế) 51 Long Ngâm 52 Lộng Nguyệt 53 Lưu Thủy Đoản 54 Lưu Thủy Hành Vân (Hoài Cầu) 55 Lưu Thủy Trường 56 Lý Ba Tri 57 Lý Bông Dừa 58 Lý Bông Trang 59 Lý Cái Mơn 60 Lý Cây Bông 61 Lý Qua Cầu 62 Lý Chiều Chiều 63 Lý Chiều Chiều Huế 64 Lý Chim Quyên 65 Lý Chim Xanh 66 Lý Con Khỉ 67 Lý Con Sáo 68 Lý Con Sáo Gò Công 69 Lý Con Sáo Sang Sông (Lý Ở Ở) 70 Lý Đất Giồng (Lý Tình Tang) 71 Lý Đêm Trăng 72 Lý Đương Đệm 73 Lý Giao Duyên 74 Lý Lu Là 75 Lý Kéo Chài 76 Lý Mỹ Hưng 77 Lý Mỹ Trà 78 Lý Năm Căn 79 Lý Phước Châu 80 Lý Phước Kiến 81 Lý Qua Cầu 82 Lý Sâm Thương 83 Lý Son Sắc (Lý Tứ Đại) 84 Lý Trăng Soi 85 Lý Tòng Quân (Lý Mù Sương) 86 Lý Tương Phùng (Lý Tư Phùng) 87 Mạnh Lệ Quân 88 Mẫu Đơn 89 Mẫu Tầm Tử 90 Miên Hậu Hồi Cung 91 Minh Châu 92 Nam Ai 93 Nam Đảo (Đảo Ngũ Cung) 94 Nam Xuân 95 Nặng Tình Xưa 96 Ngươn Tiêu Hội Oán 97 Nguyên Tiêu 98 Nguyệt Bác Xuân Đài 99 Ngự Giá Đăng Lâu 100 Ngũ Điểm 101 Ngũ Điểm - Bài tạ 102 Ngựa Ô Bắc 103 Ngựa Ô Nam 104 Ngũ Đối Hạ (bài Hạ) 105 Ngũ Đối Thượng 106 Nhạn Về 107 Phẩm Tuyết 108 Phi Vân Điệp Khúc 109 Phong Ba Đình 110 Phong Nguyệt 111 Phú Lục 112 Phụng Cầu Hoàng (Phụng Cầu/Phụng Cầu Hoàng Duyên) 113 Phụng Hoàng Lai Nghi (Phụng Hoàng Tài Tử/Phụng Hoàng Cầu) 114 Phụng Hoàng Cải Lương (Phụng Hoàng 12 câu) 115 Phụng Nghi Đình 116 Quý Phi Túy Tửu 117 Song Cước 118 Song Phi Hồ Điệp 119 Sơn Đông Hướng Mã 120 Sương Chiều 121 Sương Chiều - Tú Anh 122 Tam Pháp Nhập Môn 123 Tân Xái Phỉ 124 Tấn Phong 125 Tẩu Mã 126 Tây Mai 127 Tây Thi 128 Thanh Dạ Đề Quyên 129 Thu Hồ 130 Thu Hồ Diệp Lạc 131 Thu Phong 132 Thủ Bình Bán 133 Thủ Phong Nguyệt 134 Tiểu Khúc 135 Tô Võ Mục Dương 136 Trạng Nguyên Hành Lộ 137 Trăng Thu Dạ Khúc 138 Trăng Thu lớp Vĩ 139 Trống Quân 140 Trung Thu 141 Trường Tương Tư 142 Tú Anh 143 Từ Bá Tướng (Đại Bá Đương) 144 Tử Qui Từ 145 Tứ Đại Oán 146 Tùng Lâm Dạ Lãm 147 Ú Liu Ú Xáng (Thiên Bất Túc) 148 Uyên Ương Hội Vũ 149 Vạn Giá 150 Văn Thiên Tường 151 Vạn Huê Trường Hận 152 Vọng Kim Lang 153 Võ Biền Xuất Đội 154 Võ Tắc Biệt 155 Võ Văn Hội Oán 156 Xuân Nữ 157 Xuân Phong 158 Xuân Tình 159 Xàng Xê lớp Hò 160 Xàng Xê lớp Xề 161 Xang Xừ Líu 162 Xế xảng 163 Sâm Thương CÁC BÀI BẢN TÀI TỬ CẢI LƯƠNG Nhạc truyền thống của ta nói chung và nhạc Tài tử Cải lương nói riêng được lãnh hội bằng trí nhớ và được truyền đạt, bảo tồn qua nhiều thế hệ bằng giọng người / trí nhớ mà không cần văn tự để ghi chép. Tuy vậy lúc đầu còn ít bài bản (vài chục bài) còn có thể nhớ, ngày nay đã hơn trăm bản không ai nhớ hết được, nếu không ghi chép lại thì dễ bị thất lạc, rất uổng. Hơn nữa ghi chép lại thì phổ biến dễ và mau hơn. Phần còn lại của bài này được chia thành 5 phần: A. Những Sưu Tầm Đầu Tiên B. Các Sưu Tập Sau Này C. Phân Loại Các Bài Bản D. Cách Dùng Các Bài Bản E. Liệt Kê Các Bài Bản Phần A điểm qua những tuyển tập đầu tiên về các bản đờn và lời hát của các điệu hát cải lương. Phần B nhắc đến các quyển sách “tương đối” cập nhựt hơn. Phần C phân loại các bài bản cải lương dựa theo các tài liệu cũ. Phần D điểm qua các bài bản thông dụng / thường hay dùng. Phần E liệt kê tất cả các bài bản được biết cho tới nay. A. Những Sưu Tầm Đầu Tiên Bộ sưu tập các bản đờn và lời ca cải lương được in / xuất bản xưa nhất có lẽ là ở khoảng cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ 20 (không kể các bộ sưu tập chép tay, không được biết tới). Ông Vương Hồng Sển, trong cuốn “Hồi Ký 50 Năm Mê Hát” của ông, do cơ sở Phạm Quang Khải xuất bản, 08.1968, cho biết ông còn giữ được các tài liệu sau: “Bản Đờn Tranh & Bài Ca”, 12.1909, do Phụng Hoàng San chủ bút, Đinh Thái Sơn (còn tên khác là Phát Toán) xuất bản lần thứ tư tại nhà in Libraire-Imprimeur, 55-57 rue d’Ormay, Saigon. Trong quyển này có các bản đờn của 11 điệu và lời của 24 bài hát: Lưu Thủy Trường (1), Phú Lục (1), Bình Bán Chấn (1), Xuân Tình (1), Bình Bán Vắn (1), Bát Man Tấn Cống (1), Tứ Đại (7), Phụng Hoàng (1), Nam Xuân (1), Nam Ai (2), Tứ Đại Cảnh (7). “Lục Tài Tử”, 12.06.1915, của Đặng Tiền Nhiều, do Đinh Thái Sơn xuất bản, nhà in Imprimerie de l’Union, Saigon. Đây là một tập bài ca, có 18 lời hát của các điệu: Tứ Đại (14), Phụng Hoàng (2), Nam Ai (1), Nam Xuân (1). “Thập Tài Tử”, 15.06.1915, của Đặng Đắc Lợi, Đinh Thái Sơn xuất bản kỳ nhứt, nhà in Imprimerie de l’Union, Saigon. Đây là một tập bài ca, có 19 lời hát của các điệu: Tứ Đại (16), Phụng Hoàng (1), Phú Lục (1), Lý 6 bài Bắc (6). “Tứ Tài Tử”, 16.06.1915, của Đặng Nhiều Hơn, do Đinh Thái Sơn xuất bản – nhà in Imprimerie de l’Union, Saigon. Đây là một tập bài ca, có 21 lời hát của các điệu: Tứ Đại (16), Nam Xuân (2), Lưu Thủy (2), Bình Bán Vắn (1). “Bát Tài Tử”, 29.08.1915, của Nguyễn Tùng Bá, do Đinh Thái Sơn xuất bản, nhà in Imprimerie de l’Union, Saigon. Đây là một tập bài ca với 21 lời hát của bài Tứ Đại. Với các cuốn “Lục Tài Tử”, “Thập Tài Tử” và “Tứ Tài Tử” ông Vương Hồng Sển nghi rằng tên họ tác giả trên bìa sách là không đúng sự thật và có khi bịa đặt (vì các tên hơi giống nhau và hơi kỳ quặc: Đặng Tiền Nhiều, Đặng Đắc Lợi, Đặng Nhiều Hơn ?!?), có thể chỉ là người sưu tầm / trích lục mà không đề tên thật. Để ý là “Bản Đờn Tranh & Bài Ca” xuất bản tháng 12 năm 1909 là tái bản / in lần thứ 4, vậy lần xuất bản đầu tiên cũng khoảng 1-2 năm trước đó: 1907-1908. B. Các Sưu Tập Sau Này Giới đàn ca tài tử trước đây thường nhắc tới hai cuốn: “Cầm Ca Tân Điệu”, của Lê Văn Tiến, xuất bản ở Sài Gòn, khoảng năm 1930. “Cổ Nhạc Tầm Nguyên”, do một số nghệ sĩ và nhạc sĩ sưu tầm, xuất bản ở Sài Gòn, không rõ năm nào. Hai cuốn này thì Chín Đờn Cò cũng chỉ nghe qua thôi chớ chưa biết / thấy hình dung ra sao (vì xưa quá). Còn nhiều quyển nữa của các nhạc sĩ Sáu Tửng, Năm Hưng, v.v… cũng xuất bản tại Sài Gòn. Bà con nào có các quyển nói trên xin vui lòng lên tiếng và chỉ bảo cho mọi người. Phần lớn đi học trực tiếp ở các thầy đờn / nghệ sĩ / nghệ nhân hoặc học qua bạn bè. Đờn / nghe riếc rồi thấm, rồi thuộc lòng không cần ghi chép. Chỉ có loại u mê như Chín Đờn Cò, học mười hiểu một, mới phải lui cui chép lại các bài bản rồi từ từ học. Gần đây có quyển “Tìm Hiểu Âm Nhạc Cải Lương” của Đắc Nhẫn, xuất bản ở Sài Gòn, năm 1987. Quyển này chủ yếu dựa vào “Cầm Ca Tân Điệu” của Lê Văn Tiến, có bổ sung thêm và xếp loại lại. Nhiều chi tiết trong bài viết này được trích từ quyển này. Nên nhắc qua là các bản đờn trong các sách nói trên có tính ước lệ / “lòng bản”, tức là chỉ chứa các âm chính, tiêu biểu cho điệu hát. Các bản đờn được ký âm bằng hệ thống ngũ âm cổ truyền (Hò – Xự – Xang – Xê – Cống – …). Bản đờn với cách ghi này thường có các chữ đờn tương đối rời rạc, chỉ dùng để hát / xướng âm và để lưu trử, bởi vì nếu đờn sao ghi vậy thì rất dài dòng, phức tạp. Mỗi người đờn mỗi khác, không ai giống ai. Ngay cả đối với cùng một người thì cũng có khi đờn lúc này, lúc khác, không cố định, chỉ có hát là tương đối giống nhau thôi. Với cách xướng âm có tính tượng trưng / ước lệ như vậy thì đờn từng chữ, đúng theo như bản ghi, thì khó mà nghe ra nhạc. Người đờn trên thực tế phải thêm / bớt các chữ đờn sao cho nghe được liền lạc, trôi chảy (nhưng không được vượt ra ngoài lòng bản). Đờn cải lương thường là để hòa với người hát, chỉ cần giữ đúng NHỊP và đúng những chữ đờn quan trọng (thường là ở cuối mỗi câu) để cho ra ĐIỆU, còn những chổ khác thì … tự do. Đờn làm sao mà hài hòa với lời hát là được. C. Phân Loại Các Bài Bản Tài tử cải Lương Theo các sách hướng dẫn đờn hát cải lương nói trên thì nhạc cổ và cải lương được phân thành mười mục: Nhứt Lý : các điệu Lý Nhì Ngâm : ngâm Kiều, ngâm thơ, ngâm sa mạc … Tam Nam : ba bài Nam lớn Tứ Oán : các bài Oán Ngũ Điểm : sáu bài Bắc lớn Lục Xuất : sáu bài ngắn Thất Chinh : bảy bài nhạc lớn lễ, cung đình Bát Ngự : tám bài Ngự Cửu Nhĩ : 2 bài do nhóm tài tử miền Đông biên soạn Thập Thủ : thập thủ liên hoàn, 10 bài ngắn Bài Vọng Cổ, hậu thân của bài Dạ Cổ Hoài Lang của ông Sáu Lầu ở Bạc Liêu sáng tác trong những năm 1920, không thấy trong bảng phân loại nói trên. Không biết là bởi vì bài Vọng Cổ quá đặc biệt để phân loại hay do sự phân loại này được làm trước khi bản Vọng Cổ được phổ biến rộng rãi. Cũng cần nên nhắc qua là trước khi bài Vọng Cổ chiếm được vị trí số một trong âm nhạc cải lương thì bài Hành Vân được dùng rất rộng rải trên sân khấu cải lương, như bài Vọng Cổ ngày nay vậy. Dưới đây mỗi mục sẽ được điểm qua sơ lược. 1. Nhứt Lý Các điệu Lý, xuất xứ từ dân ca, được cải lương hóa, thường dùng để hát đệm trong bài Vọng Cổ hoặc trong các tuồng cải lương. Những bài hay được dùng nhiều nhất là : Lý Con Sáo Lý Ngựa Ô (Nam và Bắc) Lý Thập Tình Lý Giao Duyên Lý Vọng Phu Lý Chiều Chiều Lý Cái Mơn Lý Huế Trong các điệu Lý, như Lý Ngựa Ô, có ngựa ô Nam và ngựa ô Bắc. Lý Con Sáo và Lý Thập Tình có hơi Xuân và hơi Ai. Đờn hơi Bắc và hơi Xuân thì vui, đờn hơi Nam và hơi Ai thì buồn. Các điệu Lý khác phần nhiều đờn hơi Nam. 2. Nhì Ngâm Gồm có ngâm thơ, ngâm sa mạc, ngâm Kiều , và nhiều điệu ngâm khác. Có người ngâm theo điệu Bắc, có người ngâm theo điệu Huế nhưng đa số ngâm theo điệu Sài Gòn (tùy theo sở trường và khả năng của mỗi người). 3. Tam Nam Gồm ba bài Nam: Nam Xuân : điệu nhạc thanh thản lâng lâng, sảng khoái, nghiêm trang, nhẹ nhàng, có người cho là “tiên phong đạo cốt”. Bài này được dùng để mở đầu các chương trình ca nhạc cải lương ở Sài Gòn. Nam Ai : buồn ảo não, não nùng, bi thảm. Bài này có 8 lớp, cấu trúc cũng như Nam Xuân (cũng nhắc đi nhắc lại nhiều lớp). Lớp 7 và 8 (hai lớp Mái) thường hay dung nhất. Nam Đảo (hay Đảo Ngũ Cung) : tôn nghiêm, hùng tráng, gay gắt. Hai câu cuối được chuyển sang hơi Hò Ba âm điệu buồn, để chấm dứt, gọi là “song cước”. Trong “Nghệ Thuật Sân Khấu Việt Nam” của ông Trần Văn Khải, nhà sách Khai Trí xuất bản năm 1970 tại Sài Gòn, có nhắc tới Nam Bình và Nam Chạy. Nam Bình: còn gọi là Trường Tương Tư (trong Bát Ngự). Nam Chạy: vừa ca vừa chạy, là hai lớp trống của Nam Ai, nhưng ca nhịp thúc để diễn tả lúc chạy giặc. 4. Tứ Oán Gồm các bài: Tứ Đại Oán : điệu nhạc thất vọng, bi thiết, oán hờn giống bài Văn Thiên Tường, nhưng hơi hướng có phần cổ và chơn chất hơn. Hai lớp Xang vắn thường hay được dùng. Văn Thiên Tường : trần thuật, thổ lộ tâm tình, buồn ảo não. Có nhiều mức độ, khi buồn vừa vừa thì dung lớp 1, khi buồn nhiều thì dùng lớp 2 (lớp Oán). Lớp Xế Xảng thật ngắn thường dùng để gối đầu vào Vọng Cổ. Bình Sa Lạc Nhạn : hơi ngang và dựng. Thanh Dạ Đề Quyên : cao hơn Bình Sa Lạc Nhạn. Phụng Hoàng : như Tứ Đại Oán, nhưng hơi dựng hơn. Giang Nam : trầm hơn Tứ Đại Oán, chậm rãi. Phụng Cầu : như Phụng Hoàng. Xuân Nữ: ngắn, có tính bi thiết, thường dùng trong cảnh bi ai, đau thưong đột xuất. Mỗi bài Oán có sắc thái riêng biệt, nhưng khác biệt rõ nhứt là giữa hai bài Tứ Đại Oán và Văn Thiên Tường. Các bài Oán khác đều có những nét giống với bài Tứ Đại Oán hoặc Văn Thiên Tường. Hai bài này là tiêu biểu cho loại Oán và được dùng nhiều trong cải lương. 5. Ngũ Điểm Gồm sáu bài Bắc lớn, các bài này có điệu vui, ngắn, gọn. Lưu Thủy Trường : điệu nhạc nhàn hạ, khoan thai, phù hợp với cảnh trí thanh nhàn, non xanh nước biếc, cỏ hoa chim chóc. Lưu Thủy Trường là do Lưu Thủy Đoản phát triển, kéo dài ra. Một câu của “đoản” bằng hai câu của “trường”. Bài này có 4 lớp, 32 câu (8, 6, 12, 6). Phú Lục : sôi nổi, rộn rả, khẩn trương, khác với bài Lưu Thủy Trường có tính thiên nhiên. Bài này có xuất xứ từ bài Phú Lục ở Huế. Khi mới vào Nam Bộ được cải lương hóa thành bài Phú Lục Vắn (17 câu, nhịp 1), sau phát triển thành bài Phúc Lục của nhạc tài tử (34 câu nhịp 4). Bài này rất nghiêm chỉnh cân đối, câu đối câu, nhịp đối nhịp, có 4 lớp (8, 8, 8, 10). Xuân Tình : vui tươi, lúc bình thường khi rộn rã, âm điệu vang, trong sáng, nồng nhiệt. Bình Bán Chấn: phát triển từ bài Bình Bán, đến Bình Bán Vắn, rồi đến bài Bình Bán Chấn (dài). Gốc là bài Bình Bán vui vẻ sảng khoái, nhưng khi phát triển thành Bình Bán Chấn thì trở thành đĩnh đạc, nghiêm trang. Bài này phức tạp, khúc mắc, ít được dùng trên sân khấu. Tây Thi : êm dịu, trong sáng, vui tươi, có tính tự sự, không gay gắt như Phú Lục. Bản này là bản dễ nhớ nhứt trong sáu bài Bắc. Bài này có 26 câu, 3 lớp (9, 13, 4). Cổ Bản : câu ngắn gọn, dồn dập, nhưng không nhấn mạnh như bài Phú Lục. 6. Lục Xuất Điệu nhạc các bài này vui, ngắn, gọn. Gồm sáu bài: Bình Bán Vắn Tây Thi Vắn Cổ Bản Vắn Xuân Phong Kim Tiền: được dùng như bài Mẫu Tầm Tử trong trường hợp đối đáp, cãi nhau. Long Hổ: thường đi cặp với bài Long Hổ Hội, có tiết tấu đối chọi. 7. Thất Chinh Gồm bảy bài: Xàng Xê : hùng tráng uy nghi nhưng dịu dàng, êm ái. Ngũ Đối Hạ: còn gọi tắt là bài Hạ, có tính uy nghi, nghiêm trang, man mác, thanh thản. Long Đăng: giống bài Hạ, nhưng tiết tấu khỏe, ít nghiêm trang. Long Ngâm: giống bài Hạ, ít thấy dùng trên sân khấu cải lương. Ngũ Đối Thượng: ba bài Ngũ Đối Thượng, Vạn Giá, Tiểu Khúc có nhiều âm hưởng nhạc lễ. Vạn Giá Tiểu Khúc Các bài này là bảy bài lớn dùng trong nhạc lễ, mỗi khi cúng lễ, cúng tế, tính chất nghiêm trang. Riêng bài Ngũ Đối Hạ sân khấu hát bội thường dùng, trên sân khấu cải lương thì bài Xàng Xê được dùng nhiều hơn. 8. Bát Ngự Gồm tám bài: Đường Thái Tôn: êm, vui, phấn khởi, đắc chí. Bát Man Tấn Cống: vui khỏe, để múa hát, chúc tụng. Duyên Kỳ Ngộ: dùng trong cảnh tái ngộ, thăm hỏi, vui tươi nhộn nhịp. Tiết tấu nhanh, rộn rã vui tươi. Kim Tiền Bản: tâm trạng giận dữ, mắng mỏ, hỏi tội, bày binh bố trận, điều binh khiển tướng. Ngự Giá Đăng Lâu: khệ nệ, rườm rà, đắc chí vui tươi, kể lể dài dòng. Ái Tử Kê: ngắn, giai điệu chững chạc, cân đối, trìu mến thương tiếc. Lời gốc của điệu này tả một bầy gà con bị chồn bắt. Chiêu Quân: quạnh quẽ cô đơn, trầm lặng nhưng rất ảo não. Bài này thường đi cặp với bài Ái Tử Kê. Trường Tương Tư: bài này nhẹ nhàng thư thái, thất vọng, nhớ nhung, ít thê lương hơn Nam Ai. Giới đờn hát tài tử thường đờn liên hoàn các bài Ái Tử Kê, qua Chiêu Quân, rồi đến Trường Tương Tư. 9. Cửu Nhĩ Gồm hai bài: Hội Nguyên Tiêu Bát Bản Chấn Hai bài này do nhóm tài tử miền Đông sáng tác, ít thấy dùng trên sân khấu cải lương. 10. Thập Thủ Thập Thủ Liên Hườn còn gọi là Liên Bộ Thập Chương từ Huế đưa vào Nam, được cải lương hóa. Các bài này có điệu nhạc vui, ngắn gọn. Gồm mười bản Tàu, đã được Việt Nam hóa từ lâu, thường được đờn liên hoàn với nhau. Phẩm Tuyết Nguyên Tiêu Hồ Quảng Liên Hoàn Bình Bản (Bình Nguyên) Tây Mai Kim Tiền Huế Xuân Phong Long Hổ Tẩu Mã Một điều nên nhắc qua là sự phân loại như trên (khoảng 60 bài được nhắc đến) là ở những năm 1950. Cho đến nay đã có hơn 100 bài được biết / thu thập (và còn nhiều bài sẽ được sáng chế thêm trong tương lai). Cách phân loại như vậy có phần hơi gò bó, còn bỏ sót nhiều bài bản. Có nhiều tài liệu sau này phân loại theo hơi Bắc / Nam / Oán hay cở nhỏ / trung bình / lớn. Ngoại trừ một số bản đặc trưng của mỗi loại, dễ dàng nhận ra, có không ít bài bản khó mà xác định được thuộc loại nào (chẳng hạn ranh giới giữa nhỏ – trung bình, trung bình – lớn đôi khi không rõ ràng, có nhiều bản pha lẫn các hơi …) D. Cách Dùng Các Bài Bản Tùy theo hoàn cảnh, tình huống, tâm trạng … mà các bài sau đây thường hay được dùng nhất trong các tuồng cải lương cũng như trong những lúc đàn ca tài tử: 1. Lúc vui rộn rã, ngắn, gọn, thường dùng các bản: Long Hổ Hội, Ngũ Điểm – Bài Tạ, Lưu Thủy Đoản, Bình Bán Vắn, Xang Xừ Líu, Khốc Hoàng Thiên, Khúc Ca Hoa Chúc, Ú Liu Ú Xáng, Lạc Âm Thiều, Mạnh Lệ Quân, Tam Pháp Nhập Môn, Liễu Thuận Nương, Duyên Kỳ Ngộ, Bắc Sơn Trà, Lý Ngựa Ô Bắc, Lý Phước Kiến, Xuân Phong, Long Hổ, Bình Bán. 2. Lúc vui lâng lâng, kể chuyện dài, thong thả nhàn hạ dạo cảnh ngắm hoa, thường dùng các bản : Lưu Thủy Trường, Nam Xuân, Xuân Tình. 3. Lúc buồn cách biệt thấm thía, não nùng bi thảm, thường dùng các bản : Văn Thiên Tường, Nam Ai, Trường Tương Tư, Xuân Nữ. 4. Lúc buồn man mác, kể lể tâm tình oán hận, bi hùng trước cảnh chia phôi, phút giây gặp gỡ, thường dung các bản : Lý Con Sáo, Chiêu Quân, Lý Ngựa Ô Nam, Lý Thập Tình, Lý Giao Duyên, Lý Vọng Phu, Nam Xuân, Tứ Đại Oán, Phụng Hoàng, Vọng Cổ, Xàng Xê. Các bản Nam Xuân, Vọng Cổ và Xàng Xê có thể dùng trong nhiều tình huống, tâm trạng : vui nhẹ nhàng, lâng lâng, hay buồn man mác đều dùng được Nam Xuân. Cảnh hội ngộ hay chia phôi; cảnh thống thiết hay bi hùng đều dùng được các bản Xàng Xê hay Vọng Cổ. 5. Lúc cãi vã, giận dữ, đối đáp, tranh biện có tính chất gay gắt, dứt khoát, trả treo, thường dùng các bản: Khổng Minh Tọa Lầu, Kim Tiền Bản, Đảo Ngũ Cung. 6. Lúc kể chuyện, thuật chuyện có tính cách hòa hoãn bình thường, các bản sau đây hay được dùng : Lưu Thủy Trường, Phú Lục, Xuân Tình, Bình Bán Chấn, Tây Thi, Bài Tạ. 7. Lúc kể chuyện, thuật chuyện có tính cách gấp rút, vội vàng, thường dùng các bản : Cổ Bản, Mẫu Tầm Tử, Kim Tiền Huế, Ú Liu Ú Xáng, v.v… Trên thực tế chỉ có một số bản được sử dụng rộng rãi mà thôi. Đa số những bài cải lương dùng trong những buổi đàn ca tài tử được trích từ các vở tuồng cải lương. Lý do là lời đặt riêng cho các điệu / bài bản không nhiều. Có thể nói là sau này không còn thấy lời mới nữa. Các soạn giả chỉ sáng tác lời cho bài vọng cổ (và các bài bản nhỏ, để hát xen kẽ với vọng cổ).

* Lưu ý: Bài viết này bảo vệ bản quyền trên Internet bởi: DMCA.com Protection Status Nguồn tin: cailuongvietnam.com

Những tin mới hơn

  • Làm thế nào để sáng tác bài vọng cổ hay? (03/01/2021)
  • Khái quát về nhịp trong Vọng cổ (03/01/2021)
  • Hướng dẫn hát 6 câu vọng cổ (phần 2/2) (03/01/2021)
  • Hướng dẫn hát 6 câu vọng cổ (phần 1/2) (21/06/2019)
  • Lược khảo hình thành bài bản đờn ca tài tử nam bộ (30/09/2018)
  • Các loại nhịp của bản Vọng cổ (30/09/2018)

Những tin cũ hơn

  • Lý thuyết căn bản và quy luật 6 câu vọng cổ (30/09/2018)
  • Bản ký âm 4 câu vọng cổ dây đào (30/09/2018)
  • Lý thuyết bộ môn cổ nhạc (30/09/2018)
  • Nguồn gốc cổ nhạc Việt Nam (30/09/2018)
  • Tìm hiểu vọng cổ căn bản (30/09/2018)
  • Tân cổ giao duyên: Ai là người khởi xướng? (30/09/2018)

Thống kê

  • Đang truy cập: 2,271
  • Khách viếng thăm: 1,952
  • Thành viên online: 2
  • Máy chủ tìm kiếm: 317
  • Hôm nay: 273
  • Tháng hiện tại: 2,524
  • Tổng lượt truy cập: 10,850,016
  • Kho tàng Vọng cổ |
  • Events |
  • Bản quyền |
  • Tư liệu sáng tác |
  • Hướng dẫn sử dụng |
  • Thỏa thuận dịch vụ |
  • Liên hệ
DMCA.com Protection Status

© Copyright Kho tàng Vọng cổ Việt Nam. All right reserved. Chủ quản: Ban Điều hành Kho tàng Vọng cổ Việt Nam Lưu ý: Các tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung tác phẩm của mình trên vongco.vn. Nội dung website này đã được đăng ký bản quyền nội dung số!

Đối tác:

Từ khóa » Ca Cổ Bản Vắn Nam Ai