Danh Sách Các Đền Thờ Chính Từ Và Vọng Từ Trong Tứ Phủ

Danh sách các Đền thờ chính từ và vọng từ trong Tứ Phủ được Đồ Thờ Cúng Tâm Linh sưu tầm chia sẻ tới bạn đọc để biết thêm về đền điện thờ tam tứ phủ.

Tam tòa thánh Mẫu

Đệ nhất Địa tiên thánh mẫu

Thánh giá đệ nhất Sòng sơn – thánh mẫu Địa tiên – Liễu Hạnh công chúa

Sắc phong

  • Hướng dẫn lập bàn thờ cho người mới dọn vào nhà mới
  • Bàn Thờ Ông Địa và Thần Tài: Nguồn Gốc và Cách Bài Trí
  • Các Ngày Lễ Lớn Trong Phật Giáo Việt Nam

Chế thắng hòa diệu đại vương – Khâm duy mã vàng bồ tát – tái cấp gia ban đệ nhất Quỳnh Hoa – đệ nhị Tiên nương – đệ tam Quảng hàn thượng đẳng tối linh thần – Mẫu nghi thiên hạ – Nam thiên bất tử.

Đệ nhất Địa tiên thánh mẫu

Trải qua ba lần giáng sinh và tu tiên hóa Phật bà thường xuyên anh linh hiển hóa khắp Bắc Trung Nam, Đồng Đăng, Tuần Quán Yên Bái, Nghệ An, Tây Hồ, Huế, Buôn Mê Thuột, Nga Sơn, Sòng Sơn, Phủ Dày …

Đền Chính của Mẫu đệ Nhất

Quần thể Phủ Giầy (phủ nấp, phủ vân cát, phủ bóng), Phủ Tây hồ, Sòng sơn, Đồi Ngang Phố Cát, Đền Rồng, Đền Nước.

Đệ nhị Thượng ngàn thánh mẫu

Thánh giá Đệ nhị thượng ngàn tiên chúa

Sắc phong

Đệ nhị thượng ngàn Na Bình công chúa – Lê Mại đại vương diệu tín thiền sư – Chế thắng hòa diệu đại vương thượng đẳng tối linh thần – Đệ tứ nhạc tiên Bạch Anh Quản Trưởng sơn lâm công chúa.

Đền thờ chính của Mẫu Đệ nhị

Đền Đá đen, đền thượng – trung – hạ Ba Vì, đền Ba Cây, đền Tam Đảo, đền Đông Cuông, đền Bắc Lệ và các đền trên thượng ngàn.

Đệ tam Thủy cung thánh mẫu

Thánh giá Đệ tam thủy cung công chúa

Sắc phong

Đệ tam thủy tinh công chúa – Khâm Mông Ngọc nữ Động Đình hồ – Đệ tam xích lân long nữ Động Đình hồ.

Mẫu Thoải được hiểu như là Nam hải quan âm – Thủy tạng bồ tát – Hàn sơn thánh mẫu thượng đẳng tối linh thần – Chế thằng hòa diệu đại vương.

Đền thờ chính của Mẫu đệ tam

Đền Bắc Ninh, đền Nước, đền Cờn, đền Kỳ Anh, đền Lý Nhân, đền Mẫu Thoải Gia Lâm, đền Lộ, đền Rầm, đền Sở, đền Cửa sông và các cửa sông cửa biển.

Ngũ vị tôn quan

Quan Lớn Đệ Nhất

Đệ Nhất Thượng Thiên Hoàng thái tử Vương Quan

Phong danh hiệu

Dân gian gọi là Đức Thánh Cả, là Tôn quan đệ nhất. Tước phong Đào tiên đệ nhất – Điều thất hoàng thái tử Vương Quan thượng đẳng tối linh thần. Danh hiệu vua phong Tham nghị triều chính Vương Quan.

Ngài trực tiếp hầu cận bên phải đền vua cha Bát Hải Động Đình (đền Đồng Bằng) thay quyền và đại diện cõi nhân gian, thừa hành Tam giới, tâu đối tội phúc nhân danh cõi thượng thiên (trên trời).

Quan Lớn Đệ Nhị

Sắc phong Nhạc thần đại vương – Đô đài giám sát – Đệ nhị thượng ngàn giám sát đại vương thượng đẳng tối linh thần. Đền Ngài phía tay trái đền Đồng Bằng và được thờ trấn ở Tây Bắc Lào Cai, Đông Bắc Lạng Sơn, phía Nam Phố Cát.

Quan Lớn Đệ Tam

Đệ Tam Thượng thiên hoàng thái tử vương quan

Sắc phong

Thủy tào điển sứ – Đệ tam thủy thần nhạc đại vương thượng đẳng tối linh thần.

Đền thờ Ngài được lập ở Lạng Sơn, Hưng Yên,Lảnh giang linh từ (Nam Hà) và các cửa sông. Đền Ngài còn ở Thái Bình đằng sau đền Đồng Bằng phía đường 10 đi Hải Phòng.

Quan lớn Đệ Tứ

Quan lớn Khâm Sai quyền cai tứ phủ

Sắc phong

Thiên Hựu đại vương thượng đẳng tối linh thần.

Đền thờ Ngài ở đền Mẫu Sinh và đền Thánh Hóa. Đền thờ Ngài còn ở sau đền Đồng Bằng phía đường 10 đi Hải Phòng.

Quan lớn Đệ Ngũ

Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Sắc phong

Đệ ngũ tôn quan thượng đẳng tối linh thần – Cao Lỗ đại vương – Đệ ngũ Tuần Tranh

Ngọc Hoàng ban cho Ngài thống lĩnh thiên địa binh, thay quyền tam tứ phủ đại diện cho con người (nhân vi chúa tể), thu chấp kim ngân tài mã, giải oan nghiệp sớ cho trần gian.

Đền Ngài được lập ở đền Kỳ cùng Lạng Sơn,Đền Ninh Giang Hải dương và các cửa sông vùng duyên hải.

Thập nhị tiên nương

Mười hai vị chầu bà cai quản khắp trên rừng dưới nước, khắp bốn phương tám hướng trên đất Việt Nam ta.

1. Chầu bà đệ nhất – Đệ nhất thượng thiên công chúa

Chầu bà đệ nhất được dân ta huyền hóa qua đời thứ nhất mẫu Liễu giáng ở Vị Nhuế, Nam Định.

Ngài là hiện thân của Thánh Mẫu đệ nhất, thuộc dòng đi tu, ít khi ngự đồng. Trang phục của Ngài là áo đỏ khăn hồng (khăn buồm). Ngài làm việc trong nội cung phủ Giầy.

Sắc phong Đệ nhất hoa nương công chúa làm việc thượng thiên – Đệ nhất thượng thiên công chúa.

Thập nhị Tiên nương

Mười hai vị chầu bà cai quản khắp trên rừng dưới nước, khắp bốn phương tám hướng trên đất Việt Nam ta.

2. Chầu bà đệ nhị

Chầu bà đệ nhị thượng ngàn công chúa theo dân gian tương truyền là con gái gia đình người Mán ở Đông Cuông, tên húy là Lê Thị Kiệm, vợ của ông Hà Văn Thiên, người Tày được triều đình giao cai quản vùng Đông Cuông.

Bà là hóa thân của Mẫu đệ nhị của chúa. Bà là hình mẫu của dân ta trên cõi thượng ngàn. Quyền của chầu bà là cai quản 36 động sơn trang đất được sắc phong là Đông Cuông, Tuần Quán, Bảo Lạc, Hà Giang, Tuyên Quang.

Chầu bà hạ sinh vào giờ dần ngày Mão tháng giêng năm Thân. Có tích nói ngày Mão tháng Mão năm Thân thuộc thời Lê là con vua Đế Thích thiên đình.

Ngày tiệc của Bà là ngày mão đầu tiên của năm.

3. Chầu bà đệ tam

Đệ tam thủy tinh công chúa là sự hiện hóa của Mẫu đệ tam.

Đền thờ chầu ở đền Rồng, đền Nước, đền Hàn Thanh Hóa, đền Mẫu Thoải Lạng Sơn và các cửa sông cửa bể.

4. Chầu bà đệ tứ

Đệ tứ tùy tòng công chúa theo tương truyền là bà Chiêu Dung công chúa, là tùy tướng của Hai Bà Trưng, một trong tám tướng hồng nương. Chầu mặc áo vàng chít khăn buồm, hiện có đền chầu ở phủ Giầy, đền Cây Thị Thanh Hóa, Đền Thượng Lào Cai, đền chầu đệ tứ Gia Lâm.

Chầu là tùy tòng hầu cận bên Mẫu tam tòa, làm việc nội cung quản lý sổ sách trần gian.

5. Chầu đệ ngũ suối Lân

Tương truyền Ngài là công chúa thời Lý, tu trên suối Lân (không biết trong hoàn cảnh nào). Chầu bà có công với dân với nước các đời Trần, Lê, Nguyễn qua đó đánh giặc Ngài hiển linh.

Chầu độ cho nhân dân và dân buôn bán khách lữ hành qua đường thiên lý đền thờ Chầu hiện nay ở cửa Rừng suối Lân Lạng sơn. Các triều đại gia phong anh hùng liệt nữ.

6. Chầu lục cung nương (Mế lục cung nương, lục cung đô thống)

Theo tương truyền Chầu là con gái tù trưởng người Nùng Hữu Lũng Lạng Sơn, mẹ là công chúa nhà Trần, hạ sinh vào thượng tuần tháng 9 ngày 10 năm Thân. Chầu là hiện thân của Mẫu Liễu Hạnh, con vua cha Ngọc Hoàng, làm rơi chén ngọc nên bị đầy xuống trần gian 15 năm.

Đền thờ Chầu ở Hữu Lũng(Đền 94) Lạng Sơn, Cây Xanh Tuyên Quang.

7. Chầu bảy Tân La

Theo tương truyền Chầu là tướng của Hai Bà Trưng hạ sinh ở Mỏ Bạch Thái Nguyên, khi thất thế Chầu hóa thân tại Tân La Hưng Yên.

Chầu anh linh giúp dân giúp nước, các đời truy tặng anh hùng liệt nữ. Đền thờ Chầu ở Tân La, Mỏ Bạch…

8. Chầu bát

Chầu tám thượng ngàn, Bát nàn đại tướng Đông Nhung quê ở vùng Phượng Lâu Bạch Hạc. Chầu dấy binh khởi nghĩa theo Hai Bà Trưng, sau khi thất thủ Chầu rút chạy từ Đồng Mỏ về Thái Bình ẩn náu trong chùa Tiên La. Khi giặc Hán phát hiện đã bao vây, Chầu quyết một lòng kiên trung mở đường máu tử tiết ở giữa sân chùa anh linh đã dậy tiếng đồn khắp bốn phương nức tiếng âu ca đá vàng ghi tạc sử xanh muôn đời, trải qua các triều đại sắc phong anh hùng liệt nữ. Chầu về đồng mặc áo vàng chít khăn củ ấu, ra tay dấu 8 ngón, lưng đeo kiếm cờ khai quang múa kiếm múa cờ.

Đền thờ Chầu ở Lạng Sơn (nơi Chầu đánh trận và để lại lá cờ thần), ở Tiên La Thái Bình (nơi Chầu ẩn náu và tiết khí hi sinh).

9. Chầu cửu

Chầu là hiện thân của Mẫu Liễu Hạnh qua các đời thi hiện cứu dân độ quốc bói linh chữa quyết hiển linh hiển ứng.

10. Chầu mười Đồng Mỏ

Mỏ ba công chúa là con gái tù trưởng ở đất Đồng Mỏ. Sinh thời Chầu giỏi võ và kiếm cung, khi vua Lê Thái Tổ hiệu triệu toàn dân đánh giặc, Ngài đã chiêu binh ra sức giúp triều đình. Sau khi giặc tan triều đình phong công. Chầu giúp dân lập ấp tế trợ cứu bần. Đến mùa thu Chầu mãn hạn về tiên. Triều đình phong tặng anh hùng liệt nữ, tiếng Chầu anh linh biến hiện khắp Bắc Trung Nam xa gần nô nức trảy hội Mỏ ba. Chầu được Ngọc Hoàng sắc phong Khâm sai bốn phủ – một trong những vị Chầu tối linh được nhân dân và con nhang đệ tử phụng sự loan giá.

Chầu về ngự áo vàng khăn chữ nhân, ra tay dấu 10 ngón, lưng đeo kiếm cờ múa kiếm múa cờ ngự đồng loan giá phán chỉ thông truyền chứng lễ hoa quả lương thực.

Đền thờ Chầu ở Chi Lăng Đồng Mỏ.

11. Chầu bé Bắc Lệ

Chầu bé Bắc Lệ công chúa là con gái người Nùng ở Hữu Lũng Lạng Sơn, bị giặc cưỡng bức đã hòa mình xuống sông Bắc Lệ. Chầu anh linh giúp dân giúp nước độ người viễn sứ tha hương, lúc lại hiện hóa ra người bán hàng, chữa bệnh.

Ngài là hiện thân của Mẫu đệ nhị thượng ngàn.

Đền thờ Chầu tại Đền Công Đồng Bắc lệ .

12. Chầu bà bản đền

Bản Đền công chúa tức thủ điện công chúa là hiện thân của các vị thánh Mẫu tùy vào bản đền đó và địa phương mà Ngài thị hiện, vì vậy Chầu về đồng các màu sắc, thường người hầu Chầu thủ đền vào đầu năm thì mặc áo hồng khăn hồng, cuối năm thì mặc áo xanh khăn xanh.

Hiện nay người ta không hầu và cũng không biết đến giá Chầu nữa nhưng văn Chầu thủ đền và một số nơi vẫn được lưu giá và hầu Ngài.

Thập vị Ông Hoàng

Thập vị hoàng tử đều được quy về làm con vua cha Bát Hải Động Đình, đều hầu vua cha ở đền Đồng Bằng

1. Thánh ông Hoàng Cả

Tên húy Ngài là Đoàn Thượng …

Sắc phong tước hiệu Đông hải Đại vương.

Đền thờ ở Lý Nhân, Nam Hà nhưng đã bị phá, nay được thờ phối hương với đền thờ bà Vũ Nương và ở đền Trung suối Mỡ (Bắc Giang)

2. Thánh ông Hoàng Đôi

Tên húy Ngài là Nguyễn Hoàng Triệu.

Sắc phong tước hiệu Thượng Đẳng thần.

Đền thờ Ngài ở Thanh Hóa (đền ông Hoàng Triệu), ở Hà Nội (đền Hoàng ở Chèm).

3. Thánh ông Hoàng Bơ

Tên húy của Ngài là Tống Khắc Bính, là thái tử con vua Nam Tống

Sắc phong tước hiệu Thượng Đẳng Thần.

Đền thờ Ngài ở Thanh Hóa gần đền cô Tám. Đền thờ chính của Ngài là ở trên núi nhìn ra biển ở cửa Cờn, ngày nay người ta chuyển thành thờ ông Hoàng Chín,Đền Hưng long và đang được hưng công tại Thái Bình.

Ngài hầu Mẫu ở đền Cờn, mẫu Hàn Sơn Thanh Hóa, làm việc thoải cung, là 1 trong 4 vị Khâm sai thay quyền vua Mẫu bốn phủ đi bắt lính nhận đồng. Ngài ngự áo xanh theo sắc phong bốn phủ, chít khăn mỏ rìu, mặc áo trấn thủ, đi ghệt tay ghệt chân, thắt đai vàng thành hoa trước ngực, múa hèo. Sau khi làm lễ khai quang, Ngài đi hèo ngự tọa, hiến tửu, nghe thơ, ban phát lộc tài.

Đầu năm tháng Giêng, người ta hầu Ngài ngự áo đỏ khăn đỏ chứ không như bây giờ, mặc áo trắng. Có người lý luận rằng áo Ngài thì Ngài mặc nhưng trong tâm linh Việt Nam cho màu trằng là màu buồn nên đầu xuân kiêng mặc áo trắng.Như vậy mới là hóa thân bất tử giữa trần và âm. Đó là phong cách chứ không phải là sự đơn thuần.

Ngài hạ sinh vào thời Nam Bắc Tống phân tranh. Sau khi nhà Nam Tống bị nhà Bắc Tống đánh bại, Ngài dong thuyền ra biển Đông và thác hóa. Thân y trôi vào cửa Cờn được ông Hoàng Chin lúc bấy giờ đang tu ở đó vớt lên chôn cất. Sau này Ngài phù Lý, Trần anh kinh hiển hách được nhân dân gọi là ông Hoàng Bơ Thoải.

Đền thờ Ngài hiện nay đã bị những kẻ vô học chuyển thành đền ông Hoàng Chín. Ngưỡng mong những nhà nghiên cứu cũng như những người có chức có quyền và chức đồng đạo sớm trả lại đền thờ của Ngài theo đúng nghĩa

4. Thánh ông Hoàng Tư

Tên húy của Ngài là Nguyễn Hữu Cầu.

Sắc phong tước hiệu Thượng Đẳng Thần, Thủy Cung hoàng tử.

Đền thờ Ngài ở Đồ Sơn. Nhân dân thường gọi là miếu Thủy thần.

5. Thánh ông Hoàng Năm

Tên húy là Hoàng Công Chất.

Sắc phong tước hiệu Thượng Đẳng Thần.

Đền thờ Ngài ở Điện Biên

6. Thánh ông Hoàng Sáu

Tên húy Ngài là: ??????

Sắc phong tước hiệu Thượng Đẳng Thần.

Đền thờ Ngài ở Phố Lu

7. Thánh ông Hoàng Bảy

Tên húy Ngài là Nguyễn Hoàng Bảy.

Sắc phong tước hiệu Thượng Đẳng Thần.

Đền thờ Ngài ở Bảo Hà, Lào Cai.

Ngài hẫu Mẫu Đông Cuông, làm việc Khâm sai bắt lính nhận đồng. Ngài ngự áo màu thắm, chít khăn mỏ rìu, đi mạng, mặc áo trấn thủ, đi ghệt tay ghệt chân, múa hèo đi “sang hồ”. Ngài ngự đồng làm việc quan sau đó ngự tọa phán truyền, ban lộc phát tài. Tất cả ai hầu đồng đều phải hầu Ngài. Ngài là 1 trong tứ vị Khâm sai.

Ngài hạ sinh vào thời vua Lê chúa Trịnh quyền, thuộc dòng chúa Nguyễn, là em của ông Hoàng Triệu (tức ông Hoàng đôi). Ngài được triều đình phái lên vùng Văn Bàn, Lào Cai chống giặc biên giới, giáo hóa dân chúng. Sau khi tử trận thân Ngài trôi về Bảo Hà, được nhân dân vớt lên mai táng và lập đền thờ. Ngài anh linh hiện ứng, hộ quốc an dân. 17/7 là ngày tiệc Ngài.

8. Thánh ông Hoàng Tám

Tên húy Ngài là Nùng Chí Cao

Sắc phong tước hiệu Thượng Đẳng Đại Vương.

Đền thờ Ngài ở Cao Bằng (đền Kỳ Sầm).

9. Thánh ông Hoàng Chín

Tên húy Ngài là ?????

Sắc phong tước hiệu Thượng Đẳng Thần.

Đền thờ Ngài ở phía đảo ngoài biển Cờn.

Hiện nay người ta lập đền ông Chín trước mặt đền Thái tử (ông Hoàng Bơ) là sai. Sự nhầm lẫn này là thể hiện sự thiếu hiểu biết. Một số người ngự đồng Ngài, đeo kính di ba toong không khác gì ông thày bói, thật là lố bịch và bất kính. Thánh ông sinh từ thời Lý chưa có kính và ba toong. Ngài ngự đồng uống nước trà nhưng không hút thuốc.

10. Thánh ông Hoàng Mười

Tên húy Ngài là Nguyễn Xí.

Thập nhị tiên cô

1. Cô Đệ nhất, cô cả thượng thiên, cô cả Vân Đình

2. Cô Đôi thượng ngàn.Sơn Tinh Công Chúa

Cô Đôi là hình bóng của Chúa thượng hiện về để cứu giúp trần gian chữa bệnh. Cô được thờ phối hương ở đền Đông Cuông và đền Đồng Đăng. Cô là 1 trong tứ phủ Thánh Cô thay quyền vua Mẫu chấm lính nhận đồng.

3. Cô Bơ thoải, cô Bơ thác Hàn, cô Bơ Bông

Cô là công chúa con vua thuộc dòng họ Lê đất Thanh Hóa. Cô ba sinh trong thời Lê Mạc, giúp nhà Lê chống nhà Mạc. Khi nhà Mạc chiếm thành, thái tử nhà Lê chạy về Thanh Hóa, cô làm lái thuyền chở thái tử sang sông. Thái tử thấy nhan săc cô đẹp nên sinh lòng vẩn đục. Khi ra giữa dòng, cô nhảy xuống sông tự vẫn.

Cô anh linh lững lẫy, Mẫu phong Cô là Quỳnh Hoa công chúa đứng hầu và là 1 trong tứ vị Thánh Cô chấm lính nhận đồng.

4. Cô Tư Tây Hồ

Cô theo tương truyền là quân của Hai Bà Trưng, là hình bóng của mẫu Liễu Hạnh, làm việc nội chính hầu hạ Mẫu trong cung điện. Cô ít ngự đồng, khi ngự đồng mặc áo vàng khăn vàng, làm lễ khai quang rồi xe giá.

5. Cô Năm Đồng Tiền, cô Năm Sơn trang, cô Năm suối Lân

Cô Năm Đồng Tiền ngự ở Đồng Tiền, Tuyên Quang. Cô là quân của Hai Bà Trưng anh linh hiển hóa thao hầu Mẫu Tuyên.

Cô còn ngự ở đền Suối Lân hầu Chầu Năm Suối Lân

6. Cô Sáu Sơn trang

Cô hầu Mẫu Thượng Ngàn, hầu Mẫu Lục cung, Chầu Lục cung nương. Đền thờ Cô ở Chầu Lục Hữu Lũng (Lạng Sơn) và các vùng tràng châu như vùng Thanh Hóa.

7. Cô Bảy Tân La, cô Bảy Mỏ Bạch, cô Bảy Kim Giao

Tiên cô là võ sĩ theo hầu Chầu Bảy, người Mọi, đất Thái Nguyên, khi thất trận về Tân La thủ tiết cùng Chầu Bà.

8. Cô Tám đồi chè

Cô Tám hầu Mẫu Thượng và Mẫu Thoải, là tướng sĩ của Hai Bà Trưng. Đền thờ cô ở Hàn Sơn Thanh Hóa. khai quang, múa mồi và ban phát tài lộc.

9. Cô Chín Cửu Tỉnh, cô Chín Sòng Sơn, cô Chín Âm Dương, cô Chín Thượng thiên, cô Chín Thượng ngàn, cô chín Giếng

Tất cả là một Cô, anh linh lừng lẫy, được sắc phong la giáng là Quế Hoa công chúa thay quyền vua Mẫu chúa Chầu dưới cõi trần gian. Tiên cô là hiện thân của Mẫu Sòng Sơn. Cô còn là hình dáng của bà nẫu cháo khao quân sĩ vua Quang Trung trên đường ra Bắc. Tiên cô anh linh lừng lẫy khắp nơi vùng Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Thời Nguyễn cho phá miếu thờ Cô sau đó Minh Mệnh phải sắc phong, phục dựng tôn nhang đền thờ cô ở Sòng Sơn và tại đô thành Huế, Điện Hòn Chén.

Cô ngự đồng khăn hồng áo hồng, múa quạt, múa khăn, dệt gấm, thêu hoa, làm thuốc chữa bệnh. Tiên cô là 1 trong tứ vị Thánh Cô chấm lính nhận đồng. Thế gian cho cô hay hành bệnh phàn vía, tức là bệnh đau đầu và điên rồ.

10. Cô Mười Mỏ Ba

Cô vốn là dòng người Nùng theo hầu Chầu Mười.

11. Cô Bé Bắc Lệ, cô Bé Suối Ngang, cô Bé Na Sầm

Tiên cô là người Nùng, quê nhà ở Suối Ngang, hầu Chầu Bé Bắc Lệ. Cô ngự đồng mặc áo xanh lam, khăn hoa, đội nón, khăn vành dây, tết tóc, thắt đai hoa giọt ngắn giọt dài đằng sau đằng trước. Tiên cô múa mồi, đi chợ, ban tài phát lộc. Tiên cô là 1 trong tứ vị chấm lính nhận đồng

12. Cô Bé bản đền

Bản đền công chúa là tiên Cô ở tại bản đền đó.

Tứ Phủ Thánh Cô

1, Cô Đệ Nhất Thượng Thiên

Cô Nhất Thượng Thiên. Cô cũng vốn là con Vua Cha dưới Thủy Tề dưới Thoải Cung, được phong là Thiên Cung Công Chúa trên Thiên Đình. Có người nói rằng cô cũng với Cô Chín hầu cận bên cạnh Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên (tức Mẫu Liễu Hạnh) lại có nơi quan niệm cô là Tiên Cô kề cận, tay biên tay chép kề bên Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên (tuy nhiên do có quan niệm là Mẫu Đệ Nhất cũng chính là chầu cho nên hai ý kiến này hầu như là thống nhất với nhau).

Cô giá ngự trong cung tòa, cận bên Mẫu cho nên khi đến các đền phủ người ta thường có lời tấu để cô kêu thay lạy đỡ trước cửa Vua Mẫu Đình Thần Tứ Phủ. Khi thanh nhàn cô cưỡi gió cưỡi mây rong chơi khắp chốn, từ Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Nghệ An, Thanh Hóa cho đến tận Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Định…

Cô là tiên cô thần thông lục trí, cô chấm đồng người nết na thảo hiền rồi đem về tiến Mẫu trong Đền Sòng Sơn. Cô Nhất khá ít khi ngự đồng, chỉ những người sát căn cô mới hay hầu cô hoặc trong các dịp khai đàn mở phủ Cô Nhất về chứng đồng tân lính mới. Khi ngự về Cô Nhất mặc áo màu đỏ (áo gấm hoặc áo lụa thêu phượng), đầu đội khăn đóng (khăn vành dây), thắt khăn và vỉ lét đỏ. Cô làm lễ khai cuông rồi múa quạt. Cô Nhất thường được thờ vào ban Tứ Phủ Thánh Cô ở trong các bản đền. Cũng có một số người nói rằng có đền cô là Đền Cô Nhất ở trong đất Nghệ An giáp Thanh Hóa với món đặc sản bánh ngào.

2, Cô Đôi Thượng Ngàn

Cô vốn là con Vua Đế Thích trên Thiên Cung, được phong là Sơn Tinh Công Chúa, ra vào hầu cận bơ tòa Vua Mẫu trong điện ngọc, nơi tiên cảnh. Sau cô giáng sinh xuống đất Ninh Bình làm con gái nhà một chúa đất ở chốn sơn lâm, khi hạ sinh, Cô Đôi rất xinh đẹp: da trắng, tóc xanh mượt mà, mặt tròn, lưng ong thon thả. Sau này cô quyết chí đi theo hầu Đức Diệu Tín Thuyền Sư Lê Mại Đại Vương (chính là Mẫu Thượng Ngàn, Bà Chúa Sơn Trang) học đạo phép để giúp dân. Rồi khi về thiên, cô được theo hầu cận ngay bên cạnh Mẫu Thượng Ngàn Đông Cuông Tuần Quán được Mẫu Bà truyền cho vạn phép, giao cho cô dạy người rừng biết thống nhất về ngôn ngữ (nên có khi còn gọi là Cô Đôi Đông Cuông), cũng có người cho rằng cô về theo hầu cận Chầu Đệ Nhị.

Lúc thanh nhàn cô về ngự cảnh sơn lâm núi rừng ở đất Ninh Bình quê nhà, trong ba gian đền mát, cô cùng các bạn tiên nàng ca hát vui thú tháng ngày trên sườn dốc Bò, có khi cô biến hiện ra người thiếu nữ xinh đẹp, luận đàm văn thơ cùng các bậc danh sĩ, tương truyền cô cũng rất giỏi văn thơ, làm biết bao kẻ phải mến phục. Cô Đôi cũng là tiên cô cai quản kho lộc Sơn Lâm Sơn Trang, người trần gian ai nhất tâm thì thường được Cô Đôi ban thưởng, nhược bằng có nợ mà không mau trả lễ cô lại bắt đền nặng hơn.

Cô Đôi Thượng rất hay ngự về đồng, vì danh tiếng cô lừng lẫy ai ai cũng biết đến, đệ tử cô đông vô số và cô cũng hay bắt đồng. Trong đại lễ khai đàn mở phủ người ta thường dâng lễ vàng cây lên 5 tiên cô là Cô Đôi, Cô Bơ, Cô Sáu, Cô Chín và Cô Bé, trong đó Cô Đôi thường là giá cô ngự về đầu tiên (mở khăn cho hàng cô) để chứng lễ. Khi cô về ngự thường mặc áo lá xanh hoặc quầy đen và áo xanh (ngắn đến hông), trên đầu có dùng khăn (khăn von hoặc khăn vấn) kết thành hình đóa hoa, cũng có một số nơi dâng cô áo xanh, đội khăn đóng (khăn vành dây) và thắt lét xanh, hai bên có cài hai đóa hoa.

Cô về đồng thường khai cuông rồi múa mồi, múa tay tiên hái tài hái lộc cho đồng tử. Vì Cô Đôi Thượng hầu cận bên Mẫu Đông Cuông nên đền cô cũng được lập gần Đền Đông Cuông, trong đền thờ Cô Đôi và Cô Bé Đông Cuông, cách đền chính khoảng 500m, trước cửa đền có giếng nước quanh năm trong mát. Nhưng chính đền của cô lại là Đền Cô Đôi Thượng Ngàn tại xã Nho Quan, Ninh Bình (qua rừng quốc gia Cúc Phương) thuộc làng Bồng Lai . Khi cô ngự đồng văn thường hát .

3. Cô Ba Thoải Cung

Cô vốn là con Thủy Tề ở dưới Thoải Cung, được phong là Thoải Cung Công Chúa, giá ngự vào ra trong Cung Quảng Hàn. Có người còn nói rằng, Cô Bơ là con gái vua Long Vương rất xinh đẹp nết na nên được Đức Vương Mẫu (có người cho rằng đó là Mẫu Cửu Trùng Thiên) cho theo hầu cận, chầu chực trong cung cấm. Sau này Cô Bơ Thoải giáng sinh vào thời Lê Trung Hưng, tương truyền sự tích như sau: Đức Thái Bà nằm mộng thấy có người con gái xinh đẹp, dáng ngọc thướt tha, tóc mượt mắt sáng, má hồng, môi đỏ, cổ cao ba ngấn, mặc áo trắng đến trước sập nằm dâng lên người một viên minh châu rồi nói rằng mình vốn là Thủy Cung Tiên Nữ, nay vâng lệnh cao minh lên phàm trần đầu thai vào nhà đó, sau này để giúp vua giúp nước, thì Thái Bà thụ thai.

Truyền thuyết cô Bơ

Đến ngày 2/8 thì bỗng trên trời mây xanh uốn lượn, nơi Thủy Cung nhã nhạc vang lên, đúng lúc đó, Thái Bà hạ sinh ra được một người con gái, xem ra thì nhan sắc mười phần đúng như trước kia đã thấy chiêm bao. Thấy sự lạ kì vậy nên bà chắc hẳn con mình là bậc thần nữ giáng hạ, sau này sẽ ra tay phù đời nên hết lòng nuôi nấng dạy dỗ bảo ban. Cô lớn lên trở thành người thiếu nữ xinh đẹp, tưởng như ví với các bậc tài nữ từ ngàn xưa, lại giỏi văn thơ đàn hát. Đến khi cô vừa độ trăng tròn thì cũng là lúc nước nhà phải chịu ách đô hộ của giặc Minh, cô cùng thân mẫu lánh vào phía sâu vùng Hà Trung Thanh Hóa, nơi ngã ba bến Đò Lèn, Phong Mục. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, cô đã có công giúp vua Lê trong những năm đầu kháng chiến (và có nơi còn nói rằng cô cũng hiển ứng giúp nhà Lê trong công cuộc “Phù Lê Dẹp Mạc” sau này).

Trong dân gian vẫn còn lưu truyền lại câu chuyện sau: Vào những năm đầu khởi nghĩa, quân ta (ý nói nghĩa quân do vua Lê Lợi chỉ huy) vẫn còn yếu về lực lượng, thường xuyên bị địch truy đuổi, một lần Lê Lợi (có sách nói là Lê Lai) bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp Cô Bơ đang tỉa ngô liền xin cô giúp đỡ, cô bảo người lấy quần áo nông dân mặc vào, còn áo bào thì đem vùi xuống dưới ruộng ngô rồi cũng cô xuống ruộng giả như đang tỉa ngô. Vừa lúc đó thì quân giặc kéo đến, chúng hỏi cô có thấy ai chạy qua đo không thì cô bảo rằng chỉ có cô và anh trai (do Lê Lợi đóng giả) đang tỉa ngô, thấy vậy quân giặc bỏ đi. Lê Lợi rất biết ơn cô, hẹn ngày sau đại thắng khải hoàn sẽ rước cô về Triều Đình phong công và phong cô làm phi tử.

Sau đó cô cũng không quản gian nguy, bí mật chèo thuyền trên ngã ba sông, chở quân sĩ qua sông, có khi là chở cả quân nhu quân lương. Có thể nói trong kháng chiến chống Minh thì công lao của cô là không nhỏ. Đến ngày khúc hát khải hoàn cất lên thì vua Lê mới nhớ đến người thiếu nữ năm xưa ở đất Hà Trung, liền sai quân đến đón, nhưng đến nơi thì cô đã thác tự bao giờ, còn nghe các bô lão kể lại là ngày qua ngày cô đã một lòng đợi chờ, không chịu kết duyên cùng ai, cho đến khi thác hóa vẫn một lòng kiên trinh.

Người ta cho rằng, Cô Bơ được lệnh Vua Cha giáng trần để giúp vua, đến chí kì mãn hạn thì có xe loan lên đón rước cô về Thủy Cung. Sau đó cô hiển linh giúp dân chúng ở vùng ngã ba sông, độ cho thuyền bè qua lại được thuận buồm xuôi gió vậy nên cô còn có danh hiệu là Cô Bơ Bông (do tích cô giáng ở ngã ba sông) hay Cô Bơ Thác Hàn (theo tên gọi ở nơi quê nhà). Ai hữu sự đến kêu van cửa cô đều được như ý nên danh tiếng cô vang lừng khắp nơi nơi Cô Bơ luôn giá ngự về đồng, già trẻ, từ đồng tân đến đồng cựu, hầu như ai cũng hầu về Cô Bơ Bông. Khi cô giáng vào ai, dù già hay trẻ thì sắc mặt đều trở nên hồng hào tươi tốt, đẹp đẽ lạ thường.

Khi cô ngự đồng, cô thường mặc áo trắng, đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) có thắt lét trắng (có khi dùng thắt dải lưng hồng) rồi cô cầm đôi mái chèo, bẻ lái dạo chơi khắp nơi. Lúc chèo thuyền có khi có còn khoác thêm chiếc áo choàng trắng, trên khăn có cài ba nén hương, bên hông có dắt tiền đò, rồi khi chèo thuyền xong, cô lại cầm dải lụa để đi đo gió đo nước đo mây. Lúc cô an tọa người ta thường xin cô thuốc để trị bệnh, vậy nên Cô Bơ ngự về thường hay làm phép “thần phù” để ban thuốc chữa bệnh.

Đền cô Bơ ở đâu?

Theo quan niệm nguyên xưa Cô Bơ Bông hầu cận Mẫu Thoải, lại theo sự tích nơi quê nhà cô là ở đất Hà Trung, Thanh Hóa, ngã ba Bông bến đò Lèn nên đền cô được lập ở đó, gần đền Mẫu Thác Hàn (chính là Mẫu Thoải), gọi tên là Đền Cô Bơ Bông thuộc xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, trước đây đường đi vào rất khó khăn, nhưng hiện giờ đã được tu sửa nên giao thông đã dễ dàng hơn

Đền cô Bơ là nơi thắng cảnh “trên bến dưới thuyền”, nơi giao của Ngũ huyện kê: “Một tiếng gà gáy năm huyện đều nghe” cũng với danh tiếng anh linh của tiên cô nên khách thập phương đến chiêm bái, cầu xin nhân duyên, khoa cử, làm ăn rất đông đúc. Thuyền bè dưới bến sông qua lại đều phải đốt vàng mã kêu cô, rồi những người đến kêu cầu đều dâng cô nón trắng hài cườm, võng lụa thuyền rồng

4. Cô Tư Ỷ La, Cô Tư Địa Phủ

Cô Tư Ỷ La cũng vốn là con vua Đế Thích chính cung. Theo lệnh vua cha, cô theo hầu Mẫu Thượng Ngàn tại đất Tuyên Quang. Về sau, nơi Mẫu giá ngự đó, người ta lập đền Mẫu Ỷ La nên cô cũng được gọi là Cô Tư Ỷ La. Tương truyền rằng, Mẫu bà rất yêu quý, thường cho Cô Tư kề cận bên mình. Vậy nên đúng như các tư liệu ghi lại thì chính xác là Cô Tư hầu cận Mẫu Thượng Ngàn chứ không phải cô hầu cận Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai như chúng ta vẫn thường nghĩ.

Ngoài ra Cô Tư còn có một danh hiệu khác là Cô Tư Tứ Tổng Tây Hồ. Qua ước đoán, có thể suy ra rằng danh hiệu này là do Cô Tư đã từng giáng hiện tại đất Tây Hồ, Hà Nội rong chơi, và điển hình nhất là hiện nay vẫn có ban thờ Cô Tư tại đình Tứ Liên; một ngôi đình cổ nằm ở gần Phủ Tây Hồ, Hà Nội.

Trong hàng Tứ Phủ Tiên Cô, Cô Tư Ỷ La thường hiếm khi thấy ngự về đồng nên nếu nói về y phục cũng như cung cách khi hầu giá Cô Tư hiện giờ là rất khó. Tuy nhiên theo phỏng đoán của người viết thì có thể khi hầu giá Cô Tư Ỷ La thường mặc xiêm áo màu vàng nhạt, cô có thể khai cuông và múa mồi hầu Mẫu (đây chỉ là ý kiến cá nhân đưa ra để mọi người tham khảo). Hiện nay Cô Tư vẫn được coi là thờ chính cung hầu Mẫu Thượng Ngàn trong đền Mẫu Ỷ La thuộc thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Ngoài ra, như đã nói ở trên, Cô Tư còn được thờ vọng trong Đình Tứ Liên ( xưa gọi là Đình làng Ngoại Châu), phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội. Khi các thanh đồng hầu tráng mạn đến giá Cô Tư,

5. Cô Năm Suối Lân

Cô Năm Suối Lân vốn là tiên nữ trên trời, theo lệnh cô giáng trần là người thiếu nữ dân tộc Nùng ở xứ Lạng. Có tích lại kể rằng Cô Năm là người thị nữ thân cận bên Chầu Năm Suối Lân ( lúc sinh thời khi chầu còn là công chúa) nên cô cũng được tôn hiệu là Cô Năm Suối Lân hay Cô Năm Sông Hoá. Sau này được sắc phong hiển thánh, Cô Năm vẫn được coi là tiên cô kề cận bên cửa Chầu Năm, cô được coi là tiên cô trông giữ bản đền Suối Lân. Ngoài ra cô còn được coi là vị thánh trấn tại cửa rừng Suối Lân (cung rừng này một cửa vào là cửa Suối Lân do Cô Năm Suối Lân trấn giữ, cửa ra là cửa Thất Khê do Cô Bé Đèo Kẻng trấn giữ), vậy nên, ai đi chiêm bái trên đất Lạng đều phải qua bái yết cửa Chầu Năm và Cô Năm Suối Lân.

Dòng Suối Lân do Cô Năm cai quản bốn mùa trong xanh, nước thông về sông Hoá, tương truyền rằng đây là dòng suối thiêng của cô, nước suối xanh mát bốn mùa không bao giờ cạn, nếu ai có bệnh tật đến xin nước suối cửa cô, uống vào sẽ thuyên giảm, nhược bằng, người nào không biết mà xuống suối tắm hay rửa chân tay, làm ô uế dòng suối của cô sẽ bị cô hành cho sốt nóng mê sảng. Phép anh linh của Cô Năm Suối Lân còn được biết qua việc nếu có kẻ nào báng nhạo cô sẽ “xát lá han” làm cho kẻ đó luôn ngứa ngáy không yên, rồi cô cho đi lạc đường rừng.

Trong hàng thánh cô, thường thấy Cô Năm Suối Lân ít khi ngự đồng hơn Cô Sáu Lục Cung, thường chỉ người nào có sát căn quả về cửa Cô Năm hoặc khi về đền Suối Lân thì có thấy thỉnh bóng Cô Năm ngự đồng. Khi hầu về giá Cô Năm Suối Lân, thường người ta mặc xiêm y như màu áo của Chầu Năm (nhưng là áo ngắn vạt), đó có thể là màu xanh thiên thanh hoặc xanh lá cây, cô chít khăn củ ấu, bên mình có túi vóc, dao quai. Ngự đồng cô khai cuông rồi múa mồi. Hiện nay Cô Năm Suối Lân được phụng thờ là thánh cô trấn giữ cửa Suối Lân Sông Hoá, cung thờ cô được đặt cạnh ngay đền chính của cửa Chầu Năm Suối Lân (huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn).

6. Cô Sáu Lục Cung, Cô Sáu Sơn Trang

Cô cũng vốn là thánh cô nguyên tích là người Nùng ở đất Hữu Lũng, Lạng Sơn. Có thuyết thì nói rằng Cô Sáu là tiên cô kề cận bên cửa Chúa Thượng Ngàn ở đất Trang Châu (chưa xác định rõ), còn lại đa phần đều thống nhất rằng Cô Sáu là người kề cận Chầu Lục Cung Nương nên cô mới được gọi là Cô Sáu Lục Cung hay còn có danh khác là Cô Sáu Sơn Trang. Khi nhân dân lập đền thờ phụng Chầu Bà, vẫn thỉnh Cô Sáu là cô trấn bản đền Lục Cung.

Ngoài ra, theo một số tích cũ kể lại, Cô Sáu Lục Cung sinh thời là người con gái xinh đẹp nết na, lại có tài chữa bệnh, cô thường đi khắp rừng sâu núi thẳm để hái thuốc cứu người vậy nên khi hiển thánh, Cô Sáu vẫn thường được muôn dân tôn là tiên cô có tài chữa bệnh cứu người, dân chúng khắp nơi về cửa cô để xin thuốc tiên trị bệnh. Cô Sáu Sơn Trang cũng nổi tiếng đành hanh trên đời, nghiêm khắc trừng trị kẻ nào nhạo báng cửa cô.

Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Sáu Lục Cung rất hay về ngự đồng. Các thanh đồng đạo quan thường thỉnh bóng Cô Sáu Sơn Trang ngự đồng không chỉ có khi về đền Lục Cung, về đất Lạng Sơn mà cả khi khai đàn mở phủ hay trong cả những dịp hầu vui, đón tiệc tiên thánh. Cô Sáu ngự đồng thường mặc áo lam hoặc áo tím chàm (ngắn vạt rộng tay). Cô ngự đồng khai cuông rồi múa mồi như các tiên cô trên Thượng Ngàn khác. Hiện nay Cô Sáu Lục Cung chính là thánh cô trấn giữ bản đền Lục Cung Chín Tư, cung thờ cô được xây ngay cạnh chính cung đền Chầu Lục Cung Nương (Chín Tư, Hữu Lũng, Lạng Sơn).

7. Cô Bảy Tân La, Cô Bảy Kim Giao, Cô Bảy Mỏ Bạch

Cô Bảy Kim Giao. Cô vốn cũng là một tiên cô người dân tộc Mọi ở đấy Kim Giao, Mỏ Bạch, Thái Nguyên. Theo một số tích nói rằng cô cũng là người kề cận bên Chầu Bảy nên cũng được gọi là Cô Bảy Kim Giao hay còn có hiệu khác là Cô Bảy Tân La ( khi cô được theo hầu cận Chầu Bảy tại đền Tân La). Tương truyền rằng cô cũng là vị thánh cô có công giúp người dân Mọi biết trồng trọt chăn nuôi rồi cô cũng có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc.

Vậy theo một số tài liệu thì chính xác Cô Bảy là Cô Bảy Kim Giao hay Cô Bảy Tân La (theo hầu Chầu Bảy Kim Giao) chứ không phải là Cô Bảy Tân An (theo hầu Ông Bảy Bảo Hà ) như một số người vẫn nói. Còn có sự tích nói rằng, đêm đêm cô thường hội họp cùng các bạn tiên nàng, mắc võng đào giữa hai cây kim giao rồi cùng đàn hát.

Trong hội đồng Thánh Cô, Cô Bảy Kim Giao là một trong số các cô ít khi ngự đồng nếu không nói là hầu như không thấy. Vậy nên nếu để nói đến y phục và cung cách hầu giá Cô Bảy là rất khó, theo phỏng đoán của người viết thì có thể giá Cô Bảy Kim Giao mặc áo tím hoặc chàm xanh, cô ngự đồng khai cuông rồi múa mồi. Hiện nay, Cô Bảy vẫn được thờ làm cô bản đền tại chính cung Đền Kim Giao (Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái Nguyên) và còn cả tại đền Tân La ( Dốc Lã, Bảo Khê, Hưng Yên). Khi hầu tráng mạn đến giá Cô Bảy Kim Giao

8, Cô Tám Đồi Chè

Đã bổ sung ở trên

9. Cô Chín Sòng Sơn, Cô Chín Thượng Ngàn

Cô Chín Sòng Sơn :Còn gọi là cô Chín Giếng , một tiên cô tài phép , theo hầu Mẫu Sòng , lại có tài xem bói,1000 quẻ cô bói ra thì ko sai một quẻ nào,Cô có phép thần thông quảng đại , ai mà phạm tội cô về tâu với Thiên Đình cho thu giam hồn phách , rồi cô hành cho dở điên dở dại , sau Vua truyền dân lập đền cô ở xứ Thanh , ngay trước đền là chín chiếc giếng tự nhiên do cô cai quản .

Cô Chín Sòng Sơn :Còn gọi là cô Chín Giếng , một tiên cô tài phép , theo hầu Mẫu Sòng , lại có tài xem bói,1000 quẻ cô bói ra thì ko sai một quẻ nào,Cô có phép thần thông quảng đại , ai mà phạm tội cô về tâu với Thiên Đình cho thu giam hồn phách , rồi cô hành cho dở điên dở dại , sau Vua truyền dân lập đền cô ở xứ Thanh , ngay trước đền là chín chiếc giếng tự nhiên do cô cai quản .

Còn có truyền thuyết về cô : Cô là Tiên Nữ hầu Mẫu trong đền Sòng , quản cai chín giếng , cô dạo chơi bốn phương khắp ngả trời Nam , sau về đến đất Thanh Hóa cảnh lạ vô biên , cô hài lòng liền hội họp thần nữ năm ba bạn cát , lấy gỗ cây sung làm nhà ,còn cây si thì cô mắc võng , nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ là Đền Cô Chín ở Thanh Hóa , cách đền Sòng Sơn khoảng 1km.Khi ngự đồng cô mặc áo hồng phơn phớt màu đào phai, có khi cô máu quạt tiến Mẫu, múa cờ tiến Vua , cũng có khi cô thêu hoa dệt lụa , rồi lại múa cánh tiên .Ai cầu đảo cô đều sắm sửa lễ vật : Nón đỏ hài hoa vòng hồng để dâng cô đều được cô chứng minh .Ở một số địa phương đều thờ cô và tôn với các danh khác như Cô Chín Rồng , Cô Chín Suối nhưng chính đều là Cô Chín Sòng được thờ phụng

10. Cô Mười Mỏ Ba

Cô theo hầu Chầu Mười Mỏ Ba , giúp vua đánh giặc Ngô ,khi ngự về cô mặc áo vàng cầm cung kiếm cưỡi trên mình ngựa theo chầu bà xông pha trận mạc , sau này cô cũng được thờ tại đền Chầu Mười

11. Cô Bé Thượng Ngàn

là Tiên Cô mà tên gọi thường được đặt theo tên các địa danh, các đền thờ

Các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa Sơn Trang, hầu Mẫu Thượng Ngàn, có rất nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn nhỏ.

Các cô về mặc quần áo thổ cẩm, chân quấn xà cạp, đeo kiềng bạc, tay cầm ô, vai đeo gùi. Các cô bé gồm:

a,Cô Bé Thượng Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn)

b,Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng)

c,Cô Bé Đèo Kẻng (Thất Khê)

d,Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái)

e,Cô Bé Tân An (Lào Cai)

Từ rất xa xưa, bên bờ sông Hồng tại thôn Tân An 2 thuộc xã Tân An, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, đã có một ngôi Đền gọi là Đền Cô Tân An (còn gọi là Đền Cô Bé Thượng Ngàn), là nơi thờ tự một nữ chúa có tên húy là Hoàng Bà Xa, tương truyền đã cùng cha là đức quan ngài Hoàng Bảy, có công chinh phạt giặc ác, giữ yên bờ cõi, được cư dân vùng Bảo Hà và Khau Ban (địa danh Văn Bàn cổ xưa) suy tôn là vị Thánh Mẫu. Đối diện bên kia sông là đền Bảo Hà (huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai)- thờ Đức quan ngài Hoàng Bảy.

f,Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang)

g,Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang)

h,Cô Bé Minh Lương (Tuyên Quang)

Truyền thuyết kể rằng, vào thời nhà Trần (thế kỷ XV), ở tổng Minh Lương, thuộc xã Lang Quán ngày nay có hai vợ chồng, ông chồng là người Dao, bà vợ là người Mường tuổi đã cao mà chưa có con. Ngày ngày ông bà ra ngòi Lịch xúc tôm tép sống lần hồi. Một hôm, ông ở nhà, bà đi xúc tép như mọi ngày, nhưng xúc mãi không được con gì mà chỉ được hai quả trứng lạ. Bực mình, bà xuống hạ nguồn rồi lên tận thượng nguồn ngòi Lịch xúc vẫn chỉ được hai quả trứng ấy. Bà đành mang về thả vào chum nước dưới cầu thang. Ít lâu sau, bà mang thai và sinh ra một cô bé bụ bẫm, đặt tên là Minh Lương. Cùng lúc đó, hai quả trứng thả trong chum nước dưới cầu thang nở ra hai con rắn. Hai con rắn và cô bé Minh Lương cùng lớn lên, quấn quýt làm bạn với nhau.

Một buổi chiều, ông bà đi làm về và nhìn thấy hai con rắn quấn chết cô bé. Sẵn con dao rựa đeo bên người, ông tức giận rút dao vừa chém, vừa nói “Mày hại tao à”. Hai con rắn sợ quá chạy trốn, nhưng một con chậm hơn đã bị chém đứt đuôi. Ông đuổi hai con rắn và nói: “Cụt đi hang Mang, Khoang đi hang Đồng”.

Ông bà xót thương cô bé, không nỡ chôn, nên đặt cô nằm ở trên sàn. Đến sáng đã thấy mối đùn lên đắp mộ cho cô bé. Dân làng thấy vậy đều cho là cô đã linh hoá nên lập miếu thờ. Thời kỳ giặc Cờ đen, cô bé Minh Lương đã hiển linh giúp quan quân triều đình thoát khỏi rừng rậm, sau đó dũng mãnh dẹp sạch giặc Cờ đen. Sau đó Cô còn hiển linh bốc thuốc, giúp dân chữa bệnh thoát cơn hiểm nghèo.

i,Cô Bé Thác Bờ (Hòa Bình)

j,Cô Bé Sóc (Miền Nam) Còn gọi là Cô Bé Đen, mặc khăn áo đen và hồng. Về đồng múa mồi, dùng nhang chữa bệnh. Cô đánh phấn màu đen, phấn đỏ cô để ban khen cho thanh đông cô. Hay về đồng tại Miền Nam.

k, Cô Bé Mỏ Than (Tuyên Quang)

Truyện chuyền miệng kể rằng : thần Kim Quy thấy mỏ quý của vua cha mẫu mẹ tại đền Mỏ Than. Đã rủ cá Kình ở biển Đông về cùng nhau mang hết mỏ quý ra vùng Nam Hải khi đất ở đây chỉ còn là giữa núi và biển, cá Kình đứng gác bên ngoài, thần Kim Quy xuống hang và khi lên tới gần miệng hang thì ông Cóc (ở gần miếu Sơn Thần) đã nghiến răng báo lên thiên đình cho Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngọc Hoàng củ cô Mười xuống. Cô bé cưỡi trên lưng hai con rồng bay xuống thấy khoảng trời u ám có khí lạnh bay lên. Cô nhảy vội xuống với hai vết chân chẹn lên thần Kim Quy, vết chân phải trượt gót mờ, bàn chân trái đè oằn cổ rùa. Bắt rùa hoá đá (Bách gia trăm họ gọi là quy trị bản đền) thần Kim Quy hoá đá thì cà Kình ở biển Đông cũng hoá đá. (Tất cả các cảnh quan của đền quay về nơi phật ngự phương tây riêng có cá Kình quay về phía Đông Bắc).

Nhờ Cô Bé Mỏ mà bách gia trăm họ vẫn còn “mỏ tụ đồng” xưa. Đến Pháp tìm ra mỏ than hay còn gọi là vàng đen của đất nước. Hiện nay còn nuôi dưỡng mỏ kim cương non. Cho nên ở chính nơi đây còn tồn tại truyền thuyết Cô Bé Mỏ Than (hay Cô Bé Mỏ Cây Xanh). Cô bắt ông Ba Mươi phủ phục bên mình, cô xin vua cha mẫu mẹ cho cây xanh bao bọc lấy mỏ và bốn mùa toả bóng mát cho cô hoàn thành việc cha việc mẹ.

Ngoài ra cô còn chữa bệnh cho bách gia trăm họ. Nhất là những người dở dại dở điên. Những lúc thư nhàn cô gọi đàn chim ngũ sắc về vây quanh ca hát, lúc đi lúc về cổ thường mang sắc thái màu vàng với âm thanh của tiếng chim vàng anh báo biến, báo hiện. Khi cô đi xa cô thường để lại đôi dải thắt lưng màu đen ở lại (đôi long xà có mào) để giữ đền giữ phủ. Người ta truyền rằng ai nhìn thấy ông rắn có mào là người đó được lên danh lên giá. Nhưng người đó phải là người thực tâm không có tâm tà. Xưa những người đàn bà bụng mang dạ chửa phải đi vòng qua cửa cô cách nữa dặm. bất kể ai qua nơi cô ngự đều phải bỏ nón mũ xin cô thực tâm cô phù hộ. Tà tâm cô cho náo loạn gia trung.

……………………………………..

12. Cô Bé Thoải Cung

Cô ngự ở dưới tòa Thoải Cung, Cô rất xinh đẹp, tài giỏi, có thể hô mưa gọi gió…

Chia sẻ Twitter Facebook LinkedIn Pin It

Từ khóa » đền Thờ Chầu Lục ở Hà Nội