Đạo đời Viên Dung ở Vua Phật Trần Nhân Tông Một Thành Công đặc ...

PGS.TS. Hoàng Thị Thơ

Viện Triết học, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam

ThS. Hoàng Văn Hùng

Trường Đảng Quảng Ninh

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã trở thành giá trị Phật giáo đặc trưng của Đại Việt với Trần Nhân Tông – đại diện tiêu biểu có vai trò kép (vua-Phật đồng thời lãnh đạo triều Trần và sáng lập, lãnh đạo Thiền phái của Đại Việt). Đó còn là sự tích hợp thành công quyền lực chính trị – quyền lực tâm linh, không chỉ là đại diện quyền uy trong giới qúy‎ tộc triều đình (Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ…) và đại diện tinh hoa trí tuệ Đại Việt (Pháp Loa, Huyền Quang….) không chỉ về Phật pháp mà còn là người truyền bá niềm tin trong toàn dân, tạo nên sức mạnh lớn lao và giá trị nhân văn thấm đẫm của người Việt trong công cuộc giữ nước và phát triển đất nước thời Trần hào hùng, mà sử sách còn lưu mãi.

Sự kết hợp các phương diện đã đạt tới viên dung ở Trần Nhân Tông!

Đó là sự kết hợp tư cách kép Vua – Phật, kết hợp linh hoạt và sáng tạo quyền lực chính trị (vương quyền) với quyền lực tâm linh (thần quyền), và chúng thể hiện trong thực tế thành các giá trị tổng hòa Đạo – Đời, hay nói cách khác là kết hợp sáng tạo giải thoát ngay trong đời thường… đưa Phật giáo trở thành gần gũi với triều đình và gần gũi với đời sống xã hội.

– Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông – hoàn thiện tư cách kép Vua – Phật, vừa là đại diện Hoàng tộc đồng thời là đại diện cao nhất của Phật giáo Trúc Lâm (tức Phật giáo Đại Việt).

Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm (1258-1308) – con trưởng của Thánh Tông Trần Hoảng. Khi sinh ra ông được mô tả như: “… có được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử, vai bên tả có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn…”[3].

Trong lịch sử Việt Nam, Trần Nhân Tông không chỉ là một vị vua anh minh, mà còn là một lãnh tụ Phật giáo, một Phật học gia bản lĩnh của trí tuệ Việt Nam, để lại một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng nước nhà, đó là sáng lập và phát triển thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Lịch sử Phật giáo Việt Nam còn ghi rõ, sau mười bốn năm trị vì, ngài nhường ngôi cho thái tử và lui làm Thái Thượng Hoàng và lên Yên tử tu trì theo dòng thiền Yên Tử. Ngay thời gian làm vua, Trần Nhân Tông đã chú ý nghiên cứu Phật học và thiền học, tư tưởng của ông thể hiện được chỗ tinh yếu nhất của Thiền Phật giáo.

Trần Nhân Tông lên Yên Tử tu hành (1299), khai sáng Thiền phái Trúc Lâm và để lại cho hậu thế tấm gương vua – phật, hết lòng vì nước vì dân, một bậc chân tu với những triết lý vừa huyền diệu vừa gần gũi với đời [4]. Trần Nhân Tông là một điển hình độc đáo trong lịch sử Đại Việt cũng như lịch sử Phật giáo Việt Nam. Trần Nhân Tông khi đang ở ngôi vị cao nhất, đã quyết từ bỏ ngai vàng cao sang để dấn thân xuất gia lên núi Yên Tử, vì lí tưởng xây dựng một Phật giáo Việt Nam với tư cách là tôn giáo dân tộc, làm nền tảng cho nền văn hóa Đại Việt lúc đó. Song trước nạn ngoại xâm cấp bách, nhà vua lại tạm gác kế hoạch lớn về tâm linh dân tộc, để trở về trực tiếp cầm quân xuất trận, lãnh đạo thành công hai cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông. Sau khi hoàn thành sự nghiệp bảo vệ “sơn hà vạn cổ điện kim âu” một cách vẻ vang, Trần Nhân Tông trao lại ngai vàng cho Thái tử Trần Anh Tông, lên núi tiếp tục xây dựng dòng thiền Trúc Lâm của Đại Việt. Trần Nhân Tông đã phát huy vai trò kép (vua – Phật) trên nhiều phương diện, thể hiện sống động tinh thần nhập thế của Phật giáo Trúc Lâm:

Ông không chỉ là vị quân vương mà còn là nhà lãnh đạo Phật giáo; không chỉ là nhà văn hóa mà còn là thiền sư lỗi lạc; không chỉ là nhà chính trị nhìn xa trông rộng mà còn là nhà quân sự có tài; không chỉ là nhà ngoại giao, mà còn là nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ …[5]

Trần Nhân Tông để lại nhiều sáng tác đóng góp cho văn học Trung đại Việt Nam nói chung, văn học Phật giáo Thiền tông nói riêng như: Đại Hương Hải Ấn thi tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mị Ngữ và bộ Trung Hưng Thực Lục do các văn thần được lệnh biên soạn và một tác phẩm sưu tập thơ Trần Nhân Tông thi tập, nhưng đến nay mất mát nhiều, chỉ còn ba mươi mốt bài thơ, hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán. Ngoài ra, trong Thiền Tông Bản Hạnh còn lưu được hai bài văn Nôm biền ngẫu, ghi tên Trần Nhân Tông là tác giả. Trên phương diện văn hóa và văn học, vua Trần Nhân Tông được tôn vinh là “nhà văn hoá, nhà thơ xuất sắc ở thế kỷ XIII”[6].

Với tư cách Thiền sư đắc pháp, ngộ đạo, Trần Nhân Tông với Pháp danh  Điều Ngự Giác Hoàng đã truyền đạo, giảng giải kinh sách Phật cho chúng đệ tử, họ không chỉ là các qu‎‎ý tộc quan lại trong triều Trần, mà còn “đi khắp mọi nẻo thôn quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ và thực hành giáo lý Thập thiện”[7] cho chúng bình dân. Triết lý nhân sinh Phật giáo được Thiền sư Điều Ngự diễn giải trên cơ sở thuyết Duyên khởi, Vô thường, Vô ngã thể hiện qua các mối quan hệ tương đối, tạm thời của các cặp “hữu – vô”, “thiện – ác”, “thân – tâm”, “sinh – tử”… nhằm vượt bỏ bản ngã để đạt tới giác ngộ “nghiệp lặng”, “an nhàn thể tính”, “tự tại thân tâm”… Đặc biệt là Trần Nhân Tông đã xây dựng thành công phương châm nhập thế chủ đạo lành mạnh hóa Phật giáo Đại Việt, đó là không trốn chạy mà coi trọng cuộc sống thực tại trên cơ sở cảnh tỉnh lối sống tu hành cực đoan, cố chấp. Trần Nhân Tông nhấn mạnh quan niệm tiến bộ của Phật giáo Đại Việt “Phật giáo là cuộc sống, không có sự cách li, phân biệt, bởi vì Phật giáo là gì nếu không phải đó là một quá trình đi tìm chân l‎ý. Mà chân lý thì không nằm trong Phật giáo, mà chính ngay giữa lòng cuộc sống”[8].

Đặc biệt Sơ Tổ Điều ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông luôn thể hiện sáng rõ vai trò kép của một vị vua anh minh, đồng thời là một triết gia, một thiền sư lỗi lạc với nhãn quan chính trị và nhân sinh sâu rộng, có ảnh hưởng lớn lao không chỉ đến cả Phật giáo Việt Nam, cả triều đình, mà tới toàn xã hội đương thời. Quan điểm, thái độ và đặc biệt là tầm nhìn chiến lược phát triển Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử theo hướng một tôn giáo dân tộc độc lập, nhập thế tích cực của Điều ngự Giác Hoàng đã thực sự làm nên nét đặc sắc cho Triết lý nhân sinh của Thiền Trúc Lâm Đại Việt thời Trần.

– Trần Nhân Tông tiếp tục xác định hệ tư tưởng độc lập của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử với tư cách Phật giáo của Đại Việt

Triết lý Phật tại tâm

“Tâm” là phạm trù cơ bản có thể hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, “Tâm” là ý thức, sự hiểu biết, ý chí, tình cảm; “Tâm” còn là biểu hiện của những tư tưởng, xúc cảm, cảm giác, tư duy, tinh thần, tâm linh, linh hồn, tâm trạng… là tất cả những gì mà có thể suy tư lĩnh hội; theo Kinh Bát Nhã thì cả ý thức và vô thức hay hạ thức, tiềm thức, hiện thức và thượng thức… đều thuộc về “tâm”; “Tâm” là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan và chi phối các hoạt động của con người.  Theo nghĩa của Phật giáo, “Tâm” là bản thể, là tâm thể, là chân tâm… luôn thanh tịnh, không vọng động, không thay đổi theo ngoại vật. Mục tiêu đắc đạo, theo nhà Phật là phải đạt được cái chân “Tâm”.

Bởi vì, thuyết Duyên khởi khẳng định hết thảy mọi thứ đều do tâm vọng loạn mà ra: “Tâm” sinh thì vật sinh, “Tâm” diệt thì vật diệt. “Tâm” làm chủ, vật chuyển theo “Tâm”, nếu “Tâm” thanh tịnh, không vọng động thì sẽ không có vật. Trong kinh Luận của Phật giáo Đại  thừa có câu nổi tiếng: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” (ba cõi dục giới, sắc giới, và vô sắc giới là do tâm, vạn pháp hữu hình, vô hình, tâm pháp, sắc pháp đều do thức tạo ra). Khi Phật giáo Đại  thừa vào Việt Nam thì chữ “Tâm” được người Việt hiểu với nghĩa gần gũi với đạo đức, gắn nhiều hơn với giáo lý  từ bi, hướng thiện, đạo đức của nhà Phật.

 Đối với Thiền Trúc Lâm Yên Tử, quan điểm “Phật tại tâm” đã khẳng định dấu mốc độc đáo của giá trị tư tưởng – triết học Phật giáo, tạo nên gương mặt Phật giáo nước nhà đương thời, đồng thời cũng không thể tách rời ý nghĩa lịch sử của nó trong hai giai đoạn cực thịnh và nặng duyên nợ này của dân tộc[9].

Kế thừa và phát triển Phật giáo nói chung và từ ba dòng thiền Phật giáo (Vinitaruci, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường), Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử phát triển và hoàn thiện triết lý Phật tại tâm. Đây là quan niệm rốt ráo, căn bản nhất của thiền học Trần Nhân Tông “Chỉn Bụt là lòng” (Phật chính là tâm)[10]. Phật trong quan niệm của thiền tông là cái chân như, là bản thể, là Tính Không phổ quát vượt lên trên mọi sự biến hóa vô thường của thế giới sự vật hiện tượng.

Thiền Trúc Lâm Yên Tử quan niệm đồng nhất Phật với bản thể và với tâm, mà Tâm ở đây chính là Tâm không khi ở trạng thái đắc đạo đạt tới cảnh giới Niết bàn. Thiền học của Trần Nhân Tông cho rằng, khi người tu hành đã giải trừ được mọi niệm, thì tâm sẽ bình lặng và vững chãi. Do vậy, khi còn vô minh, chưa giác ngộ giáo lý  Phật thì còn bị lục căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý) làm nảy sinh lục tặc (thanh, sắc, hương, vị, xúc, pháp) làm cho tâm động khiến cho tham, sân, si nổi lên, vì thế mà tạo ra nghiệp quả, mà phải trôi lăn trong khổ nghiệp: “Thực hay: hễ xá vô tâm, tự nhiên hợp đạo. Đình tam nghiệp mới sáng thâm tâm, đạt một lòng thời thông tổ giáo”[11].

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tích cực bản địa hóa các thuật ngữ Thiền học  và Phật học uyên thâm thành các thuật ngữ gần gũi của người Việt Nam “Phật tính” được giải thích thành “Phật tại tâm” với nghĩa Phật ở ngay trong lòng mỗi người, ai cũng có Phật tính, chỉ cần tu luyện giác ngộ được chân lý Phật giáo là trở thành Phật, không phải đi tìm ở đâu xa. Khái niệm “Phật tính” như vậy đã đạt tới mức trừu tượng hóa cao độ, nhưng Phật không còn là một vị Phật cụ thể có nhân cách, có tính lịch sử nữa mà là hiện thân của trạng thái giải thoát khỏi mọi ràng buộc với thế giới giả tượng về mặt ý niệm, về mặt tâm thức. Quan niệm này đã đặt cơ sở cho định hướng tu tập, định hướng giải thoát của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đương thời.

Từ nội dung “Phật tại tâm” của Thiền Trúc Lâm đã được nhân rộng thành niềm tin chung của cả dân tộc, ăn sâu vào tâm tưởng của người dân Đại Việt, việc tu tâm tĩnh dưỡng đã trở thành việc tự giác của mỗi người. Từ đó có thể thấy Phật giáo thời Trần là nhu cầu tinh thần không thể thiếu của người Việt đương thời. Đó là sợi chỉ đỏ kết nối toàn dân đoàn kết, cùng tập trung trí lực và của cải cũng như sức người trong các cuộc đấu tranh chống quân Nguyên – Mông thắng lợi và xây dựng đất nước Đại Việt vững mạnh.

Triết lý nhập thế

Khái niệm “nhập thế” (engaging into life) của Phật giáo thời Trần là một trong những đặc trưng nổi bật của Thiền tông Việt Nam. Nhập thế của Phật giáo là sự tham gia ngày càng chủ động, tích cực của tôn giáo vào cuộc sống ngoài tôn giáo, như chính trị, quân sự và kinh tế, cũng như nhiều phương diện của đời sống[12]. Nói cách khác, “Tinh thần của Thiền học Trúc Lâm là thiền học dân tộc, nghĩa là một mặt không ngừng phát triển tận cùng khả năng giác ngộ giải thoát để vươn lên đỉnh cao của con người: giác ngộ giải thoát hoàn toàn; mặt khác, không ngừng tích cực, xây dựng an lành cho chúng sinh bằng cách trước hết phục vụ đất nước, dân tộc những người gần mình và có ân nghĩa đối với cuộc sống của mình”[13]. Điều đặc biệt đáng nhấn mạnh ở đây, Phật giáo vốn là một tôn giáo xuất thế, nhưng trong quá trình du nhập, truyền giáo và hòa nhập vào văn hóa bản địa, nó đã không ngừng nhập thế. Tuy nhiên khi nhập thế, trong lịch sử du nhập và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã không hề tiếm quyền của các lực lượng thế tục mà chỉ góp phần làm cho đời sống thế tục nhân hậu hơn, tình người hơn, điển hình nhất là thời L‎ý, Trần, khi Phật giáo đã lớn mạnh cả Phật giáo bác học và Phật giáo bình dân, song các tu sĩ cũng như cư sĩ luôn biết điểm dừng, chưa bao giờ lạm quyền tôn giáo để lấn át quyền lực chính trị.

Có thể nói, nhập thế đã trở thành một trong những đặc điểm đặc sắc và được phát huy cao độ bởi Thiền Trúc Lâm Yên Tử thời Trần, mà dày công tích lũy, kế thừa và phát huy chính là Vua –Phật Trần Nhân Tông. Trước đó, vấn đề nhập thế, hay sống thiền đã được nói tới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, song chưa được hệ thống. Ý nghĩa sơ khởi của “nhập thế” là Phật giáo từ bi cứu độ chúng sinh, đáp ứng, đối mặt với đau khổ của con người và dẫn dắt con người giải thoát con người khỏi mọi khổ đau. Nhập thế của thiền Phật giáo nói chung là thiền sư, tu sĩ không dừng lại ở những hoạt động giới hạn trong việc tu hành như ăn chay, niệm Phật, tọa thiền, tu thiền… mà là tham gia vào các hành động thiết thực, thường nhật trong cuộc sống vì chúng sinh, được gọi là “hoạt Phật” hay “sống thiền” với ý nghĩa sâu sắc và rộng lớn hơn lối thiền “gánh nước, bửa củi, đi, ngồi cũng là thiền”, mà vì đó là đánh giặc cứu dân cứu nước cũng là thiền, lo cho dân cho nước khỏi đói khổ cũng là thiền. Đây chính là điểm mới đặc sắc của thiền Thiền tông Đại Việt do Trần Nhân Tông lãnh đạo, nó tác động tới toàn bộ đời sống chính trị văn hóa xã hội, định hướng bảo vệ chủ quyền dân tộc, mở rộng biên cương, chấn hưng văn hóa Đại Việt của nhà Trần…

Tinh thần nhập thế tích cực của thiền Trúc Lâm được Trần Nhân Tông biểu hiện qua hai nội dung: Thứ nhất, đó là việc Trần Nhân Tông quyết tâm phục hồi và phát huy vai trò chủ đạo của tư tưởng Thiền Phật giáo trong đời sống tinh thần xã hội Đại Việt, đưa nó trở thành hệ tư tưởng chính thống trong công cuộc xây dựng và thống nhất thành một tôn giáo Đại Việt độc lập; Thứ hai, đem Triết lý nhân sinh Phật giáo vận dụng vào đời sống xã hội lành mạnh; không trốn tránh cuộc sống đời thường để tìm vào thiên nhiên (như Lão giáo), mà thuận theo tự nhiên dưỡng thân tâm, diệt dục, trừ dâm tà; không chỉ dừng lại ở sinh hoạt tôn giáo với thực hành các giới luật, các lễ nghi tôn giáo hàng ngày, mà là những hoạt động lo cho dân cho nước, như đánh giặc cứu dân, cứu nước, phục vụ cho đời; gắn đạo với đời, trên tinh thần dung thông Phật, Nho, Lão. Tư tưởng tu hành và giác ngộ ngay giữa trần tục đã hình thành nên mẫu người Phật tử biết đem đạo ứng dụng vào đời, mà Vua- Phật Trần Nhân Tông là điển hình cao đẹp của Phật giáo dân tộc.

Thiền nhập thế đã tiếp thu thêm tư tưởng đạo đức – chính trị trong đạo trị nước tích cực của Nho gia để đáp ứng nhu cầu thực tiễn lịch sử Việt Nam đương thời. Thực tiễn Việt Nam thế kỉ XIII – XIV đặt ra nhu cầu cần xây dựng một chế độ quân chủ trung ương tập quyền bền vững để củng cố vị thế, lợi ích của quý tộc nhà Trần, đồng thời tăng cường lực lượng chống lại sự xâm lăng của giặc Nguyên – Mông, bảo vệ lợi ích của cả dân tộc. Triết lý nhân sinh với chủ trương không sát sinh nên không thể hoàn toàn đảm đương nổi nhiệm vụ đó, nó cần phải được bổ sung bởi học thuyết chính trị – xã hội của Nho gia để có thể huy động lực lượng chiến đấu khi lãnh thổ bị xâm lược, lợi ích triều đình bị tổn hại:

“Phương tiện dẫn dụ đám người mê muội; con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho hậu thế, làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách nhiệm của tiên thánh”[14].

Tiếp thu tư tưởng chính trị – xã hội của Nho gia, Trần Nhân Tông luôn đề cao trách nhiệm, bổn phận và hành động tích cực của kẻ trượng phu, gắn với đời sống của dân và vận mệnh của đất nước, dân tộc:

“Thương yêu mọi người như nhau là thiên đức của thiên tử,

Sống mà không giúp ích gì cho đời là điều đáng hổ thẹn của đấng trượng phu”[15].

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nhập thế tích cực, có lẽ một phần còn do Trần Nhân Tông chịu ảnh hưởng tinh thần phá chấp của ba thiền phái trước đó, và Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng như những vị Thiền sư có ảnh hưởng trực tiếp rất lớn. Chẳng hạn, tinh thần phá chấp, gắn đạo với đời, nhập đời vào đạo đã được thể hiện rõ trong bài Phổ thuyết sắc thân đậm Tính Không của Trần Thái Tông:

“Như chưa thấu Phật, tâm, ý tổ; trước hãy nên trì giới tụng kinh. Đến lúc hay Phật là không, tổ là không; thì giới chẳng cần trì, kinh không cần tụng. Trong ảo sắc cũng là chân sắc; nơi phàm thân cũng thực pháp thân. Phá lục tặc làm lục thần thông; đưa bát khổ thành bát tự tại”[16].

Trần Nhân Tông cũng thể hiện thiền nhập thế tích cực qua quan điểm độc đáo về “sinh tử”, khi cho rằng con người không thể tránh khỏi sinh tử và người ta không thể chạy trốn khỏi sinh tử để tìm Niết bàn, mà ngược lại, phải ở ngay trong sinh tử để thấu suốt bản tính của nó và để nhận ra theo Triết lý “vô thường”, “vô ngã”. Đó là sinh, tử không phải là chuyện tầm thường, vô ích mà là chuyện lớn, quyết định thái độ, hành động sống của con người. Con người phải biết quý trọng sinh và tử, và sống có ích cho đạo và đời, hết mình với đời và đạo. Với quan điểm về sinh tử như vậy đã giúp cho Trần Nhân Tông tiếp tục phát triển Triết lý nhân sinh nhập thế tích cực.

Tư tưởng nhập thế của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử sở dĩ thể hiện rõ triết lý nhân sinh tích cực, ngoài những lí do trên, còn một nguyên nhân khác đó là bản thân cuộc đời và sự nghiệp của người đứng đầu – Trần Nhân Tông với vị trí xã hội và địa vị tôn giáo đặc biệt của mình – vừa là vị vua vừa là thiền sư lãnh đạo Thiền phái Trúc Lâm, thống nhất toàn giáo hội Phật giáo Đại Việt. Trần Nhân Tông  không chỉ là người sáng lập ra thiền phái lớn nhất Việt Nam thời đó, mà còn là vị vua anh minh dẫn dắt muôn dân trị vì đất nước. Vai trò kép này đã khiến ông nhận thấy rõ hơn sự tích hợp đạo với đời, đạo trong đời, khi gắn lợi ích của Phật giáo với lợi ích của toàn dân tộc, gắn các giá trị của Phật giáo với giá trị của dân tộc.

– Giá trị tư tưởng của Thiền Trúc Lâm và vị thế đặc biệt của Trần Nhân Tông trong lịch sử Phật giáo dân tộc

Tinh thần Nhập thế của Phật giáo thời Trần chính là lựa chọn Thiền tông nhưng để đáp ứng các yêu cầu bức thiết của dân tộc Đại Việt, mà Thiền Trúc Lâm đã kết nối thành công con đường tới giác ngộ giải thoát gắn liền với dấn thân vì dân tộc, vì cuộc sống, chứ không phải xa lánh thế gian, hay từ bỏ nghĩa vụ và trách nhiệm với dân tộc, với nhân sinh, cũng như với bản thân.

Phật giáo Thiền Trúc Lâm xuất phát từ nền tảng Phật tính, mà ngay trong lời dạy của một Quốc Sư Phù Vân dành cho Trần Thái Tông đã nhấn mạnh: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng”. Niềm tin Phật ngay giữa cuộc đời, bất luận là tu sĩ xuất gia, hay tại gia, nam hay nữ đều vốn có sẵn Tính Phật; chỉ cần biết dứt bỏ hết mê lầm, dứt bỏ tham, sân, si, sống thiện là thấy Phật tính. Điều đó đã có ảnh hưởng, tương tác với tư tưởng Nhập thế vì có giá trị giúp con người bỏ phân biệt đẳng cấp, giàu sang phú quý, dù ở chùa hay ở nhà đều có thể thành Phật thông qua những hành động thiết thực, chính xác hơn đó là thiền hành động, đánh giặc cứu nước, rồi sau chiến tranh lại cùng nhau tái thiết quốc gia[17]. Thành công đặc sắc của Trần Nhân Tông là nâng Phật tính và Thiền Trúc Lâm lên thành chất kết dính Dân tộc – Đạo Pháp. Có thể nói thời Trần Phật giáo (chủ yếu là Thiền Trúc Lâm) gần như được coi là quốc đạo.

Đỉnh cao thành công nữa của Trần Nhân Tông là Tinh thần Nhập thế của Thiền Trúc Lâm đã được tiếp tục phát huy bởi các thế hệ đệ tử của Trúc Lâm sau này, và trường tồn như đạo pháp dân tộc cho đến hôm nay. Thiền phái Trúc Lâm không chỉ khẳng định bản sắc Thiền tông Đại Việt mà từ đó còn tác động mạnh mẽ vào đời sống chính trị văn hóa xã hội nước nhà, hòa nhập với chúng sinh, ăn sâu bén rễ góp phần làm ổn định và đoàn kết lòng dân. Dưới sự lãnh đạo của Vua-Phật Trần Nhân Tông, Phật giáo Trúc Lâm đã phát huy vai trò chủ đạo của tư tưởng Phật giáo dân tộc trong đời sống tinh thần xã hội Đại Việt, đưa Triết lý đạo đức Phật giáo thâm nhập sâu rộng và trở thành nền tảng đạo đức của nhân dân Đại Việt. Từ đó đồng thời xây dựng nền chính trị vững chắc, một nhà Trần thịnh vượng, rạng danh trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nhất là kỳ tích liên tục chiến thắng quân Nguyên Mông.

Thiền Trúc Lâm Yên Tử đã tiếp tục phát triển tư tưởng nhập thế tích cực qua tấm gương của người đứng đầu thiền phái với cương vị là ông vua – Phật đi đầu trong việc tu hành hướng thiện. Tấm gương đó có giá trị hết sức to lớn trong việc giáo dục tăng sĩ và tín đồ luôn kết hợp việc đạo với việc đời, với niềm tin rằng ai cũng bình đẳng như nhau trong cuộc sống, trong tu dưỡng nhân tâm, và cùng có khả năng phấn đấu đến giác ngộ bằng Giới, Định Tuệ. 700 năm sau khi Điều ngự giác Hoàng viên tịch thì dòng Trúc Lâm Yên Tử đã được phục hồi và Người vẫn là linh hồn của Thiền tông Việt Nam.

Như vậy, tinh thần nhập thế của thiền phái Trúc Lâm là một sản phẩm tinh thần mang tính Phật giáo thuần Việt, đã góp phần giải quyết một loạt vấn đề lịch sử đặt ra vào thời đại đó và tiếp tục đồng hành cùng lịch sử văn hóa dân tộc tới mai sau.

Phật giáo nhập thế mà lại gắn với vận mệnh quốc gia, dân tộc và gắn ngay với sự tu hành của bản thân mình, tâm thế của mình và không tách rời đời sống xã hội. Đó là cách Trần Nhân Tông luôn nhấn mạnh đời sống tu hành nhưng không xa thế gian mà ngay trong từng việc, từng suy nghĩ và lời nói của mỗi con người vì Phật giáo Đại Việt và dân tộc Đại Việt hòa bình, ổn định.

Triết lý nhân sinh của thiền Trúc Lâm đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng, hình thành nên chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo, văn hóa độc đáo của Đại Việt Thời Trần. Đó chính là sự đúc kết thành tựu của lịch sử Phật giáo Việt Nam và sự tiếp biến thành công của Phật giáo khi thâm nhập vào đời sống xã hội, rồi có chỗ đứng vững chắc, bén rễ sâu trong lòng dân tộc, trở thành cái Tâm Phật của người Việt quay về phục vụ cho chính cuộc sống của nhân dân. Như vậy, Phật giáo phát triển được là do đáp ứng đúng yêu cầu của người dân đặt ra, đó là trấn an lòng dân, xây dựng nền văn hóa Đại Việt vững chắc.

Nói cách khác, vua – Phật Trần Nhân Tông với tư cách Điều Ngự Giác Hoàng đã có công đặc biệt tích hợp, dung thông từ truyền thống Phật giáo và giá trị văn hóa, văn minh Việt Nam, tạo nên thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mang bản sắc Đại Việt, trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc cho toàn dân tộc, tiếp thêm luồng sinh khí mới cho cuộc sống tâm linh của cộng đồng dân tộc; Từ đó đã tạo nên được một thời Trần cực thịnh, quốc thái dân an, khẳng định vị thế độc lập trong khu vực. Triết lý đạo đức nhân sinh của Thiền Trúc Lâm Yên Tử đã thâm nhập sâu rộng và trở thành nền tảng đạo đức của dân tộc Đại Việt, mà đến nay tinh thần nhập thế tích cực đó vẫn được trân trọng như một định hướng cho người Phật tử vừa thực hiện nhiệm vụ tu sĩ vừa xây dựng một đời sống theo đạo lý Thiền tông, đồng thời tích cực làm tròn trách nhiệm của một công dân đối với việc xây dựng và phát triển đất nước./.

[[3] Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sử kí toàn thư, tập 4, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 493.

[4] Lê Mạnh Thát (2000), Trần Nhân Tông toàn tập, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 248.

[5] Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.119.

[6] Viện Văn học (1989) Thơ văn Lý Trần, tập 2, Nxb KHXH – Hà Nội, tr. 451 – 452.

[7] Tam Tổ thực lục (1995), Thích Phước Sơn dịch và chú giải, Viện NCPH, Hà Nội, tr. 20.

[8] Lê Mạnh Thát (2000), Trần Nhân Tông toàn tập, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 248.

[9] Văn Quân (2012), Tại sao Phật hoàng, Nxb Văn hóa – Thông tin, tr. 56

[10] Đinh Gia Khánh dịch (1976), Văn học Việt Nam thế kỉ X-XIV, Cư trần lạc đạo phú, Nxb. Văn học, tr. 110

[11] Đinh Gia Khánh dịch (1976), Sđd., tr. 111

[12] Đỗ Quang Hưng (2006), Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, Tạp chí Khoa học xã hội (số 9), tr. 65.

[13] Mạn Đà La (1987), Tìm hiểu về Trần Nhân Tông, vị sáng Tổ sáng lập dòng thiền Trúc Lâm, bản in roneo, tr 6.

[14] Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý  –  Trần, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 27.

[15] Thơ văn Lý  –  Trần, tập 2, Sđd., tr. 477

[16] Thơ văn Lý  –  Trần, tập 2, Sđd., tr. 55.

[17] Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý Trần, tập 2, Nxb KHXH – Hà Nội, tr. 508.

Từ khóa » Sự Lý Viên Dung