Đạo Đức Kinh

I. LÃO TỬ – ĐẠO ĐỨC KINH Thu Giang Nguyễn Duy Cần

Chương 1: Đạo khả đạo, phi thường đạo, Danh khả danh, phi thường danh. Vô danh thiên địa chi thuỷ. Hữu danh vạn vật chi mẫu. Cố, thường vô dục, dĩ quan kì diệu. Thường hữu dục, dĩ quan kì hiếu. Thử lưỡng giả, đồng xuất nhi dị danh, Đồng vị chi Huyền. Huyền chi hựu Huyền, chúng diệu chi môn.

Chương 1: Đạo có thể gọi được, không phải là Đạo “thường” Danh có thể gọi được, không phải là danh “thường” Không tên là gốc của Trời Đất; Có tên là mẹ của vạn vật. Bởi vậy, thường không tư dục, mới nhận được chỗ huyền diệu của đạo; Thường bị tư dục nên chỉ thấy chỗ chia lìa của Đạo. Hai cái đó, đồng với nhau; cùng một gốc tên khác Đồng, nên gọi là Huyền. Huyền rồi lại Huyền, Đó là cửa vào ra của mọi huyền diệu trong Trời Đất.

Chương 2: Thiên hạ giai tri mĩ chi vi mĩ, tư ác dĩ; Giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố, Hữu Vô tương sinh, Nan Dị tương thành, Trường Đoản tương hình, Cao Hạ tương khuynh, Âm thanh tương hoà, Tiền Hậu tương tuỳ. Thị dĩ Thánh nhân Xử vô vi chi sự, Hành bất ngôn chi giáo. Vạn vật tác yên nhi bất từ, Sinh nhi bất hữu, Vi nhi bất thị, Công thành nhi phất cư. Phù duy phất cư Thị dĩ bất khứ.

Chương 2: Thiên hạ đều biết tốt là tốt, Thì đã có xấu rồi; Đều biết lành là lành, thì đã có cái chẳng lành rồi. Bởi vậy, Có với Không cùng sinh, Khó và Dễ cùng thành, Dài và Ngắn cùng hình, Cao và Thấp cùng chiều, Giọng và Tiếng cùng họa, Trước và Sau cùng theo Vậy nên Thánh nhân. Dùng vô vi mà xử sự, Dùng bất ngôn mà dạy dỗ. Để cho vạn vật nên mà không cản, Tạo ra mà không chiếm đoạt, Làm ra mà không cậy công, Thành công mà không ở lại. Vì bởi không ở lại, Nên không bị bỏ đi.

Chương 3: Bất thượng hiền, Sử dân bất tranh; Bất quí nan đắc chi hoá, Sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, Sử dân tâm bất loạn. Thị dĩ thánh nhân chi trị, Hư kì tâm, Thực kì phúc, Nhược kì chí, Cường kì cốt, Thường sử dân vô tri vô dục, Sử phù trí giả bất cảm vi dã. Vi vô vi, Tắc vô bất trị.

Chương 3: Không tồn tại bậc hiền tài, Khiến cho dân tranh giành; Không quí của khó đặng, Khiến cho dân không trộm cướp Không phô điều ham muốn, Khiến cho lòng dân không loạn. Vì vậy cái trị của Thánh nhân, Hư lòng, No dạ, Yếu chí, Mạnh xương. Thường khiến cho dân không biết, không ham, Khiến cho kẻ trí không dám dùng đến cái khôn của mình. Làm theo vô vi, ắt không có gì là không trị.

Chương 4: Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh; Uyên hề tự vạn vật chi tòng. Toả kì nhuệ, Giải kì phàn, Hoà kì quang, Đồng kì trần, Trạm hề tự hoặc tồn, Ngô bất tri thuỷ chi tử, Tượng đế chi tiên.

Chương 4: Đạo thì trống không, nhưng đổ vô mãi là không đầy, Đạo như vực thẳm, dường như tổ tông của vạn vật. Nó làm nhụt bén nhọn, Tháo gỡ rối rắm, Điều hoà ánh sáng, Đồng cùng bụi bặm. Nó trong trẻo thay! lại dường như trường tồn, Ta không biết Nó là con ai, Dường như có trước Thiên đế.

Chương 5: Thiên địa bất nhân, Dĩ vạn vật vi sô cẩu; Thánh nhân bất nhân, Dĩ bách tính vi sô cẩu. Thiên địa chi gian, Kì du thác thược hồ! Hư nhi bất khuất, Động nhi dũ xuất, Đa ngôn sổ cùng, Bất như thủ trung.

Chương 5: Trời đất không có nhân, Coi vạn vật như loài chó rơm; Thánh nhân không có nhân, Coi trăm họ như loài chó rơm. Có khoảng giữa Trời Đất, Giống như ống bễ. Tuy trống không mà vô tận, Càng động lại càng hơi ra. Càng nói nhiều, càng không sao nói hết được, Thà là giữ lấy cái Trung.

Chương 6: Cốc thần bất tử, Thị vị Huyền tẫn, Huyền tẫn chi môn, Thị vị thiên địa căn, Miên miên nhược tồn, Dụng chi bất cần.

Chương 6: Thần hang không chết, Nên gọi Huyền tẫn, Cửa của Huyền tẫn, Gốc rễ của Đất Trời, Dằng dặc như còn hoài, Dùng hoài mà không hết.

Chương 7: Thiên trường địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường, Thả cửu giả, Dĩ kì bất tự sinh. Cố năng trường sinh. Thị dĩ thánh nhân, Hậu kì thân nhi thân tiên, Ngoại kì thân nhi thân tồn. Phi dĩ kì vô tư da? Cố năng thành kì tư .

Chương 7: Trời dài đất lâu. Trời đất sở dĩ dài lâu, Là vì không sống cho mình, Nên mới đặng trường sinh. Vì vậy Thánh nhân, Để thân ra sau, mà thân ở trước; Để thân ra ngoài, mà thân đặng còn. Phải chăng vì không riêng tư, Mà thành được việc riêng tư?

Chương 8: Thượng thiện nhược thuỷ; Thuỷ thiện lợi vạn vật. Nhi bất tranh, Xử chúng nhân chi sở ố, Cố cơ ư Đạo. Cư thiện địa, Tâm thiện uyên, Dữ thiện nhân, Ngôn thiện tín, Chính thiện trị,  Sự thiện năng, Động thiện thời. Phù duy bất tranh, Cố vô vưu.

Chương 8: Bậc thượng thiện giống như nước; Nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh, Ở chỗ mà người người đều ghét, Nên gần với Đạo. Ở thì hay lựa chỗ thấp; Lòng thì chịu chỗ thâm sâu; Xử thế thì thích dùng đến lòng nhân; Nói ra thì trung thành không sai chạy, Sửa trị thì chịu làm cho được thái bình. Làm việc thì hợp với tài năng, Cử động thì hợp với thời buổi. Ôi vì không tranh, Nên không sao lầm lỗi.

Chương 9: Tri nhi doanh chi Bất như kì dĩ. Suỷ nhi chuyết chi, Bất khả trường bảo. Kim ngọc mãn đường, Mạc chi năng thủ. Phú quí nhi kiêu, Tự di kì cữu. Công toại thân thối, Thiên chi đạo.

Chương 9: Ôm giữ chậu đầy, Chẳng bằng thôi đi. Dùng dao sắc bén, Không bén được lâu. Vàng ngọc đầy nhà, Khó mà giữ lâu. Giầu sang mà kiêu, Tự vời hoạ ưu. Nên việc, lui thân, Đó là đạo Trời.

Chương 10: Tải doanh phách bão nhất, Năng vô li hồ? Chuyên khí trí nhu, Năng anh nhi hồ? Địch trừ huyền lãm, Năng vô tì hồ? Ái dân trị quốc, Năng vô vi hồ? Thiên môn khai hạp. Năng vô thư hồ? Minh bạch tứ đạt, Năng vô tri hồ? Sanh chi súc chi, Sanh nhi bất hữu, Vi nhi bất thị, Trưởng nhi bất tể, Thị vị Huyền đức.

Chương 10: Làm cho hồn phách hiệp một, Không thể chia lìa, đặng không? Làm cho hơi thở tụ lại, Như trẻ sơ sinh, đặng không? Gột rửa lòng ham huyền diệu, Đừng còn chút bợn, đặng không? Thương dân trị nước, Mà làm như không làm, đặng không? Cửa trời khép mở, Mà làm như con mái, đặng không? Hiểu biết tất cả, Mà làm như không biết gì cả, đặng không? Sinh đó, nuôi đó, Sinh mà không chiếm cho mình, Làm mà không cậy công, Làm việc lớn mà không làm chủ, Đó gọi là Huyền đức.

Chương 11: Tam thập phúc, cộng nhất cốc, Đương kì vô, hữu xa chi dụng. Duyên thực dĩ vi khí, Đương kì vô, hữu khí chi dụng. Tạc hộ dũ dĩ vi thất, Đương kì vô, hữu thất chi dụng. Cố, Hữu chi dĩ vi lợi, Vô chi dĩ vi dụng.

Chương 11: Ba chục căm, hợp lại một bầu, nhưng nhờ chỗ không, mới có cái dụng của xe. Nhồi đất để làm chén bát, Nhờ chỗ không mới có cái dụng của chén bát. Khoét cửa nẻo, làm buồng the, Nhờ chỗ không mới có cái dụng của buồng the Bởi vậy, Lấy cái có để làm cái lợi, Lấy cái không đó để làm cái dụng.

Chương 12: Ngũ sắc lệnh nhân mục manh. Ngũ âm lệnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lệnh nhân khẩu sảng? Trì sỉnh điền liệp, Lệnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hoá, Lệnh nhân hành phương. Thị dĩ Thánh nhân, Vị phúc bất vị mục. Cố khử bỉ thủ thử.

Chương 12: Năm mầu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. Sải ngựa săn bắn, Khiến lòng người hoá cuồng. Của cải khó đặng, Khiến người gặp nhiều tai hoạ Bởi vậy Thánh nhân, Vì bụng mà không vì mắt. Nên bỏ cái này mà lấy cái kia.

Chương 13: Sủng nhục nhược kinh, Quí đại hoạn nhược thân, Hà vị sủng nhục nhược kinh? Sủng vi thượng, nhục vi hạ; Đắc chí nhược kinh, Thất chi nhược kinh. Thị vị sủng nhược kinh Hà vị quí đại hoạn nhược thân? Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả Vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, Ngô hữu hà hoạn! Cố, Quí dĩ thân vi thiên hạ Nhược khả kí thiên hạ, Ái dĩ thân vi thiên hạ, Nhược khả thác thiên hạ.

Chương 13: Vinh và Nhục đều là sợ hãi; Quí và Hoạn đều là vì có thân. Tại sao gọi Vinh và Nhục đều là sợ hãi? Là vì, Vinh trên thì Nhục dưới, Được cũng sợ hãi, Mà mất cũng sợ hãi. Vì vậy mới gọi “Vinh Nhục đều là sợ hãi.” Tại sao gọi “Quí và Hoạn đều là vì có thân”? Là vì, ta sở dĩ có lo lớn là vì ta có thân, Nếu ta không thân, Ta sao có lo! Vậy, Kẻ nào biết quí thân vì thiên hạ, Nên giao phó thiên hạ cho họ Kẻ nào biết thương thân vì thiên hạ, Nên gửi gắm thiên hạ cho họ.

Chương 14: Thị chi bất kiến danh viết Di; Thính chi bất văn danh viết Hi; Bác chi bất đắc danh viết Vi. Thử tam giả bất khả trí cật. Cố hỗn nhi vi nhất. Kì thượng bất kiểu, Kì hạ bất muội. Thằng thằng bất khả danh. Phục qui ư vô vật, Thị vị vô trạng chi trạng, Vô vật chi tượng, Thị vị hốt hoàng, Nghinh chi bất kiến kì thủ, Tuỳ chi bất biến kì hậu. Chấp cổ chi đạo, Dĩ ngự kim chi hữu, Năng tri cổ thỉ, Thị vị đạo kỉ.

Chương 14: Xem mà không thấy, nên tên gọi là Di; Ngóng mà không nghe, nên tên gọi là Hi; Nắm mà không giữ gọi là Vi. Ba cái ấy không thể phân ra được, Vì nó hỗn hợp làm một Trên nó thì không sáng, Dưới nó lại không tối, Dài dằng dặc mà không có tên. Rồi lại trở về chỗ không có. Ấy gọi là cái hình trạng không hình trạng Cái hình trạng của cái không có vật. Ấy gọi là “hốt hoảng”. Đón nó thì không thấy đầu, Theo nó thì không thấy đuôi. Giữ cái đạo xưa, Để mà trị cái có của hiện nay. Biết được cái đầu mối của xưa, Ấy gọi là nắm được giềng mối của Đạo.

Chương 15: Cổ chi thiện vi sĩ giả, Vi diệu huyền thông, Tham bất khả thức. Phù duy bất khả thức, Cố cưỡng vi chi dung. Dự yên nhược đông thiệp xuyên, Do hè nhược uý tứ lân. Nhiễm hề kì nhược khách, Hoán hề nhược băng chi tương thích. Đôn hề kì nhược phác, Khoáng hề kì nhược cốc, Hỗn hề kì nhược trọc. Thục năng trọc dĩ chỉ, Tĩnh chi từ thanh; Thục dĩ an dĩ cửu, Động chi từ sinh. Bảo thử Đạo giả bất dục doanh, Phù duy bất doanh, Cố năng tế bất tân thành.

Chương 15: Bậc toàn thiện xưa, Tinh tế nhiệm mầu, siêu huyền, thông suốt. Sâu chẳng khá dò. Bởi chẳng khá dò, Tạm hình dung Đó. Thận trọng dường như qua sông trên nước đặc. Do dự dường sợ mắt ngó bốn bên. Nghiêm kính dường như khách lạ, Chảy ra dường băng tan,Quê mùa dường gỗ chưa đẽo gọt,Trống không dường hang núi, Pha lẫn dường nướcđục. Ai hay nhờ tịnh mà đục hóa trong, Au hay nhờ động mà đứng lại đi? Kẻ giữ Đạo không muốn đầy. Chỉ vì không muốn đầy, Nên mới che lấp được mà chẳng trở nên mới.

Chương 16: Trí hư cực, Thủ tịnh đốc, Van vật tịnh tác, Ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân… Các phục qui kì căn. Qui căn viết tịnh, Thị vị viết Phục Mạng. Phục Mạng viết Thường. Tri Thường viết Minh, Bất tri thường vọng tác hung. Tri thường dung, Dung nãi công, Công nãi vương, Vương nãi thiên, Thiên nãi Đạo, Đạo nãi cửu, Một thân bất đãi.

Chương 16: Đến chỗ cùng cực hư không, Là giữ vững được trong cái “Tịnh”. Vạn vật cùng đều sinh ra; Ta lại thấy nó trở về gốc, Ôi! mọi vật trùng trùng, Đều trở về cội rễ của nó. Trở về cội rễ, gọi là “Tịnh”. Ấy gọi là “phục mạng”. Phục mạng gọi là ‘Thường”. Biết Thường gọi là Minh. Không biết đạo thường mà làm càn là gây hung hoạ Biết đạo thường thì bao dung, Bao dung thì công bình, Công bình thì bao khắp, Bao khắp là Trời, Trời là Đạo, Đạo thì lâu dài Suốt đời không nguy…

Chương 17: Thái thượng, hạ tri hữu chi. Kì thứ thân nhi dự chi. Kì thứ uý chi. Kì thứ vũ chi. Tín bất túc yên, Hữu bất tín yên. Du hề kì quí ngôn. Công thành sự toại, Bách tính giai vị ngã tự nhiên.

Chương 17: Đời thái sơ, dân chỉ biết có đấy. Kế đó, dân than và khen đấy. Kế đó, dân sợ đấy. Kế đó, dân khinh đấy. Vì không đủ tin, Nên dân không tin. Bậc thánh xưa, quí lời nói, Làm xong công việc cho dân, Mà dân cứ tưởng tự nhiên tự mình làm.

Chương 18: Đại Đạo phế, hữu Nhân Nghĩa. Huệ Trí xuất, hữu đại nguỵ. Lục thân bất hoà hữu hiếu từ. Quốc gia hôn loạn hữu trung thần.

Chương 18: Đạo lớn mất, mới có Nhân Nghĩa. Trí Huệ sinh, mới có dối trá. Lục thân chẳng hoà, mới có hiếu từ. Nước nhà rối loạn, mới có tôi ngay.

Chương 19: Tuyệt thánh khí trí, Dân lợi bách bội. Tuyệt nhân khí nghĩa, Dân phục hiếu từ. Tuyệt xảo khí lợi, Đạo tặc vô hữu. Thử tam giả, dĩ; Vi văn bất túc. Cố lịnh hữu sở chúc. Kiến Tố bão Phác, Thiển tư quả dục.

Chương 19: Dứt Thánh bỏ Trí, Dân lợi trăm phần. Dứt Nhân bỏ Nghĩa, Dân lại thảo lành. Dứt xảo bỏ lợi, Trộm cướp không có. Dứt ba khoản đó, Có đủ vào đâu. Phải được như vầy Ăn ở giản dị và chất phác, Ít riêng tư, ít tham dục.

Chương 20: Tuyệt học vô ưu Duy chi dữ a, Tương khứ kỉ hà? Thiện chi dữ Ác, Tương khứ nhược hà? Nhân chi sở uý, Bất khả bất uý. Hoang hề kì vị ương tai! Chúng nhân hi hi, Như hưởng thái lao, Như xuân đăng đài. Ngã độc bạc hề kì vị triệu, Như anh nhi chi vị hài, Luy luy hề nhược vô sở qui. Chúng nhân giai hữu dư, Nhi ngã độc nhược di, Ngã ngu nhân chi tâm dã tai! Độn độn hề. Tục nhân chiêu chiêu Ngã độc hôn hôn. Tục nhân sát sát, Ngã độc muộn muộn, Đạm hề kì nhược hải. Liêu hề nhược vô chỉ. Chúng nhân giai hữu dĩ, Nhi ngã độc ngoan tự bỉ. Ngã độc dị ư nhân, Nhi quí thực mẫu.

Chương 20: Dứt học không lo. “Dạ” với “Ơi” khác nhau chỗ nào Lành với dữ, Khác nhau ở đâu? Chỗ mà người sợ, Ta há chẳng sợ Nhưng chưa có chi, sợ cũng vô ích. Người đời vui vẻ, Như hưởng thái lao. Như lên xuân đài. Riêng ta im lặng, chẳng dấu vết chi Như trẻ sơ sinh, chưa biết tươi cười. Rũ rượi mà đi, đi không chỗ về. Người đời có dư, Riêng ta thiếu thốn Lòng ta ngu dốt vậy thay! Mờ mệt chừ! Người đời sáng chói, Riêng ta mịt mờ, Người đời phân biện, Riêng ta hỗn độn. Điềm tĩnh dường như tối tăm, Vùn vụt dường như không lặng. Người đời đều có chỗ dùng, Riêng ta ngu dốt, thô lậu. Ta riêng khác người đời: Ta quí Mẹ nuôi muôn loài.

Chương 21: Khổng đức chi dung, Duy Đạo thị tùng. Đạo chi vi vật, Duy hoảng duy hốt. Hốt hề hoảng hề, Kì trung hữu tượng, Hoảnh hề hốt hề, Kì trung hữu vật. Yểu hề minh hề, Kì trung hữu tinh. Kì tinh thậm chân, Kì trung hữu tín. Tự cổ cập kim, Kì danh bất khứ. Dĩ huyệt chúng phủ. Ngô hà dĩ tri chúng phủ Chi trạng tai? Dĩ thử.

Chương 21: Dáng của Đức lớn, Theo cùng với Đạo, Đạo sinh ra Vật, Thấp thoáng mập mờ, Thấp thoáng mập mờ, Trong đó có hình. Mập mờ thấp thoáng, Trong đó có Vật. Sâu xa tăm tối, Trong đó có tinh. Tinh đó rất thực, Trong đó có tín. Từ xưa đến nay, Tên đó không mất, Gốc của vạn vật. Ta làm sao biết được Trạng thái của nó? Nhờ đó vậy.

Chương 22: Khúc tắc toàn, Uổng tắc trực, Oa tắc doanh, Tệ tắc tân, Thiển tắc đắc, Đa tắc hoặc. Thị dĩ thánh nhân bão nhất, Vi thiên hạ thức. Bất tự kiến, cố minh, Bất tự thị, cố chương, Bất tự phạt, cố hữu công, Bất tự căng, cố trưởng. Phù duy bất tranh, Cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. Cổ chi sở vị khúc tắc toàn giả, Khởi hư ngôn tai! Thành, toàn nhi qui chi.

Chương 22: Cái gì khuyết thì lại toàn; Cái gì cong thì lại ngay; Cái gì sâu thì lại đầy; Cái gì cũ thì lại mới; Ít thì lại được, Nhiều thì lại mê. Bởi vậy Thánh nhân ôm giữ cái một, để làm mẫu mực cho thiên hạ. Không xem là mình sáng, nên sáng; Không cho mình là phải, nên chói; Không cho mình có công, nên có công; Không khoe mình, nên đứng đầu. Chỉ vì không tranh, Nên thiên hạ không ai tranh nổi với mình. Chỗ người xưa gọi là khuyết thì lại toàn, Há phải lời nói sai đâu? Thành, là trở về chỗ Toàn vậy.

Chương 23: Hi ngôn tự nhiên. Cố, Phiêu phong bất chung triêu, Sậu vũ bất chung nhật. Thục vi thử giả, Thiên Địa. Thiên địa thượng bất năng cửu Nhi huống ư nhân hồ! Cố, Tùng sự ư Đạo giả, Đạo giả đồng ư Đạo. Đức giả đồng ư đức, Thất giả đồng ư thất. Đồng ư đạo giả, Đạo diệc lạc đắc chi. Đồng ư đức giả, Đức diệc lạc đắc chi. Đồng ư thất giả, Thất diệc lạc đắc chi. Tín bất túc yên, Hữu bất tín yên.

Chương 23: Ít nói để cho tự nhiên Bởi vậy, Gió lốc không thể thổi suốt một buổi mai, Mưa rào không mưa suốt một ngày trường. Ai làm nên mưa gió ấy? Trời Đất. Việc Trời Đất còn không thể lâu, Huống chi là việc của người! Vậy nên, Theo Đạo thì đồng với Đạo, Theo Đức thì đồng với Đức Theo Mất thì đồng với Mất Đồng với Đạo Đạo cũng vui tiếp đó, Đồng với Đức Đức cũng vui tiếp đó, Đồng với mất, Mất cũng vui tiếp đó. Tin mà không đủ, Nên mới không tin.

Chương 24: Khí giả bất lập,  Khoá giả bất hành, Tự kiến giả bất minh, Tự thị giả bất chương, Tự phạt giả vô công, Tự căng giả bất trưởng. Kì tại Đạo dã, Viết “Dư thực chuế hành, Vật hoặc ố chi:. Cố, hữu Đạo giả bất tử.

Chương 24: Nhón gót lên thì không đứng vững; Xoạc chân ra thì không bước được. Tự xem là sáng thì không sáng. Tự xem là phải thì không chói. Tự xem là có công là không công. Tự kiêu căng thì không đứng đầu. Theo Đạo mà nói thì: “Đồ ăn dư, việc làm thừa” Ai cũng oán ghét. Vì vậy, người có Đạo không làm.

Chương 25: Hữu vật hỗn thành, Tiên thiên địa sinh. Tịch hề liêu hề , Độc lập bất cải, Châu thành nhi bất đãi, Khả dĩ vi thiên hạ mẫu, Ngô bất tri kì danh, Tự chi viết Đạo, Cưỡng vi chi danh viết Đại. Đại viết Thệ, Thế viết Viễn, Viễn viết Phản. Cố, Đạo đại, Thiên đại, Địa đại, Vương diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, Nhi vương cư kì nhất yên. Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên,

Chương 25: Có vật hỗn độn mà nên, Sinh trước trời đất. Yên lặng, trống không. Đứng riêng mà không đổi, Đi khắp mà không mỏi, Có thể là Mẹ thiên hạ. Ta không biết tên, Gọi đó là Đạo, Gượng cho là Lớn. Lớn là tràn khắp, Tràn khắp là đi xa, Đi xa là trở về. Vậy, Đạo lớn, Trời lớn, Đất lớn, Người cũng lớn. Trong đời có bốn thứ lớn. Mà người là một. Người bắt chước Đất, Đất bắt chước Trời, Trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước Tự nhiên.

Chương 26: Trong vi khinh căn, Tịnh vi táo quân.Thị dĩ Thánh nhân chung nhật, Hành bất li tri trọng. Tuy hữu vinh quan, Yến xử siêu nhiên. Nại hà vạn thặng chi chủ, Nhi dĩ thân khinh thiên hạ. Khinh tắc thất bổn, Táo tắc thất quân

Chương 26: Nặng là rễ gốc của nhẹ, Tịnh là chủ của náo loạn. Ấy nên, Thánh nhân suốt ngày đi mà không lìa xe nặng. Tuy xem thấy cảnh tượng vẻ vang, Mà lòng yên lặng vượt lên trên cả. Vì sao vua nước vạn thặng, Lấy thân mà xem nhẹ thiên hạ? Nhẹ thì mất gốc, Náo loạn thì mất chủ.

Chương 27: Thiện hành vô triệt tích. Thiện ngôn vô hà trích; Thiện số bất dụng trù sách. Thiện bế vô quan kiện nhi bất khả phai. Thiện kết vô thằng ước nhi bất khả giải. Thị dĩ Thánh nhân Thường thiện cứu nhân cổ vô khí nhân; Thường thiện cứu vật, cố vô khí vậy. Thị vị tập minh. Cố, Thiện nhân giả bất thiện nhân chi sư. Bất thiện nhân giả, thiện nhân chi tư. Bất quí kì sư, Bất ái kì tư, Tuy trí đại mê, Thị vị yếu diệu.

Chương 27: Đi khéo, không để dấu chân; Nói khéo, không để lỗi lầm; Tính khéo, không dùng bàn toán; Đóng khéo, không cần khoá mà không mở đặng Thắt khéo, không cần buộc mà không tháo đặng. Cho nên Thánh nhân, Thường khéo cứu người nên không có người nào bị bỏ; Thường khéo cứu vật, nên không vật nào bị bỏ Ấy gọi là “sáng bằng hai”. Nên chi, Người lành là thầy của kẻ không lành. Người không lành là của cải của người lành. Không quí người lành ấy, Không yêu người không lành ấy, Dù bậc trí cũng mê to. Yếu diệu là đó!

Chương 28: Tri kì hùng, thủ kì thư, Vi thiên hạ khê, Vi thiên hạ khê, thường đức bất li, Phục qui ư anh nhi. Tri kì bạch, thủ kì hắc, Vi thiên hạ thức. Vi thiên hạ thức, thường đức bất thắc, Phục qui ư vô cực. Tri kì vinh, thủ kì nhục, Vi thiên hạ cốc. Vi thiên hạ cốc, thường đức nãi túc. Phục qui ư phác. Phác tán tắc vi khí, Thánh nhân dụng chi tắc vi quan trưởng. Cố đại chế bất cát.

Chương 28: Biết như con trống, giữ như con mái, Làm khe nước cho thiên hạ; Làm khe nước cho thiên hạ, hằng theo Đức mà không lìa. Lại trở về trẻ thơ. Biết trắng, giữ đen, Làm khuôn mẫu cho thiên hạ. Làm khuôn mẫu cho thiên hạ, hằng theo Đức mà không sai. Lại trở về vô cực. Biết vinh, giữ nhục, Làm hang sâu cho thiên hạ; Làm hang sâu cho thiên hạ, hằng theo Đức mới đầy đủ. Lại trở về mộc mạc. Mộc mạc, tán ra, sinh đủ hạng người. Thánh nhân dùng hạng tàu năng, phong làm quan trưởng Nên phép trị lớn không chia.

Chương 29: Tương dục thủ thiên hạ nhi vi chi, Ngô kiến kì bất đắc dĩ, Thiên hạ thần khí bất khả vi dã. Vi giả bại chi, Chấp giả thất chi. Cổ, vật Hoặc hành, hoặc tuỳ, Hoặc hư, hoặc xuy, Hoặc cường, hoặc luy, Hoặc toả, hoặc truy. Thị dĩ Thánh nhân Khứ thậm, khứ xa, khứ thái

Chương 29: Muốn lấy thiên hạ mà làm (theo ý mình) Ta thấy không thể được rồi, Thiên hạ là món đồ thần, chẳng thể làm theo ý mình được đâu. Hễ làm thì hỏng, Hễ giữ thì mất. Cho nên, vật hoặc đi, hoặc theo, hoặc hà, hoặc hít, hoặc mạnh, hoặc yếu, hoặc che, hoặc phá. Ấy nên Thánh nhân lánh bỏ những cái gì thái quá.

Chương 30: Dĩ Đạo tá nhân chủ giả, Bất dĩ binh cưỡng thiên hạ, Kì sự hảo huờn, Sư chi sở xử. Kinh cức sanh yên. Đại quân chi hậu, Tất hữu hung niên. Cố thiện hữu quả nhi dĩ, Bất cảm dĩ thủ cường. Quả nhi vật căng, Quả nhi vật phạt, Quả nhi vật kiêu, Quả nhi bất đắc dĩ, Quả nhi vật cưỡng. Vật tráng tắc lão Thị vị bất Đạo. Bất Đạo tảo dĩ.

Chương 30: Ai lấy Đạo phò Vua, Không dùng binh mà bức thiên hạ, Sẽ thấy đặng kết quả tốt. Chỗ đóng sư đoàn, Gai góc mọc đầy. Sau cuộc chiến chinh, Nhiều năm mất mùa. Vậy thắng một cách khéo léo, không dám dùng sức mạnh. Thắng mà không khoe khoang, Thắng mà không tự khen, Thắng mà không kiêu căng, Thắng vì cực chẳng đã, Thắng mà không áp bức. Vật mạnh lớn ắt già, Ấy là Trái Đạo. Trái đạo, mất sớm.

Chương 31: Phù giai binh giả bất tường chi khí, Vật hoặc ố chi. Cố hữu Đạo giả bất xử. Quân tử cư tắc quí tả, Dụng binh tắc quí hữu, Binh giả, bất tường chi khí, Phi quân tử chi khí, Bất đắc nhi dụng, Điềm đạm vi thượng. Thắng nhi bất mĩ, Nhi mĩ chi giả. Thị lạc sát nhân. Phù lạc sát nhân giả, Tắc bất khả dĩ đắc chí ư Thiên hạ hĩ. Kiết sự thượng tả. Hung sự thượng hữu. Thiên tướng quân cư tả, Thượng tướng quân cư hữu. Ngôn dĩ tang lễ xử chi. Sat nhân chi chúng, Dĩ ai bi khấp chi. Chiến thắng dĩ tang lễ xử chi.

Chương 31: Binh khí tốt là vật chẳng lành, Vật nào cũng ghét nó. Nên chi, người có Đạo, không dùng. Quân tử thì trọng bên trái, Dụng binh thì quí bên phải. Binh là việc chẳng lành, Không phải đồ của người quân tử. Bắt buộc mà dùng đến, Điềm đạm là hơn. Thắng trận, đâu có tốt, Mà cho là tốt, Là vui giết người, Phàm vui giết người, Không thể vừa ý muốn thiên hạ Việc tốt chuộng bên trái, Việc dữ chuộng bên phải. Phó tướng ở bên trái, Thượng tướng ở bên phải: Là chỗ đứng trong khi tang lễ. Kẻ giết người nhiều Thảm thương khóc đó, Kẻ chiến thắng, lấy tang lễ mà xử đấy.

Chương 32: Đạo thường vô danh phác, Tuy tiểu, Thiên hạ mạc năng thần dã. Hầu vương nhược năng thủ chi, Vạn vật tương tự tân. Thiên địa tương hợp, Dĩ giáng cam lộ. Dân mạc chỉ lệnh nhi tự quân. Thỉ chè hữu danh, Danh diệc kị hữu. Phi diệc tương tri chỉ, Tri chi khả di bất đãi. Thí Đạo chi tại thiên hạ, Du xuyên cốc chi ư giang hải.

Chương 32: Đạo thường thì không tên, mộc mạc, Tuy nhỏ, Dưới trời chưa chi thần phục được. Nếu bậc Vương Hầu giữ được Nó, Vạn vật sẽ tự xưng thần. Trời Đất hoà hợp, Nước ngọt rơi xuống, Dân không bắt buộc, mà tự phục tùng. Pháp độ bày ra, Thì mới có tên, Tên kia đã có, Cũng phải biết dừng, biết dừng không hại Đạo sánh với thiên hạ Như sông biển với suối khe.

Chương 33: Tri nhân giả trí; Tự tri giả minh. Thánh nhân giả hữu lực. Tự thắng giả cường. Tri túc giả phú. Cưỡng hành giả hữu chí. Bất thất kì sở giả cửu. Tử nhi bất vong giả tho.

Chương 33: Biết người là Trí; Biết mình là sáng. Thắng người là có sức; Thắng mình là mạnh. Biết đủ là giầu. Gượng làm là có chí. Không mất bản tính là lâu dài. Chết mà không mất là sống lâu.

Chương 34: Đại Đạo phiếm hề, Kì khả tả hữu. Vạn vật thị chi nhi sinh nhi bất từ. Công thành bất danh hữu. Y dưỡng vạn vật nhi bất vi chủ, Thường vô dục, khả danh ư tiểu. Vạn vậy qui yên nhi bất vi chủ. Khả danh vi đại. Dĩ kì chung bất tự vi đại. Cố năng thành kì đại.

Chương 34: Đạo lớn tràn lấp, Bên phải bên trái. Vạn vật nhờ Nó mà sinh ra, Mà không một vật nào bị Nó khước từ. Xong việc rồi, không để tên. Che chở, nuôi nấng muôn loài, mà không làm chủ. Thường không ham muốn, nên có thể gọi tên là nhỏ Được muôn vật theo, về mà không làm chủ, Nên có thể gọi tên là Lớn. Bậc thánh nhân, cho đến ngày cùng, không cho mình là lớn. Cho nên mới thành được việc lớn của mình.

Chương 35: Chấp đại tượng, Thiên hạ vãng. Vãng nhi bất hại, An bình thái. Nhạc dữ nhị, Quá khách chỉ. Đạo chi xuất khẩu Đạm hồ kì vô vị, Thị chi bất túc kiến. Thính chi bất túc văn. Dung chi bất túc kí.

Chương 35: Nắm được Đại Tượng, Đi khắp thiên hạ, Đi đến đâu cũng không hại, Được yên ổn thái bình. Nhạc và bánh, Khách đi qua đường dừng lại. Đạo ra cửa miệng, Lạt lẽo vô vị. Nhìn không đủ thấy, Lắng không đủ nghe. Dùng Nó, không hết.

Chương 36: Tương dục hấp chi. Tất cố trương chi. Tương dục nhược chi, Tất cố cường chi. Tương dục phế chi, Tất cố hưng chi. Tương dục đoạt chi, Tất cố dữ chi. Thị vị vi minh. Nhu nhược thắng cương cường. Ngu bất khả thoát ư uyên, Quốc chi lợi khí, Bất khả dĩ thị nhân.

Chương 36: Hòng muốn thu rút đó lại, Là sắp mở rộng đó ra. Hòng muốn làm yếu đó, Là sắp làm đó mạnh lên. Hòng muốn vứt bỏ đó, Là sắp làm hưng khởi đó. Hòng muốn cướp đoạt đó, Làm sắp ban thêm cho đó, Ấy gọi là ánh sáng huyền vi. Mếm yếu thắng cứng mạnh. Cá không thể thoát vực sâu. Lợi khí nước nhà Không thể bảo cho mọi người đều biết.

Chương 37: Đạo thường vô vi, Nhi vô bất vi, Hầu vương nhược năng thủ chi, Vạn vật tương tự hoá. Hoá nhi dục tác, Ngô tương trấn chi. Dĩ vô danh chi phác, Vô danh chi phác. Diệc tương vô dục, Bất dục dĩ tịnh, Thiên hạ tương tự định.

Chương 37: Đạo thường không làm, Nhưng không gì không làm. Bậc Hầu Vương giữ được Nó, Thì vạn vật sẽ tự thay đổi. Muốn thay đổi mà nhúng tay vào, Ta nên ngăn lại, Dùng cái mộc mạc của vô danh, Cái mộc mạc của vô danh. Cũng nên không ham muốn? Không ham muốn thì điềm tịnh Thiên hạ sẽ tự yên.

Chương 38: Thượng đức bất đức, Thị dĩ hữu đức; Hạ đức bất thất đức, Thị dĩ vô đức. Thượng đức vô vi nhi vô dĩ vi. Hạ đức vi chi nhi hữu dĩ vi. Thượng nhân vi chi nhi vô dĩ vi. Thượng nghĩa vi chi nhi hữu dĩ vi. Thượng lễ vi chi nhi mạc chi ứng. Tắc nhương tí nhi nhưng chi. Cố, Thất Đạo nhi hậu Đức, Thất Đức nhi hậu Nhân, Thất Nhân nhi hậu Nghĩa, Thất Nghĩa nhi hậu Lễ. Phù Lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ. Tiền thức giả, Đạo chi hoa, nhi ngu chi thỉ; Thị dĩ đại trượng phu Xử lì hậu bất cư kì bạc, Xử kì thực bất cư kì hoa. Cố khứ bỉ thủ thử.

Chương 38: Đức cao là do không có đức, Bởi vậy mới có đức. Đức thấp là do có đức, Nên không có đức Đức mà cao thì không làm, lại không cậy đó là có làm Đức mà thấp thì có làm, Lại cho là có làm. Nhân mà cao thì làm, Nhưng không cho đó là có làm. Nghĩa mà cao, cũng làm, Lại cho là có làm. Lễ mà cao, thì làm Nếu không được đáp Thì xăn tay mà lườm. Vì vậy, Mất Đạo rồi mới có Đức, Mất Đức rồi mới có Nhân. Mất Nhân rồi mới có Nghĩa, Mất Nghĩa rồi mới có Lễ. Lễ chỉ là cái vỏ mỏng của lòng trung tín; mà cũng là đầu mối của hỗn loạn. Tiền thức chỉ là hoa của Đạo, Mà cũng là gốc của ngu. Ấy nên bậc đại trượng phu Ở chỗ dầy, không ở chỗ mỏng, Chuộng trái, không chuộng hoa, Nên bỏ đây mà giữ đó.

Chương 39: Tích chi đắc Nhất giả: Thiên đắc Nhất dĩ thanh, Địa đắc Nhất dĩ ninh, Thần đắc Nhất dĩ linh, Cốc đắc Nhất dĩ doanh, Vạn vật đắc Nhất dĩ sinh, Hầu vương đắc Nhất dĩ vi thiên hạ trinh. Kì trí chi Nhất dã. Thiên vô dĩ thanh tương khủng liệt. Địa vô dĩ ninh tương khủng phế Thần vô dĩ linh tương khủng hiệt. Cốc vô dĩ doanh tương khủng kiệt, Vạn vật vô dĩ sinh tương khủng diệt, Hầu vương vô quí cao tương khủng quyết. Cố, Quí dĩ tiện vi bổn, Cao dĩ hạ vi cơ. Thị dĩ hầu vương tự vị cô quả bất cốc. Thử kì dĩ tiện vi bổn da? Phi hồ? Cố, Trí số dự vô dự. Bất dục Lục lục như ngọc. Lạc lạc như thạch.

Chương 39: Đây là những vật xưa kia đã được ngôi Một: Trời được Một mà trong, Đất được Một mà yêu, Thần được Một mà linh, Hang được Một mà đầy, Muôn vật được Một mà sống, Hầu vương được Một mà trị thiên hạ. Đều là đã đến được chỗ Một mà nên cả. Nếu trời không trong sẽ vỡ, Đất không yên sẽ lở, Thần không linh sẽ tán, Hang không đầy sẽ cạn, Vạn vật không sống sẽ dứt, Hầu vương không trị thiên hạ sẽ mất. Bởi vậy, Quí lấy Tiện làm gốc, Cao lấy Thấp làm nền. Nên chi hầu vương tự xưng là “con côi”, “ít đức” Đó là lấy tiện làm gốc? Không phải vậy sao? Vậy quá khen thành như không khen Bậc thánh nhân không muốn được quí như ngọc bị khinh như sỏi.

Chương 40: Phản giả Đạo chi động; Nhược giả Đạo chi dụng. Thiên hạ vạn vật sinh ư Hữu; Hữu sinh ư Vô.

Chương 40: Trở lại là cái động của Đạo; Yếu, mềm là cái dụng của Đạo. Vạn vật dưới trời sinh nơi Có; Có sinh nơi Không.

Chương 41: Thượng sĩ văn Đạo, Cần nhi hành chi. Trung sĩ văn Đạo, Nhược tồn nhược vong. Hạ sĩ văn Đạo. Đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vi Đạo. Cố kiến ngôn hữu chi: Minh Đạo nhược muội, Tiến Đạo nhược thối. Di Đạo nhược lội. Ngang với Đạo, dường như tầm thường. Thượng Đức nhược cốc, Đại bạch nhược nhục, Quảng đức nhược bất túc. Kiến đức nhược thu, Chất chân nhược du. Đại phương vô ngung, Đại khí vãn thành. Đại âm hi thanh, Đại tượng vô hình. Đạo ẩn vô danh. Phù duy Đạo, Thiện thải tha thành.

Chương 41: Thượng sĩ nghe Đạo, Cố gắng theo liền. Trung sĩ nghe Đạo, Thoạt nhớ, thoạt quên. Hạ sĩ nghe Đạo, Cả cười, bỏ qua. Nếu không cười, sao đủ gọi đó là Đạo. Nên chi người xưa nói: Sáng về Đạo, dường tăm tối, Tiến về Đạo, dường như thối lui. Đức mà cao, dường như trũng thấp, Thật trong trắng, dường như bợn nhơ. Đức dồi dào, dường không đủ. Đức vững chắc, dường như cẩu thả. Kẻ chân chất, dường như biến đổi. Vuông lớn, không góc. Chậu lớn, muộn thành. Âm lớn, ít tiếng. Tượng lớn, không hình. Đạo kín, không tên. Chỉ có Đạo. Hay cho, lại tác thành.

Chương: 42: Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão dương, Xung khí dĩ vi hoà. Nhân chi sở ố, Duy cô quả bất cốc, Nhi vương còng dĩ vi xưng. Cố, Vật hoặc tổn chi nhi ích, Hoặc ích chi nhi tổn. Nhân chi sở giáo, Ngã diệc giáo chi. Cường lương giả bất đắc kì tử, Ngô tương dĩ vi giáo phụ.

Chương 42: Đạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh vạn vật. Trong vạn vật không vật nào mà không cõng âm bồng dương. Nhân chỗ xung nhau mà hoà với nhau Chỗ ghét của người Là cô lậu, quả đức, bất thiện Thế mà bậc vua chúa lại dùng đó mà tự xưng. Vậy, Sự vật trong đời bớt là thêm, Thêm là bớt. Chỗ mà người xưa dạy, Ta nay cũng dạy: Dùng bạo động chết bạo tàn, Người nói câu đó là Thầy ta.

Chương 43: Thiên hạ chi chí nhu, Trì sính thiên hạ chi chí kiên. Vô hữu nhập vô gian. Ngô thị dĩ tri vô vi chi hữu ích. Bất ngôn chi giáo, Vô vi chi ích, Thiên hạn hi cập chi.

Chương 43: Cái rất mềm của thiên hạ, Thắng cái rất cứng trong thiên hạ. Cái không có xen vào được chỗ không thể xen vào, Do đó mà ta biết được sự lợi ích của vô vi Dạy bảo mà không cần đến lời nói, Lợi ích của vô vi, Trong thiên hạ ít ai hiểu kịp.

Chương 44: Danh dữ thân, thục thân? Thân dữ hoá, thục đa? Đắc dữ vong, thục bệnh? Thị cố, Thậm ái tất thậm phí; Đa tàng tất hậu vong. Tri túc bất nhục, Tri chỉ bất dãi, Khả dĩ trường cửu.

Chương 44: Danh và thânh, cái nào quí hơn? Thân và Của, cái nào trọng hơn? Đặng và Mất, cái nào khổ hơn? Vậy nên, Thương nhiều ắt tổn nhiều, Chứa nhiều ắt mất nhiều. Biết đủ, không nhục. Biết dừng, không nguy. Và có thể lâu dài.

Chương 45: Đại thành nhược khuyết, Kì dụng bất tệ. Đại doanh nhược xung, Kì dụng bất cùng. Đại trực nhược khuất, Đại xảo nhược chuyết. Đại biện nhược nột. Táo thắng hàn, Tịnh thắng nhiệt. Thanh tịnh vi thiên hạ chính.

Chương 45: Thành tựu mĩ mãn dường như dở dang, Thì chỗ dùng của nó không hư được. Đầy tràn dường như trống không, Thì chỗ dùng của nó vô cùng. Rất ngay thẳng dường như cong queo, Rất khéo léo dường như vụng về, Rất hùng biện dường như ấp úng. Nóng nảy thắng lạnh lẽo, Yên lặng thắng hăng hái. Thanh tịnh mới chính được thiên hạ.

Chương 46: Thiên hạ hữu Đạo, Khước tẩu mã dĩ phẩn. Thiên hạ vô Đạo, Nhung mã sinh ư giao. Hoạ hạc đại ư bất tri túc; Cữu mạc đại ư dục đắc. Cố Tri túc chi túc Thường túc hĩ

Chương 46: Thiên hạ có Đạo, Ngựa cỡi vun phân ruộng. Thiên hạ không Đạo, Ngựa chiến nuôi ngoài thành. Không hoạ nào lớn bằng không biết đủ. Không hại nào to bằng muốn đặng. Bởi vậy Biết đủ trong cái đủ mới luôn luôn đủ. Chương 47: Bất xuất hộ, tri thiên hạ. Bất khuy dữ, kiến Thiên Đạo. Kì xuất di viễn, Kì tri di thiểu. Thị dĩ thánh nhân, Bất hành nhi tri. Bất kiến nhi danh, Bất vi nhi thành.

Chương 47: Không ra khỏi cửa, biết việc thiên hạ. Không dòm ngoài cửa, thấy được Đạo Trời. Càng ra xa, Càng biết ít.  Bởi vậy thánh nhân, Không đi mà biết, Không thấy mà hiểu, Không làm mà nên.

Chương 48: Vi Học nhật ích, Vi Đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tốn, Dĩ chí ư vô vi. Vô vi nhi vô bất vi, Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự. Cập kì hữu sự bất túc dĩ Thủ thiên hạ

Chương 48: Theo học, càng ngày càng thêm, Theo Đạo, càng ngày càng bớt. Bớt rồi lại bớt, Đến mức vô vi. Không làm mà không gì là không làm, Thường dùng vô vi thì được thiên hạ, Bằng dùng hữu vi thì không đủ trị thiên hạ

Chương 49: Thánh nhân vô thường tâm, Dĩ bách tính tâm vi tâm Thiện giả ngô thiện chi Bất thiện giả ngô diệc thiện chi Đắc thiện hĩ. Tín giả ngô tín chi Bất tín giả ngô diệc tín chi Đắc tín hĩ Thánh nhân tại thiên hạ Hấp hấp vi thiên hạ hồn kì tâm Bách tính giai chú kì nhĩ mục Thánh nhân giai hài chi.

Chương 49: Lòng của Thánh nhân không phải luôn luôn không thay, Mà lấy cái lòng của trăm họ làm lòng mình. Với kẻ lành thì lấy lành mà ở Với kẻ chẳng lành cũng lấy lành mà ở, Nên được lành vậy. Với kẻ thành tín thì lấy thành tín mà ở, Với kẻ không thành tín cũng lấy thành tín mà ở, Nên được thành tín vậy. Thánh nhân lo cho thiên hạ, Mà không để lòng lộ ra. Trăm họ đều chú tai mắt. Thánh nhân xem thảy như con mình.

Chương 50: Xuất sinh nhập tử. Sinh chi đồ thập hữu tam Tử chi đồ thập hữu tam Nhân chi sinh. Động chi tử địa diệc thập hữu tam Phù hà cố? Dĩ kì sinh sinh chi hậu. Cái văn thiện nhiếp sinh giả. Lục hành bất ngộ tỉ hổ, Nhập quân bất bị giáp binh. Tỉ vô sở đầu kì giác, Hổ vô sở thố kì trảo, Binh vô sở dung kì nhẫn. Phù hà cố? Dĩ kì vô tử địa.

Chương 50: Ra sống thì vào chết. Đường của sống có mười ba; Đường của chết có mười ba; Cái sống của con người, Đi tới chỗ chết cũng có mười ba. Cớ sao vậy? Vì quả lo tận sống cái sống của mình. Ai biết cái đạo nhiếp sinh, Đi đường không gặp thú dữ. Vào trận không bị đao thương, Té không chỗ đâm, Cọp không chỗ vấu, Đao không chỗ phạm. Cớ sao vậy? Tại không có chỗ chết.

Chương 51: Đạo sinh chi, Đức súc chi. Vật hình chi, Thế thành chi. Thị dĩ vạn vật mạc bất tôn Đạo. Nhi quí Đức. Đạo chi tôn, Đức chi quí. Phù mạc chi mạng nhi thường tự nhiên Cố Đạo sinh chi Đức súc chi. Trưởng chi dục chi. Đình chi độc chi. Dưỡng chi phúc chi Sinh nhi bất hữu. Vi nhi bất thị, Trưởng nhì bất tể. Thị vị Huyền đức.

Chương 51: Đạo sinh đó, Đức nuôi đó, Chủng loại tạo hình đó, Hoàn cảnh liên kết đó. Vậy nên muôn vật đâu phải tôn Đạo quí Đức Tôn Đạo quí Đức Là một phận sự bắt buộc mà là chiều hướng tự nhiên. Thế nên Đạo sinh đó, Đức nuôi đó, Cấp dưỡng đó, nuôi nấng đó, Đùm bọc đó, bồi sức đó, Dưỡng nuôi đó, chở che đó, Sinh mà không chiếm làm của mình. Làm mà không cậy công, Là bậc trên, mà không là chủ, Đó gọi là Huyền đức.

Chương 52: Thiên hạ hữu thỉ Dĩ vi thiên hạ mẫu. Kí đắc kì mẫu Dĩ tri kì tử. Kí tri kì tử, Phục thủ kì mẫu. Một thân bất đãi. Tắc kì đoài, Bế kì môn. Chung thân bất cần. Khai kì đoài, Tế kì sự. Chung thân bất cứu. Kiến tiểu viết Minh. Thủ nhu viết Cường. Dụng kì quang, Phục qui kì minh. Vô di thân ương, Thị vi tập thường.

Chương 52: Thiên hạ có nguồn gốc, Dùng làm Mẹ của thiên hạ. Hễ giữ được Mẹ, Thì biết được Con. Đã biết được Con, Trở về giữ Mẹ. Thân đến chết không nguy Ngậm miệng lại, Lấp mắt tai, Suốt đời không lao nhọc. Mở miệng ra, Bao biện việc, Suốt đời không cứu được Thấy được chỗ tế vi là Sáng, Giữ được mềm yếu là Mạnh. Dùng cái sáng của Đạo, Trở về cõi sáng của mình. Thân không sợ tai ương. Đó gọi là Sáng gấp hai.

Chương 53: Sử ngã giới nhiên hữu tri, Hành ư đại Đạo. Duy thi thị uý. Đại Đạo thậm di, Nhi dân hiếu kính. Triều thậm trừ, Điền thậm vu. Thương thậm hư. Phục văn thái. Đới lợi kiếm. Yếm ẩm thực, Tài hoá hữu dư. Thi vị đạo khoa, Phi Đạo dã tai?

Chương 53: Nếu ta hiểu biết kha khá, Ta đi theo đường Đạo lớn. Chỉ sợ làm mà sai thôi! Đạo Lớn thì rộng và trơn tru, Dân lại thích đường hẹp và quanh co. Triều đình lộng lẫy thật, Mà ruộng nương đầy cỏ hoang, Còn kho đụn thì trống trơn. Áo quần sang trọng thật, Đeo kiếm bén, Ăn uống chán, Của cải thừa… Nhưng đó là đường của đạo tặc Đâu phải đường của đại Đạo.

Chương 54: Thiện kiến giả bất bạt, Thiện bảo giả bất thoát. Tử tôn dĩ tế tự bất chuyết Tu chi ư thân, Kì đức nãi chân. Tu chi ư gia, Kì đức nãi dư. Tu chi ư hương, Kì đức nãi trường. Tu chi ư quốc, Kì đức nãi phong. Tu chi ư thiên hạ, Kì đức nãi phổ. Cố, Dĩ thân quan thân, Dĩ gia quan gia, Dĩ hương quan hương, Dĩ quốc quan quốc, Dĩ thiên hạ quan thiên hạ. Ngô hà dĩ tri thiên hạ nhiên tai? Dĩ thử.

Chương 54: Cắm thật chặt thì không nhổ lên được. Ôm thật chặt thì không sút ra được. Con cháu tế tự không dứt. Nếu lấy Đạo mà tu thân, Thì Đức ấy chân thành. Nếu lấy Đạo mà lo việc nhà, Thì Đức ấy có dư. Nếu lấy Đạo mà lo cho hàng xóm, Thì Đức ấy mới dài. Nếu lấy Đạo mà lo cho nước, Thì Đức ấy mới thịnh. Nếu lấy Đạo mà lo cho thiên hạ, Thì Đức ấy mới rộng. Nên chi, Lấy thân mà xét thân, Lấy nhà mà xét nhà; Lấy làng mà xét làng; Lấy nước mà xét nước; Lấy thiên hạ mà xét thiên hạ. Ta làm sao biết được việc thiên hạ như thế? Thì lấy chỗ đó.

Chương 55: Hàm đức chi hậu, Tỉ ư xích tử. Độc trùng bất thích, Mãnh thú bất cứ. Cược điểu bất bác. Cốt nhược cân nhu nhi ác cố, Vị tri tẫn mẫu chi hợp nhi toàn tác. Tinh chi chí dã. Chung nhật hào nhi bất sá. Hoà chi chí dã. Tri hoà viết Thường Tri Thường viết Minh Ích sinh viết Tường Tâm sử khí viết Cường. Vật tráng tắc lão. Vị chi bất Đạo. Bất Đạo tảo dĩ.

Chương 55: Kẻ mà Đức dầy, Giống như con đỏ, Độc trùng không cắn. Thú dữ không ăn. Ác điều không xớt. Xương yếu, gân mềm, tay nắm cứng khư Chưa biếy giao hợp, Tinh khí có dư. Suốt ngày hét vang mà tiếng không khan Hoà hợp hoàn toàn Biết hoà gọi là Thường Biết Thường gọi là Minh Quá ham sống thì hại. Tâm sai khí, thì mạnh. Vật mạnh lớn thì già. Đó là nghịch Đạo, Nghịch Đạo chết sớm.

Chương 56: Tri giả bất ngôn, Ngôn giả bất tri. Tắc kì đoai, bế kì môn, Toả kì nhuệ, giải kì phân, Hoà kì quang, đồng kì trần Thị vị Huyền đồng. Cố, Bất khả đắc nhi thân, Bất khả đắc nhi sơ, Bất khả đắc nhi lợi, Bất khả đắc nhi hại, Bất khả đắc nhi quí, Bất khả đắc nhi tiện, Cố, Vi thiên hạ quí.

Chương 56: Biết thì không nói. Nói thì không biết. Thường ngậm miệng, bịt mắt tai Nhụt bén nhọn, bỏ chia phân, Hoà ánh sáng, đồng bụi bặm, Ấy gọi là Huyền đồng. Thế nên, Không thể lấy chỗ thân mà được, Không thể lấy chỗ sơ mà được, Không thể lấy chỗ lợi mà được, Không thể lấy chỗ hại mà được, Không thể lấy chỗ quí mà được, Không thể lấy chỗ tiện mà được, Vì vậy, Dưới trời không gì quí hơn.

Chương 57: Dĩ chính trị quốc, Dĩ kì dụng binh, Dĩ vô sự thủ thiên hạ Ngô hà dĩ tri kì nhiên tai? Dĩ thử: Thiên hạ đa kị huý, Nhi dân di bần. Dân đa lợi khí, Quốc gia tư hôn. Nhân đa kĩ xảo, Kì vật tư khởi. Pháp lệnh tư chương, Đạo tặc đa hữu. Cố, Thánh nhân vân: Ngã vô vi nhi dân tự hoá, Ngã hiểu tịnh nhi dân tự chính. Ngã vô sự nhi dân tự phú. Ngã vô dục nhi dân tự phác

Chương 57: Lấy ngay thẳng mà trị nước. Lấy trá nguỵ mà dụng binh. Lấy vô sự mà được thiên hạ. Ta làm sao biết được? Thì đây: Thiên hạ nhiều kiêng kị, Thì dân chúng càng nghèo, Nhân dân nhiều lợi khí, Nước nhà càng tối tăm. Người người nhiều tài khéo, Vật lạ càng nảy sinh, Pháp lệnh càng rõ rệt, Trộm cướp càng sinh nhiều. Vậy, Bậc thánh nhân mới bảo: Ta vô vi mà dân tự hoá, Ta ưa tịnh mà dân tự chính, Ta vô sự mà dân tự giầu, Ta không dục vọng mà dân trở thành chất phác.

Chương 58: Kì chính muộn muộn, Kì dân thuần thuần. Kì chính sát sát, Kì dân khuyết khuyết. Hoạ hề phúc chi sở ỷ, Phúc hề hoạ chi sở phục. Phúc tri kì cực? Kì vô chính, Chính phục vi kì, Thiện phục vi yêu. Nhân chi mê, Kì nhật cố cửu. Thị dĩ Thánh nhân, Phương nhi bất cát, Liêm nhi bất quế, Trực nhi bất tử, Quang nhi bất diệu.

Chương 58: Chính lệnh lờ mờ, Thì dân ôn hoà. Chính lệnh dòm dò, Thì dân lỗi lầm. Hoạ là chỗ dựa của phúc, Phúc là chỗ núp của hoạ. Ai biết chỗ cùng của nó? Trên mà không ngay thẳng, Thì ngay trở thành nguỵ, Thiện trở thành tà, Cái mê của người, Có đã lâu rồi. Bởi vậy bậc Thánh nhân: Để vuông vức mà không đẽo gọt, Cảm hoá người mà không tổn thương. Kéo cho ngay mà không sửa dạy. Rọi ánh sáng mà không chói loà.

Chương 59: Trị nhân sự thiên mạc nhược sắc. Phù duy sắc thị vị tảo phục. Tảo phục vị chi trọng tích đức. Trọng tích đức tắc vô bất khắc. Vô bất khắc tắc mạc tri kì cực. Mạc tri kì cực khả dĩ hữu quốc. Hữu quốc chi mẫu, Khả dĩ trường cửu. Thị vị thâm căn cố đế. Trường sinh cửu thị chi đạo.

Chương 59: Trị người, giúp trời; không chi bằng tiết kiệm Tiết kiệm phải là việc lo đầu tiên. Lấy nó làm việc lo đầu tiên thì chứa được đức Chứa được đức thì không gì là không thắng được Không ai biết được chỗ cùng cực của nó, Thì mới có thể nắm giữ được nước. Giữ được Mẹ của nước, Thì mới có thể lâu dài. Đó gọi là rễ sâu gốc bền Cái đạo trường sinh cửu thị

Chương 60: Trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên. Dĩ Đạo lị thiên hạ, Kì quỉ bất thần, Phi kì quỉ bất thần, Kì thần bất thương nhân. Phi kì thần bất thương nhân, Thánh nhân diệc bất thương nhân. Phù lưỡng bất tương thương. Cố Đức giao qui yên.

Chương 60: Trị nước lớn, khác nào nấu cá nhỏ. Lấy Đạo mà điều khiển thiên hạ, Quỉ cũng không lộ thần oai. Không phải quỉ không lộ được thần oai, Mà vì quỉ không làm hại được người, Không phải là thần không hại được người, Mà vì thánh nhân không hại người. Cả hai đều không hại người, Nên Đức của họ nối nhau về một chỗ.

Chương 61: Đại quốc giả hạ lưu, Thiên hạ chi giao, Thiên hạ chi tẫn. Tẫn thường dĩ tịnh thắng mẫu, Dĩ tịnh vi hạ. Cố, Đại quốc dĩ hạ tiểu quốc Tắc thủ tiểu quốc. Tiểu quốc dĩ hạ đại quốc Tắc thủ đại quốc. Cố, Hoặc hạ dĩ thủ Hoặc hạ nhi thủ. Đại quốc bất quá dục kiêm súc nhân. Tiểu quốc bất quá dục nhập sự nhân. Phù lưỡng giả các đắc kì sở dục. Đại giả nghi vi hạ.

Chương 61: Nước lớn mà làm chỗ thấp, Sẽ là chỗ hợp lại của thiên hạ, Là giống cái của thiên hạ. Giống cái thường lấy Tịnh mà thắng giống đực. Lấy Tịnh làm chỗ thấp. Nên Nước lớn hạ mình trước nước nhỏ ắt đặng nước nhỏ xưng thần; Nước nhỏ hạ mình trước nước lớn, ắt đặng nước lớn che chở Nên, Hoặc hạ mình để đặng, hoặc hạ mình mà đặng. Nước lớn chẳng qua muốn gồm nuôi người. Nước nhỏ chẳng qua muốn vào thờ người. Cả hai đều đặng chỗ muốn của mình. Bậc lớn nên hạ mình.

Chương 62: Đạo giả Vạn vật chi áo, Thiện nhân chi bửu, Bất thiện nhân chi sở bảo. Thiện ngôn khả dĩ thị tôn Hành khả dĩ gia nhân. Nhân chi bất thiện Hà khí chi hữu? Cố, Lập thiên tử Trí tam công Tuy hữu củng bích Dĩ tiên tứ mã Bắt như toạ tiến thử Đạo Cổ chi sở di quí thử Đạo giả hà? Bất nhật dĩ cẩu đắc Hữu tội dĩ miễn da? Cổ Vi thiên hạ quí dã.

Chương 62: Đạo là Chỗ chứa sâu kín của vạn vật. Châu báu của người lành. Chỗ nương dựa của kẻ không lành. Lời hay có thể được đắc giá. Việc hay có thể tăng giá con người. Nhưng còn kẻ không lành, Sao lại bỏ chúng? Bởi vậy, Mới lập đấng thiên tử, Mới đặt bậc tam công. Tay cầm củng bích, Ngồi xe bốn ngựa Nhưng sao bằng ngồi yên trên Đạo mà trị dân. Người xưa sở dĩ quí Đạo ấy là tại sao? Không ngày nào họ không cần cho được đó, Cho nên dù có lỗi cũng được miễn, hay sao? Vì vậy Nó là vật quí của thiên hạ.

Chương 63: Vi vô vi, Sự vô sự. Vị vô vị. Đại tiểu đa thiểu. Báo oán dĩ đức. Đồ nan ư kì dị. Vi đại ư kì tế. Thiên hạ nan sự, Tất tác ư dị. Thiên hạ đại sự, Tất tác ư tế. Thị dĩ thánh nhân, Chung bất vi đại. Cố Năng thành kì đại. Phù khinh nặc, Tất quả tín. Đa dị tất đa nan. Thị dĩ Thánh nhân do nan chi, Cố Chung vô nan hỹ.

Chương 63: Làm mà không làm, Lo mà không lo, Nếm mà không mùi. Xem lớn như nhỏ, coi nhiều như ít Lấy đức báo oán. Làm việc khó, bắt nơi chỗ dễ. Làm việc lớn, bắt nơi chỗ nhỏ. Việc khó trong đời khởi nơi chỗ dễ. Việc lớn trong đời Khởi nơi chỗ nhỏ. Bởi vậy thánh nhân, Suốt đời không làm chi lớn, Nên mới thành được việc lớn, Kẻ hứa dễ, ít tin được. Kẻ xem gì cũng dễ ắt gặp nhiều cái khó. Vậy nên Bậc thánh nhân xem việc gì cũng khó, Nên trọn đời không gặp gì khó cả.

Chương 64: Kì an dị trì, Kì vị triệu dị mưu. Kì tuý dị phán, Kì vi dị tán. Vi chi ư vị hữu. Trị chi ư vị loạn. Hạp bão chi mộc. Sinh ư hào mạt. Cửu tằng chi đài. Khởi ư luỹ thổ. Thiên lí chi hành, Thỉ ư túc hạ. Vi giả bại chi. Chấp giả thất chi. Thị dĩ thánh nhân, Vô vi cố vô bại, Vô chấp cố vô thất, Dân chi tùng sự Thường ư cơ thành nhi bại chi. Thận chung như thỉ, Tác vô bại sự. Thị dĩ thánh nhân Dục bất dục Bất quí nan đắc chi hoá; Học bất học, Phục chúng nhân chi sở quá. Dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên Nhi bất cảm vi.

Chương 64: Vật yên tịnh, dễ cầm, Chưa bày điềm, dễ lo; Vật mềm dễ tan tác; Vật nhỏ, dễ phân tán. Ngăn ngừa khi chưa hiện, Sửa trị khi chưa loạn. Cây to một ôm, Khởi sinh tại gốc nhỏ. Đài cao chính tầng, Khởi đầu nhúm đất con. Đi xa nghìn dặm, Khởi đầu một bước chân. Làm thì hư, Giữ thì mất. Bởi vậy thánh nhân, Không làm nên không hư, Không giữ, nên không mất. Người dân mà làm, Gần thành thì bại. Dè sau như trước, Ắt không hư hại. Vậy nên thánh nhân. Muốn mà không muốn. Không quí của khó được. Học mà không học, Giúp chúng nhân hối mà trở về. Giúp vạn vật sống theo tự nhiên. Mà không dám mó tay vào.

Chương 65: Cổ chi thiện vi Đạo giả, Phi dĩ minh dân, Tương dĩ ngu chi. Dân chi nan trị Dĩ kì trí đa. Cố. Dĩ trí trị quốc, Quốc tri tặc. Bất dĩ trí trị quốc, Quốc chi phúc. Tri thử lưỡng giả diệc khẻ thức. Thường tri khẻ thức, Thị vị Huyền đức. Huyền đức, thâm hĩ, viễn hĩ. Dữ vật phản hĩ, Nhiên hậu mãi chí đại thuận.

Chương 65: Đời xưa, kẻ khéo thi hành Đạo, Không làm cho dân “khôn lanh” Mà làm cho dân “thực thà” Dân mà khó trị, Vì nhiều trí mưu. Bởi vậy Lấy trí mà trị nước, Là cái vạ cho nước. Không lấy trí mà trị nước, Là cái phúc cho nước. Biết hai điều đó, là biết làm mô thức. Thường biết làm mô thức, Nên gọi là Huyền đức. Huyền đức thì sâu, thẳm. Nhân đó, muôn vật trở về. Rồi sau mới đến chỗ đại thuận.

Chương 66: Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả Dĩ kì thiện hạ chi. Cố Năng vi bách cốc vương. Thị dĩ dục thượng dân, tất dĩ ngôn hạ chi Dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi Thị dĩ thánh nhân Xử thượng nhi dân bất trọng Xử tiền nhi dân bất hại Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm Dĩ kì bất tranh Cố Thiên hạ mạc năng dữ chi tranh.

Chương 66: Sóng biển sở dĩ làm đặng Vua trăm hang. Vì nó khéo đứng dưới thấp Nên Làm vua đặng trăm hang. Vậy nên Muốn ngồi trên dân, hắn lấy lời mà hạ mình Muốn đứng trước dân, hẳn lấy mình để ra sau Vậy nên thánh nhân Ở trên dân mà không hay nặng. Ở trước dân mà dân không thấy hại. Vì thế thiên hạ không chán, lại còn đẩy tới trước Bởi vì đó không tranh, Nên thiên hạ không cùng tranh với đó được.

Chương 67: Thiên hạ giai vị ngã Đạo đại tự bất tiếu. Phù duy đại, Cố Tự bất tiếu. Nhược tiểu cửu hĩ, Kì tế dã phù! Ngã hữu tam bửu Trì nhi bảo chi: Nhất viết từ; Nhị viết kiệm; Tam viết bất cảm vi thiên hạ tiên: Từ cố năng dũng, Kiêm cố năng quảng. Bất cảm vi thiên hạ tiên, Cố năng thành khí trưởng. Kim xá từ thả dũng, Xá kiệm thả quảng. Xá hậu thả tiên Tử hĩ. Phù từ dĩ chiến tắc thắng Dĩ thủ tắc cố. Thiên tướng cứu chi, Dĩ từ vệ chi.

Chương 67: Thiên hạ đều gọi Đạo ta là lớn mà dường như không giống chi cả. Bởi nó Lớn nên Nó không giống chi cả Nhược bằng Nó giống vật chi Thì Nó đã nhỏ lâu rồi! Ta có ba vật báu, hằng nắm giữ và ôm ấp: Một là “Từ”; Hai là “Kiệm”; Ba là “Không dám đứng trước thiên hạ” Từ mới có Dũng, Kiệm mới có rộng, Không dám đứng trước thiên hạ thì được Ngôi cao Nay, nếu bỏ Từ để được Dũng, bỏ Kiệm để được Rộng, bỏ Sau để đứng trước là chết vậy Lấy Từ mà tranh đấu thì thắng; Lấy Từ mà cố thủ thì vững. Trời mà muốn cứu ai, Lấy Từ mà giúp đó.

Chương 68: Tướng giỏi không dùng vũ lực, Chiến sĩ giỏi không giận dữ. Khéo thắng địch là không tranh với đó. Khéo dùng người là hạ mình giúp đó. Đó là cái đức của sự không tranh. Đó là cái thuật của sự dùng người. Đó là hợp với chỗ cùng cực của Đạo Trời vậy.

Chương 68: Thiện vi sĩ giả bất vũ, Thiện chiến giả bất nộ. Thiện thắng địch giả bất dữ. Thiện dụng nhân giả vi chi hạ, Thị vị bất tranh chi đức. Thị vị dụng nhân chi lực. Thị vị phối thiên cổ chi cực.

Chương 69: Dụng binh hữu ngôn: Ngô bất cảm vi chủ nhi vi khách, Bất cảm tiến thốn nhi thối xích: Thị vị hành vô hành Nhương vô tí, Nhưng vô địch, Chấp vô binh. Hoạ mạc đại ư khinh địch, Khinh địch cơ táng ngô bảo Cố Kháng binh tương gia, Ai giả thắng hĩ.

Chương 69: Dụng binh có câu: Thà làm khách, hơn làm chủ. Thà thối một bước, hơn tiến một tấc. Đó gọi là: bước mà không đi tới; Nhượng mà không xăn tay; Bắt giặc mà không đối địch; Cầm giữ mà không binh khí. Không hoạ nào lớn bằng khinh địch. Khinh địch thì mất của báu. Nên hai bên giao binh, Kẻ nhường là thắng .

Chương 70: Ngô ngôn Thậm di tri, Thậm dị hành. Thiên hạ  Mạc năng tri, Mạc năng hành. Ngôn hữu tông, Sự hữu quân. Phù duy vô tri, Thi dĩ bất ngã tri. Tri ngã giả hi, Tắc ngã giả quí. Thị dĩ thánh nhân Bị hạt hoài ngọc.

Chương 70: Lời của ta Rất dễ hiểu Rất dễ làm. Thế mà thiên hạ không hay hiểu, không hay làm. Lời của ta có gốc Việc của ta có chủ. Vì thiên hạ không hiểu được cái chỗ đó, Nên không hiểu được ta. Hiểu ta, ít kẻ, Nên ta mới quí Vì vậy bậc thánh nhân Ngoài mặc bó vải, mà lòng đầy châu ngọc.

Chương 71: Tri bất tri thượng, Bất tri tri bệnh. Phù duy bệnh bệnh, Thị dĩ bất bệnh. Thánh nhân bất bệnh, Dĩ kì bệnh bệnh, Thị dĩ bất bệnh.

Chương 71: Biết mà cho là không biết, thì cao, Không biết mà cho là biết, thì bệnh. Biết đó là bệnh, Thì không bệnh nữa. Thánh nhân không bệnh, Vì biết đó bệnh, Nên không bệnh nữa.

Chương 72: Dân chi uý uy, Tắc đại uy chí. Vô hiệp kì sở cư, Vô yếm kì sở sinh. Phù duy bất yếm, Thị dĩ bất yếm. Thị dĩ thánh nhân, Tự tri bất tự kiến. Tự ái bất tự quí. Cố Khử bỉ thủ thử.

Chương 72: Dân mà không sợ cái đáng sợ, Tất cái sợ lớn phải đến. Đừng chê hẹp chỗ ở của mình, Đừng chán đời sống của mình. Vì ta không chê, Nên ta không chán. Bởi vậy thánh nhân, Biết mình mà không tự xem là sáng. Yêu mình mà không quí mình. Nên Bỏ đây mà giữ đó.

Chương 73: Dũng ư cảm tắc sát, Dũng ư bất cảm tắc hoạt. Thử lưỡng giả hoặc lợi hoặc hại. Thiên chi sở ố, Thực tri kì cố? Thị dĩ thánh nhân do nan chi. Thiên chi đạo: Bất tranh nhi thiện thắng. Bất ngôn nhi thiện ứng Bất triệu nhi tự lai Xiển nhiên thiện mưu. Thiên võng khôi khôi, Sơ nhi bất thất.

Chương 73: Cái dũng của sự dám làm thì chết, Cái dũng của sự không dám làm thì sống. Hai cái đó, hoặc có lợi, hoặc có hại. Cái chỗ ghét của Trời, Ai hay được duyên cớ? Bậc thánh cũng cấp chỗ khó đó! Đạo của Trời: Không tranh mà lại thắng; Không nói mà có kẻ nghe; Không gọi mà tự đến; Thong thả mà xong việc. Lưới trời lồng lộng Thưa mà chẳng lọt.

Chương 74: Dân bất uý tử, Nại hà dĩ tử cụ chi? Nhược sử dân thường uý tử Nhi vi kì giã Ngô đắc chấp nhi sát chi. Thục cảm? Thường hữu tư sát giả sát. Phù đại tư sát giả sát, Thị vị đại đại tượng trác. Phù đại đại tượng trác giả, Hi hữu bất thương kì thủ hĩ.

Chương 74: Dân bất uý tử, Làm sao lấy chết doạ đó. Nhược bằng khiến dân thường sợ chết. Và lại có người phạm pháp, Ta bắt được và giết đi, để không ai dám vi phạm Ai dám làm việc đó? Thường có Đấng Tư sát để mà giết. Nay ta lại thế Đó mà giết, Có khác nào thế tay thợ đẽo. Thế tay thợ đẽo Ít thấy chẳng bị đứt tay.

Chương 75: Dân chi cơ, Dĩ kì thượng thực thuế chi đa, Thị dĩ cơ. Dân chi nan trị. Dĩ kì thượng chi hữu vi. Thị dĩ nan trị. Dân chi khinh tử, Dĩ kì cầu sinh chi hậu Thị dĩ khinh tử. Phù duy vô dĩ sinh vi giả. Thị hiền ư quí sinh.

Chương 75: Dân mà đói, Là vì trên bắt thuế nhiều. Nên mới đói. Dân mà khó trị, Là vì trên dùng đạo hữu vi Nên mới khó trị. Dân mà khinh chết, Là vì trọng cầu sự sống. Nên mới khinh chết. Kẻ nào không làm gì cả để sống Ngoan hơn kẻ cố “làm” để sống

Chương 76: Nhân chi sinh dã nhu nhược. Kì tử dã kiên cường. Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thuý, Kì tử dã khô kháo; Cố Kiên cường giả, Tử chi đồ; Nhu nhược giả, Sinh chi đồ. Thị dĩ binh cường tắc bất thắng, Mộc cường tắc chiết. Cố Kiên cường xử hạ. Nhu nhược xử thượng.

Chương 76: Người khi mới sinh thì mềm yếu; Mà khi chết thì cứng và mạnh. Vạn vật cây cỏ mới sinh thì mềm dịu; Mà khi chết thì khô héo. Nên Cứng và mạnh là bạn của chết; Mềm và yếu là bạn của sống. Ấy nên binh mạnh thì không thắng; Cây mạnh thì ắt gãy. Ấy nên Cứng và mạnh ở bậc dưới Mềm và yếu ở bậc trên.

Chương 77: Thiên chi Đạo kì du trương cung dư? Cao giả ức chi, Hạ giả cử chi; Hữu dư giả tổn chi; Bất túc giả bổ chi. Thiên chi Đạo: Tổn hữu dư nhi bổ bất túc. Nhân chi đạo tắc bất nhiên: Tổn bất túc dĩ phụng hữu dư. Thục năng hữu dư dĩ phụng thiên hạ? Duy hữu Đạo giả. Thị dĩ thánh nhân; Voi nhi bất thị, Công thành nhi bất xử, Kì bất dục kiến hiền.

Chương 77: Đạo Trời ư? khác nào cây cung giương lên: Chỗ cao thì ép xuống, Chỗ thấp thì nâng lên. Có dư thì bớt đi. Không đủ thì bù vào. Đạo của Trời: Bớt chỗ dư bù chỗ thiếu Đạo của Người thì không vậy: Bớt chỗ thiếu bù chỗ dư. Ai đâu có dư để bù cho thiên hạ. Nếu không phải kẻ đã được Đạo! Bởi vậy thánh nhân: Làm mà không cậy công, Công thành rồi không ở lại, Không muốn ai thấy tài hiền của mình

Chương 78: Thiên hạ nhu nhược, Mạc quá ư thuỷ, Nhi công kiên cường giả, Mạc chỉ năng thắng. Kì vô dĩ dị chi. Nhu thắng cương, Nhược thắng cường. Thiên hạ mạc năng tri, Mạc năng hành. Thị dĩ thánh nhân vân:Thọ quốc chi cấu, Năng vi xã tắc chủ. Thọ quốc bất tường, Năng vi thiên hạ vương. Chánh ngôn nhược phản..

Chương 78: Dưới trời, mềm yếu, không chi hơn nước thắng được vật cứng không chi hơn đó được Không chi thay đó được. Mềm thắng cứng, Yếu thắng mạnh. Dưới trời không ai không biết, Nhưng không ai có thể làm được. Bởi vậy thánh nhân nói: Dám nhận lấy bụi bặm của nước, Mới có thể làm được chủ xã tắc. Dám nhận lấy sự không may của nước Mới có thể làm vua thiên hạ. Lời ngay nghe trái ngược.

Chương 79: Hoà đại oán, tất hữu dư oán, An khả dĩ vi thiện. Thị dĩ thánh nhân Chấp tả khế nhi bất trách ư nhân. Hữu đức tư khế, Vô đức tư triệt. Thiên Đạo vô thân, Thường dữ thiện nhân.

Chương 79: Hoà được oán lớn, vẫn còn oán thừa, Sao cho thế là phải? Ấy nên thánh nhân Cầm tờ hợp ước bên trái mà không trách người. Kẻ Đức thì hợp lại, Người không Đức thì phản ra. Đạo Trời không thân ai, Thường gia ân cho người lành.

Chương 80: Tiểu quốc quả dân. Sử hữu thập bách chi khí nhi bất dụng Sử dân trọng tử nhi bất viễn tỉ Tuy hữu chu dư, Vô sở thừa chi. Tuy hữu giáo binh, Vô sở trần chi. Sử dân phục kiết thằng nhi dụng chi. Cam kì thực, Mĩ kì phục, An kì cư, Lạc kì tục. Lân quốc tương vọng, Kê khuyển chi thinh tương văn, Dân chi lão tử bất tương vãng lai.

Chương 80: Nước nhỏ, dân ít, Dù có mười hay trăm thứ binh khí, cũng không cho dùng đến Khiến cho dân sợ chết, mà không đi xa. Tuy có thuyền xe, Không chỗ ngồi lên. Tuy có giáp binh, Cũng không cho dùng đến.Khiến dân dùng lại cách gút dây. Ăn món ngon của nơi đó, Mặc đồ đẹp của nơi đó, Yêu nơi mình ở đó, Vui với phong tục của đó. Nước gần cùng trông nhau, Tiếng gà chó cùng nghe chung, Dân đến già, chết không qua lại nhau.

Chương 81: Tín ngôn bất mĩ, Mĩ ngôn bất tín. Thiện giả bất biện. Biện giả bất thiện. Tri giả bất bác, Bác giả bất tri. Thánh nhân bất tích, Kí dĩ vi nhân kỉ dũ hữu. Kí dĩ dữ nhân kỉ dũ đa. Thiên chi Đạo, lợi nhi bất hại. Thánh nhân chi Đạo, vi nhi bất tranh.

Chương 81: Lời thành thực không đẹp, Lời đẹp không thành thực. Người thiện không tranh biện, Người tranh biện không thiện. Người trí không học rộng, Người học rộng không trí Bậc thánh nhân không thu giữ, Càng vì người, mình càng thêm có, Càng cho người, mình càng thêm nhiều. Đạo của Trời, lợi mà không hại. Đạo của Thánh nhân, làm mà không tranh.

II. ĐẠO ĐỨC KINH Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

Chương 1: 1. Đạo khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh.

2. Vô danh thiên địa chi thủy; Hữu danh vạn vật chi mẫu.

3. Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu; Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu.

4.  Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền. Chúng diệu chi môn.

Dịch xuôi:

1. Đạo (mà) có thể gọi được, không phải là Đạo thường (hằng cửu). Tên mà có thể gọi được, không (còn) phải là tên thường (hằng cửu).

2. Không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật.

3. Cho nên thường không có dục để nhìn thấy chỗ vi diệu của mình. Thường có dục, để nhìn thấy chỗ giới hạn (công dụng) [2] của mình.

4. Hai cái đó cùng một nguồn gốc, nhưng tên khác nhau, đều gọi là Huyền nhiệm. (Cái) tối ư huyền nhiệm ấy chính là cửa phát sinh ra mọi điều huyền diệu.

Chương 2: Phiên âm:

1. Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình,[1] cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy.

2. Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo. [2]

3. Vạn vật tác yên nhi bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị,[3] công thành nhi phất cư.

4. Phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ. [4]

Dịch xuôi:

1. Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, thế là xấu vậy; đều biết tốt là tốt thế là không tốt vậy, bởi vì có không sinh ra nhau dễ khó thành tựu lẫn nhau, ngắn dài tạo thành lẫn nhau, trên dưới lộn lạo ra nhau, thanh âm hòa hợp với nhau, sau trước theo nhau.

2. Cho nên thánh nhân dùng Vô vi mà xử sự, dùng «vô ngôn» mà dạy dỗ.

3. Vạn vật hoạt động mà vẫn im lìm; sống động mà không (đòi quyền) sở hữu; lao tác mà không cậy công; công thành mà không lưu luyến.

4. Không lưu luyến nên mới không mất.

Chương 3: Phiên âm:

1.  Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quí nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn.

2. Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc,[1] nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri vô dục. [2] Sở phù trí giả bất cảm vi dã.

3. Vi vô vi, tắc vô bất trị.

Dịch xuôi:

1. Không sùng thượng hiền tài, khiến cho dân không tranh. Không quí của khó được, khiến cho dân không trộm cướp. Không phô trương những gì kích thích lòng ham muốn, khiến cho lòng dân không loạn.

2. Vì vậy phép trị nước của thánh nhân là làm cho dân: Trống lòng; No dạ; Yếu chí; Mạnh xương. Thường khiến cho dân không biết, không ham. Khiến cho kẻ trí không dám làm gì cả.

3. Làm theo phép Vô vi, thời không gì là không trị.

Chương 4: Phiên âm:

1. Đạo xung [1] nhi dụng chi hoặc [2] bất doanh. [3]

2. Uyên [4] hề tự vạn vật chi tông. [5]

3. Tỏa [6] kỳ nhuệ,[7] giải kỳ phân,[8] hòa kỳ quang, đồng kỳ trần.

4. Trạm hề [9] tự hoặc tồn. [10]

5. Ngô bất tri thùy chi tử. Tượng [11] đế chi tiên. [12]

Dịch xuôi:

1. Đạo rỗng không mà dùng không hết.

2. Đạo sâu xa man mác tựa hồ như là tổ tông vạn vật.

3. Làm nhụt bén nhọn, tháo gỡ rối rắm, pha trộn ánh sáng, hòa mình cùng bụi rậm.

4. Trong trẻo thay, tựa hồ trường tồn.

5. Ta không biết Đạo con ai; hình như có trước Thiên đế.

Chương 5: Phiên âm:

1. Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. [1]

2. Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.

3. Thiên địa chi gian,[2] kỳ do thác thược [3] hồ.

4. Hư nhi bất khuất,[4] động chi dũ xuất.

5. Đa ngôn số cùng, bất như thủ trung. [5]

Dịch xuôi:

1. Trời đất không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm.

2. Thánh nhân không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm.

3. Khoảng trời đất giống như ống bễ. Trống không mà không hao kiệt, càng động, hơi càng ra.

4. Nói nhiều cũng chẳng hết, thà giữ lấy Trung.

Chương 6: Phiên âm:

1. Cốc thần [1] bất tử thị vị Huyền tẫn. [2]

2. Huyền tẫn chi môn thị vị thiên địa căn.

3. Miên miên [3] nhược tồn. Dụng chi bất cần. [4]

Dịch xuôi:

1. Cốc thần bất tử, đó là Huyền tẫn.

2. Cửa Huyền tẫn chính là gốc rễ trời đất.

3. Miên man trường tồn, dùng không bao giờ hết.

Chương 7: Phiên âm:

1. Thiên trường, địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kỳ bất tự sinh, cố năng trường sinh.

2. Thị dĩ thánh nhân, hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn.

3. Phi dĩ kỳ vô tư da? Cố năng thành kỳ tư.

Dịch xuôi:

Trời dài, đất lâu. Trời đất sở dĩ dài lâu chính vì không sống cho mình, vì thế nên trường sinh.

Vì vậy thánh nhân để thân ra sau mà thân ở trước; để thân ra ngoài mà thân còn.

Phải chăng vì không riêng tây, nên vẫn thành được cái riêng tây?

Chương 8: Phiên âm:

Thượng thiện nhược thủy.

Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ [2] ư Đạo.

Cư thiện [3] địa, tâm thiện uyên, dữ [4] thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời.

Phù duy bất tranh, cố vô vưu. [5]

Dịch xuôi:

Bậc trọn lành giống như nước.

Nước khéo làm ích cho muôn loài mà không tranh giành, ở chỗ mọi người đều ghét, cho nên gần Đạo.

Ở thì lựa nơi chốn; tâm hồn thời thâm trầm sâu sắc; giao tiếp với người một mực nhân ái; nói năng thành tín; lâm chính thời trị bình; làm việc thời có khả năng; hoạt động cư xử hợp thời.

Chính vì không tranh, nên không ai chê trách oán thán.

Chương 9: Phiên âm:

1. Trì [2] nhi doanh [3] chi bất như kỳ dĩ.[4]

2. Sủy [5] nhi nhuệ [6] chi bất khả trường bảo.

3. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ.

4. Phú quí nhi kiêu, tự di [7] kỳ cữu.[8]

5. Công thành, danh toại, thân thoái,[9] thiên chi đạo.

Dịch xuôi:

1. Giữ mà làm cho đầy mãi, không bằng dừng lại.

2. Mài cho nhọn, cho sắc không giữ được lâu.

3. Vàng ngọc đầy nhà, chẳng thể giữ được.

4. Giàu sang mà kiêu căng, sẽ tự vời tai họa.

5. Thành công, thành danh rồi thời nên lui thân, ấy là đạo Trời.

Chương 10: Phiên âm:

1. Tải doanh phách[1] bão nhất[2] năng vô ly hồ?

2. Chuyên khí trí nhu,[3] năng anh nhi[4] hồ?

3. Dịch [5] trừ [6] huyền lãm,[7] năng vô tì hồ? [8]

4. Ái dân trị quốc năng vô vi hồ? [9]

5. Thiên môn khai hạp, năng vô thư hồ? [10]

6. Minh bạch tứ đạt năng vô tri hồ? [11]

7. Sinh nhi súc chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng chi bất tể, thị vị huyền đức.[12]

Dịch xuôi:

Năng vi (Làm được không?)

1. Có thể đem hồn phách ôm ấp lấy Đạo, không lìa xa chăng?

2. Có thể giữ cho nguyên khí không tán loạn, giữ vẹn thiên chân, hoàn toàn theo được đạo Trời, (định luật trời đất) như anh nhi chăng?

3. Có thể tẩy trừ được (trần cấu), giữ được cho gương lòng trong sáng không tì vết chăng?

4. Có thể yêu dân trị nước, mà vẫn vô vi chăng?

5. Cơ trời mở đóng, có thể thuận ứng như con mái chăng?

6. Có thể sáng suốt mà như người vô tri chăng?

7. Sinh dưỡng vạn vật; sống mà vẫn như không có; làm mà không cậy công; khiến cho lớn mà không đòi làm chủ, thế là đức sâu xa vậy.

Chương 11: Phiên âm:

1. Tam thập phúc,[1] cộng nhất cốc.[2] Đương kỳ vô, hữu xa chi dụng.

2. Duyên [3] thực [4] dĩ vi khí. Đương kỳ vô, hữu khí chi dụng.

3. Tạc hộ [5] dũ [6] dĩ vi thất. Đương kỳ vô, hữu thất chi dụng.

4. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng.[7]

Dịch xuôi:

1. Ba chục căm, hợp lại một bầu. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của xe.

2. Nhào đất để làm chén bát. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của chén bát.

3. Đục cửa lớn, cửa sổ để làm nhà; nhờ có chỗ trống không, mới có cái dùng của nhà.

4. Cho nên lấy cái «có» để làm cái lợi, lấy cái «không» để làm cái dụng.

Chương 12: Phiên âm:

1. Ngũ sắc lịnh [1] nhân mục manh.[2] Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung.[3] Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng.[4] Trì sính [5] điền liệp [6] lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa, lịnh nhân hành phương.[7]

2. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục. Cố khứ bỉ thủ thử.

Dịch xuôi:

1. Năm màu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của cải khó được, khiến người bị tai hại.

2. Bởi vậy, thánh nhân vì bụng không vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.

Chương 13: Phiên âm:

1. Sủng nhục nhược [1] kinh. (Quí) [2] đại hoạn nhược* thân.

2. Hà vị sủng nhục nhược* kinh. Sủng vi (thượng, nhục vi) hạ. [3] Đắc chi nhược* kinh, Thất chi nhược* kinh.

3. Hà vị (quí) [4] đại hoạn nhược* thân. Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?

4. Cố quí dĩ thân vi thiên hạ, nhược [5] khả ký thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược* khả thác thiên hạ.

Dịch xuôi:

1. Vinh, nhục cũng làm lo âu. Sở dĩ hoạn nạn là vì có thân.

2. Tại sao vinh, nhục đều làm lo âu? Vinh là ở ngôi cao, nhục là ở địa vị thấp. Được cũng lo, mất cũng lo. Vì thế nên nói: Vinh nhục đều lo.

3. Tại sao nói: «Hoạn nạn là vì có thân?» Ta sở dĩ phải lo âu nhiều, chính vì ta có thân. Nếu không có thân, ta đâu có lo !

4. Cho nên ai quí thiên hạ hơn thân mình, thì có thể đem thiên hạ giao phó cho, ai yêu thiên hạ hơn thân mình, thì có thể gửi gắm thiên hạ cho họ được.[6]

Chương 14: Phiên âm:

1. Thị chi bất kiến, danh viết Di. Thính chi bất văn, danh viết Hi. Bác chi bất đắc, danh viết Vi. Thử tam giả bất khả trí cật. [1] Cố hỗn nhi vi nhất.

2. Kỳ thượng bất kiểu. [2] Kỳ hạ bất muội. Thằng thằng [3] bất khả danh, phục qui ư vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng. Thị vị bất hốt hoảng, nghinh chi bất kiến kỳ thủ. Tùy chi bất kiến kỳ hậu.

3. Chấp cổ chi đạo, dĩ ngự kim chi hữu. Năng tri cổ thủy, Thị vị đạo kỷ.[4]

Dịch xuôi:

1. Nhìn không thấy, gọi là Di. Nghe không thấy, gọi là Hi. Nắm không được, gọi là Vi. Ba điều ấy không thể suy cứu đến cùng. Cho nên hợp lại làm một.

2. Trên nó không sáng. Dưới nó không mờ. Miên man dằng dặc mà không thể đặt tên. Rồi lại trở về chỗ không có gì. Đó là trạng thái của cái không trạng thái. Hình tượng của cái không có vật chất. Cái có hoảng hốt, đón trước không thấy đầu, theo sau không thấy đuôi.

3. Giữ cái Đạo xưa để trị chuyện nay; biết cái đầu mối của thời xưa, ấy là nắm được giềng mối đạo.

Chương 15: Phiên âm:

1. Cổ chi thiện vi sĩ [1] giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức, cố cưỡng vi chi dung.

2. Dự [2] yên nhược đông thiệp xuyên. Do [3] hề nhược úy tứ lân. Nghiễm [4] hề kỳ nhược khách.[5] Hoán hề nhược băng chi tương thích. Đôn hề kỳ nhược phác.[6] Khoáng [7] hề kỳ nhược cốc. Hỗn hề kỳ nhược trọc.

3. Thục năng trọc dĩ chỉ, tĩnh nhi từ thanh. Thục dĩ [8] an dĩ cửu động nhi từ sinh.[9]

4. Bảo thử Đạo giả bất dục doanh. Phù duy bất doanh cố năng tế,[10] bất tân thành.[11]

Dịch xuôi:

1. Bậc hoàn thiện xưa siêu vi, huyền diệu, thâm thúy, thông suốt; thâm thúy khôn lường. Vì khó lường nên gượng tả hình dung.

2. Các ngài thận trọng như mùa đông đi qua sông; các ngài e dè sợ láng giềng bốn bên; kính cẩn như khách; lạnh lùng như băng tan; mộc mạc chất phác như chưa đẽo gọt; man mác như hang núi; hỗn mang như nước đục.

3. Ai có thể đục mà nhờ tĩnh lại dần dần trong. Ai có thể yên mà nhờ động lại dần dần linh hoạt.

4. Kẻ giữ đạo không muốn đầy. Chỉ vì không muốn đầy, nên mới che dấu và chẳng đổi mới.

Chương 16: Phiên âm:

1. Trí hư cực, thủ tĩnh đốc.

2. Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan kỳ phục.[1] Phù vật vân vân, các qui kỳ căn. [2]

3. Qui căn viết tĩnh. Tĩnh viết phục mạng.[3] Phục mạng viết thường.

4. Tri thường viết minh. Bất tri thường, vọng tác, hung.[4]

5. Tri thường dung. Dung nãi công. Công nãi vương.[5] Vương nãi thiên. Thiên nãi Đạo. Đạo nãi cửu.[6] Một [7] thân bất đãi.[8]

Dịch xuôi:

1. Hư không cùng cực, hết sức yên tĩnh.

2. Vạn vật đua sống, ta nhân đó xem chúng trở về (nguồn). Vạn vật trùng trùng đều trở về cội.

3. Trở về cội rễ là tĩnh; tĩnh là phục mệnh; phục mệnh tức là trường cửu.

4. Biết «trường cửu» mới là sáng suốt. Không biết trường cửu sẽ làm càn và gây hung họa.

5. Biết «trường cửu» sẽ thung dung như công hầu vương tước, sẽ hợp với Trời với Đạo. Hợp Đạo rồi sẽ cửu trường: thân có mất đi, cũng chẳng nguy hại gì.[9]

Chương 17: Phiên âm:

1. Thái thượng,[1] hạ [2] tri hữu chi.

2. Kỳ thứ, thân nhi dự chi.

3. Kỳ thứ, úy chi.

4. Kỳ thứ, vũ chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên.

5. Du hề,[3] kỳ quí ngôn. Công thành, sự toại, bách tính vị ngã tự nhiên.

Dịch xuôi:

1. Thánh quân thời cổ xưa (cai trị), dân ở dưới không biết rằng có.

2. Bậc dưới, họ thân và ngợi khen. Bậc dưới nữa họ sợ. Bậc dưới nữa, họ khinh. Vì không đủ tin, nên dân không tin.

3. Bậc thánh xưa quí lời nói. Công việc xong xuôi, mà dân đều bảo rằng: «Tự nhiên bởi ta.»

Chương 18: Phiên âm:

1. Đại Đạo phế,[1] hữu nhân nghĩa.

Trí tuệ [2] xuất, hữu đại ngụy.

2. Lục thân [3] bất hòa, hữu hiếu từ.

3. Quốc gia hôn loạn, hữu trung thần.[4]

Dịch xuôi:

1. Đại đạo mất mới có nhân nghĩa,

Trí tuệ sinh mới có dối trá lớn.

2. Lục thân bất hòa, nên có kẻ thảo người lành.

3. Quốc gia rối loạn mới có trung thần.

Chương 19: Phiên âm:

1. Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội. [1]

2. Tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ. [2]

3. Tuyệt [3] xảo khí [4] lợi, đạo tặc vô hữu.

4. Thử tam giả dĩ vi văn,[5] bất túc. [6]

5. Cố lệnh hữu sở thuộc. [7] Kiến [8] tố bão phác. Thiểu tư quả dục.

Dịch xuôi:

1. Dứt thánh bỏ trí, dân lợi gấp trăm.

2. Dứt thân bỏ nghĩa dân lại thảo lành.

3. Dứt khéo, bỏ lợi, không có trộm cướp.

4. Ba điều đó hào nhoáng bên ngoài, chẳng đủ vào đâu.

5. Phải chú trọng điều này: Giữ vẹn tinh anh, chất phác: ít riêng tây, ít ham muốn.

Chương 20: Phiên âm:

1. Tuyệt học vô ưu. Duy [1] chi dự a,[2] tương khứ kỷ hà.[3]

Thiện chi dữ ác tương khứ nhược hà.[4]

2. Nhân chi sở úy, bất khả bất úy. Hoang [5] hề kỳ vị ương tai.[6]

3. Chúng nhân hi hi [7] như hưởng thái lao,[8] như đăng xuân đài.

4. Ngã độc bạc [9] hề kỳ vị triệu, như anh nhi chi vị hài.[10] Luy luy [11] hề nhược vô sở qui.

5. Chúng nhân giai hữu dư, nhi ngã độc nhược di.[12] Ngã ngu [13] nhân chi tâm dã tai. Độn độn hề [14] chúng nhân [15] chiêu chiêu,[16] ngã độc hôn hôn.[17] Chúng nhân[18] sát sát,[19] ngã độc muộn muộn.[20] Đạm [21] hề kỳ nhược hải.[22] Liêu [23] hề nhược vô chỉ.[24] Chúng nhân giai hữu dĩ [25] nhi ngã ngoan [26] thả bỉ.[27]

6. Ngã độc dị ư nhân, nhi quí thực mẫu.

Chương 21: Phiên âm:

1. Khổng đức chi dung, duy Đạo thị tùng.[1]

2. Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt. Hốt hề, hoảng hề, kỳ trung hữu tượng. Hoảng hề, hốt hề kỳ trung hữu vật; ảo hề minh hề, kỳ trung hữu tinh. Kỳ tinh thậm chân, kỳ trung hữu tín.

3. Tự cổ cập kim, kỳ danh bất khứ, dĩ duyệt chúng phủ.[2]

4. Ngô hà dĩ trị chúng phủ chi trạng tai, dĩ thử.

Dịch xuôi:

1. Dung nghi của bậc Đại đức, khuôn theo Đạo.

2. Đạo sinh ra muôn vật, hoảng hoảng hốt hốt nhưng trong vẫn có hình ảnh của Đạo. Hoảng hoảng hốt hốt nhưng trong vẫn có bản thể (của Đạo). Mờ mịt nhưng trong vẫn có tinh hoa (của Đạo). Tinh hoa ấy rất chân thực; trong lại có tín.

3. Từ xưa đến nay, tên ngài vẫn đó, để bẩm sinh ra muôn vật.

4. Ta làm sao biết được hình trạng đầu gốc muôn vật? Nhờ vậy !

Chương 22: Phiên âm:

1. Khúc tắc toàn; uổng tắc trực; hóa tắc doanh; tệ tắc tân; thiểu tắc đắc; đa tắc hoặc.

2. Thị dĩ thánh nhân bão Nhất, vi thiên hạ thức. Bất tự hiện, cố minh. Bất tự thị, cố chương. Bất tự phạt cố hữu công. Bất tự căng, cố trưởng.

3. Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh.

4. Cổ chi sở vị «khúc tắc toàn giả», khởi hư ngôn tai. Thành toàn nhi qui chi.

Dịch xuôi:

1. Cái gì khiếm khuyết, thì làm cho nên toàn vẹn. Cái gì cong, thì làm cho ngay. Cái gì trũng thì làm cho đầy. Cái gì cũ thì làm cho nên mới. Ít thì lại được, nhiều thời lại mê.

2. Cho nên thánh nhân ôm giữ cái Một (Đạo), để làm mẫu mực cho thiên hạ. Không phô trương, cho nên sáng; không tự cho mình là phải, cho nên hiển dương; không kể công, nên có công; không khoe mình, cho nên hơn người.

3. Vì không tranh giành, cho nên thiên hạ không ai tranh dành với mình. Câu nói của người xưa: «Cái gì khiếm khuyết, thì làm cho nên toàn vẹn», há phải là câu nói suông? Vẹn toàn rồi sẽ trở về với Đạo.

Chương 23: Phiên âm:

1. Hi ngôn tự nhiên.

2. Phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật. Thục vi thử giả, thiên địa. Thiên địa thượng bất năng cửu, nhi huống ư nhân hồ.

3. Cố tòng sự ư Đạo giả. Đạo giả đồng ư Đạo. Đức giả đồng ư Đức. Thất giả đồng ư thất. Đồng ư Đạo giả, Đạo diệc lạc đắc chi. Đồng ư Đức giả, Đức diệc lạc đắc chi; đồng ư thất giả, thất diệc lạc đắc chi. [1]

4. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên.

Dịch xuôi:

1. Ít nói, (sống) tự nhiên,

2. Vì gió lốc không suốt sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm những chuyện ấy? Trời, Đất. Trời Đất còn không thể lâu, huống nữa người.

3. Cho nên theo Đạo thì đồng với Đạo. Theo Đức thì đồng với Đức. Theo mất thì đồng với mất. Đồng với Đạo, đạo vui tiếp đó. Đồng với Đức, Đức vui tiếp đó. Đồng với thất, thất vui tiếp đó.

4. Tin không đủ. Có sự không tin.

Chương 24: Phiên âm:

1. Khí [1] giả bất lập, khóa [2] giả bất hành. Tự hiện giả bất minh; tự thị giả bất chương; tự phạt giả vô công; tự căng giả bất trường.

2. Kỳ ư Đạo dã,[3] viết dư thực chuế [4] hành, vật hoặc ố chi. Cố hữu Đạo giả bất xử.

Dịch xuôi:

1. Kiễng chân lên, không đứng thẳng được. Xoạc cẳng ra không đi được. Tự coi là sáng, nên không sáng. Tự xem là phải, nên không hiển dương. Tự kể công, nên không có công. Tự khoe mình, nên không hơn người.

2. Đứng về phương diện Đạo mà nói, thì đó là những «đồ thừa việc thải». Cho nên người có Đạo không thiết.

Chương 25: Phiên âm:

1. Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất cải. Chu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi thiên hạ mẫu.

2. Ngô bất tri kỳ danh; tự chi viết Đạo, cưỡng vi chi danh viết Đại. Đại viết thệ. Thệ viết viễn. Viễn viết phản.

3. Cố Đạo đại, thiên đại, địa đại, vương diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi vương cư kỳ nhất yên. Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên.

Dịch xuôi:

1. Có một vật hỗn độn mà nên, sinh trước trời đất; yên lặng, trống không; đứng một mình mà chẳng thay; đi khắp nơi mà không mỏi. Có thể làm mẹ thiên hạ.

2. Ta không biết tên, đặt tên chữ đó là Đạo. Gượng gọi tên đó là Lớn. Lớn là đi, đi là xa; xa là trở lại.

3. Cho nên Đạo lớn, Trời lớn, Đất lớn. Người cũng lớn. Trong đời có bốn thứ lớn, mà Người là một. Người bắt chước Đất, Đất bắt chước Trời; Trời bắt chước Đạo; Đạo bắt chước tự nhiên.

Chương 26: Phiên âm:

1. Trọng vi khinh căn. Tĩnh vi táo quân.

2. Thị dĩ thánh nhân[1] chung nhật hành bất ly tri trọng.[2] Tuy hữu vinh quan,[3] yến xử [4] siêu nhiên.[5]

3. Nại hà [6] vạn thặng [7] chi chủ, nhi dĩ thân khinh thiên hạ. Khinh tắc thất căn [8], táo tắc thất quân.

Dịch xuôi:

1. Nặng là gốc của nhẹ. Tĩnh là chủ của xao động.

2. Cho nên thánh nhân suốt ngày rong ruổi, mà không bỏ mất sự trang trọng, yên tĩnh. [9] Tuy sống trong vinh hoa, mà lòng vẫn thung dung sống vượt lên trên.

3. Tại sao vua một nước có muôn cỗ xe lại đem thân coi nhẹ thiên hạ. Nhẹ ắt mất gốc, xao động ắt mất chủ.

Chương 27: Phiên âm:

1. Thiện hành vô triệt tích. Thiện ngôn vô hà trích. Thiện số bất dụng trù sách. Thiện bế vô quan kiện nhi bất khả khai. Thiện kết vô thằng ước, nhi bất khả giải.

2. Thị dĩ thánh nhân, thường thiện cứu nhân, cố vô khí nhân; thường thiện cứu vật cố vô khí vật.

3. Thị vi tập minh. Cố thiện nhân bất thiện nhân chi sư, bất thiện nhân, thiện nhân chi tư. Bất quí kỳ sư, bất ái kỳ tư, tuy trí đại mê, thị vị yếu diệu.

Dịch xuôi:

1. Đi khéo không để vết chân. Nói khéo không có lỗi lầm. Đếm khéo không dùng thẻ. Đóng khéo không róng, chốt mà không mở được. Thắt khéo, không dây rợ mà không cởi được.

2. Cho nên thánh nhân thường khéo cứu người, nên không có ai bị bỏ; thường khéo cứu vật nên không có vật nào bị bỏ. Thế gọi là sáng gấp đôi.

3. Cho nên người hay là thày kẻ dở. Kẻ dở giúp người hay. Không quí người hay, không yêu kẻ dở, dẫu là bậc trí, cũng mê lầm. Sự mầu nhiệm cốt yếu là ở chỗ đó.

Chương 28: Phiên âm:

1. Tri kỳ hùng, thủ kỳ thư, vi thiên hạ khê; thường đức bất ly, phục qui anh nhi.

2. Tri kỳ bạch, thủ kỳ hắc, vi thiên hạ thức.[1] Thường đức bất thắc,[2] phục qui ư vô cực.

3. Tri kỳ vinh, thủ kỳ nhục, vi thiên hạ cốc. Vi thiên hạ cốc, thường đức nãi túc. Phục qui ư phác.

4. Phác tán tắc vi khí; thánh nhân dụng chi, tắc vi quan trưởng. Cố đại chế bất cát.

Dịch xuôi:

1. Biết sống, giữ mái, làm khe lạch cho thiên hạ. Làm khe lạch cho thiên hạ không lìa «thường đức», trở về trạng thái anh nhi.

2. Biết trắng, giữ đen, làm phép tắc cho thiên hạ. Làm phép tắc cho thiên hạ, không sai «thường đức», trở về vô cực.

3. Biết vinh, giữ nhục, làm hang sâu cho thiên hạ. Làm hang sâu cho thiên hạ, đầy đủ «đức hằng», trở về mộc mạc.

4. Mộc mạc tán thời thành đồ dùng. Thánh nhân được dùng, làm quan trên; cho nên phép lớn không chia cắt.[3]

Chương 29: Phiên âm:

1. Tương dục thủ thiên hạ nhi vi chi, ngô kiến kỳ bất đắc dĩ. Thiên hạ thần khí, bất khả vi dã. Vi giả bại chi, chấp giả thất chi.

2. Cố vật hoặc hành, hoặc tùy, hoặc hư,[1] hoặc xuy,[2] hoặc cường,[3] hoặc luy,[4] hoặc tỏa,[5] hoặc huy.[6]

3. Thị dĩ thánh nhân khứ thậm, khứ xa, khứ thái.

Dịch xuôi:

1. Muốn đem thiên hạ mà làm (theo ý mình) ta thấy không thể được. Thiên hạ là đồ vật linh thiêng, không thể làm (theo ý mình). Hễ làm thì hỏng, hễ giữ thì mất.

2. Cho nên vật hoặc đi hoặc theo hoặc hà hơi, hoặc thổi, hoặc mạnh hoặc yếu; hoặc bền vững hoặc mong manh.

3. Cho nên thánh nhân chỉ ngăn sự thái quá, sự xa xỉ, sự tham lam.

Chương 30: Phiên âm:

1. Dĩ Đạo tác [1] nhân chủ giả bất dĩ binh cưỡng thiên hạ. Kỳ sự hiếu hoàn. Sư chi sở xử, kinh cức sinh yên. Đại quân chi hậu, tất hữu hung niên.

2. Cố thiện giả quả [2] nhi dĩ; bất cảm dĩ thủ cường; quả nhi vật căng; quả nhi vật phạt; quả nhi vật kiêu; quả nhi bất đắc dĩ; quả nhi vật cường.

3. Vật tráng tắc Lão, thị vị phi Đạo, phi Đạo tảo dĩ.[3]

Dịch xuôi:

1. Ai coi Đạo là vua (thiên hạ) không dùng binh mà bức thiên hạ. Chiến tranh có vay có trả Chỗ quân sĩ đóng, gai góc sẽ sinh. Sau trận chiến lớn, ắt có những năm tai ương.

2. Cho nên người khéo sẽ giải quyết (trận chiến) một cách mau lẹ, mà không ỷ sức mạnh; giải quyết mau lẹ mà không khoe khoang; giải quyết mau lẹ mà không tự khen; giải quyết mau lẹ mà không kiêu căng; giải quyết mau lẹ vì bất đắc dĩ; giải quyết mau lẹ mà không muốn trở nên mạnh mẽ.

3. Vật lớn mạnh ắt già; Như vậy là trái Đạo; trái Đạo sẽ mất sớm.

Chương 31: Phiên âm:

1. Phù giai [2] binh giả bất tường chi khí, vật hoặc ố chi. Cố hữu Đạo giả bất xử.

2. Quân tử cư đắc quí tả, dụng binh tắc quí hữu. Binh giả bất tường [3] chi khí, phi quân tử chi khí. Bất đắc dĩ nhi dụng chi. Điềm đạm vi thượng. Thắng nhi bất mỹ [4]. Nhi mỹ chi giả, thị lạc sát nhân. Phù lạc sát nhân giả, tắc bất khả dĩ đắc chí ư thiên hạ hĩ.

3. Cát sự [5] thượng [6] tả. Hung sự thượng hữu. Thiên tướng quân [7] cư tả. Thượng tướng quân cư hữu. Ngôn dĩ tang lễ [8] xử chi. Sát nhân chi chúng, dĩ ai bi [9] khảo chi. Chiến thắng dĩ tang lễ xử chi.

Dịch xuôi:

1. Binh đao là vật bất tường, ai cũng ghét; cho nên người có Đạo chẳng (thích) dùng.

2. (Khi bình thời) vị quốc quân trọng (ai thì mới đứng về) bên trái; (lúc chiến tranh) (muốn) trọng (võ tướng thì lại mời đứng ở) bên trái. Binh đao là vật bất tường; quân tử chẳng nên dùng nó. Bất đắc dĩ mới phải dùng. Người quân tử ưa sống điềm đạm. Thắng không có mừng. Mừng vì thắng hẳn là tâm địa kẻ thích giết người. Thích giết người không thể cai trị thiên hạ.

3. (Theo nghi lễ) lành ở bên trái, dữ ở bên phải. Phó tướng ở bên trái, thượng tướng ở bên phải. Đó là nghi tiết dùng trong tang lễ. Kẻ giết người, phải khóc lóc xót thương (những người oan khuất). Kẻ chiến thắng phải đứng làm chủ tang.[10]

Chương 32: Phiên âm:

1. Đạo thường vô danh. Phác tuy tiểu, thiên hạ bất cảm thần. Hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự tân. Thiên địa tương hợp, dĩ giáng cam lộ, dân mạc chi lệnh, nhi tự quân.[1]

2. Thủy chế hữu danh, danh diệc ký hữu. Phù diệc tương tri chỉ; [2] tri chỉ khả bất đãi. [3] Thí Đạo chi tại thiên hạ; do xuyên cốc chi ư giang hải.

Dịch xuôi:

1. Đạo thường không tên, mộc mạc. Tuy nhỏ, dưới trời không ai bắt được nó phải thuần phục. Nếu bậc vương hầu giữ được nó, vạn vật sẽ thuần phục; trời đất hòa hợp làm cho móc ngọt rơi xuống. Dân không phải sai khiến, mà chia đều nhau.

2. Bắt đầu phân chia, mới có tên. Đã có tên phải biết chốn dừng. Biết chốn dừng mới không hại. Đạo sánh với thiên hạ, như suối khe với sông biển.

Chương 33: Phiên âm:

1. Tri nhân giả trí, tự tri giả minh. Thắng nhân giả hữu lực,[1] tự thắng giả cường. Tri túc giả phú, cường hành giả hữu chí.[2]

2. Bất thất kỳ sở giả cửu.[3] Tử nhi bất vong giả thọ.[4]

Dịch xuôi:

1. Biết người là khôn. Biết mình là sáng. Thắng người là kẻ có sức; tự thắng là kẻ mạnh. Biết «tri túc» là giàu; cố gắng là người có chí.

2. Không đánh mất điểm tựa sẽ vững bền. Chết mà không hết, thế là thọ.

Chương 34: Phiên âm:

1. Đại Đạo phiếm[1] hề, kỳ khả tả hữu. Vạn vật thị chi nhi sinh nhi [2] bất tử. Công thành bất danh hữu.[3] Ái dưỡng [4] vạn vật nhi bất vi chủ. Thường vô dục khả danh ư tiểu, vạn vật qui chi nhi bất vi chủ, khả danh ư đại.[5]

2. Thị dĩ thánh nhân chung bất vi đại,[6] cố năng thành kỳ đại.

Dịch xuôi:

1. Đại Đạo tràn lan bên phải, bên trái. Vạn vật nhờ Nó mà sinh, mà nó không nói gì. [7] Nên việc rồi, không xưng là có. Thương yêu nuôi dưỡng muôn loài mà không làm chủ. Thường không ham muốn. Có thể gọi tên là nhỏ; Muôn vật theo về mà không làm chủ, nên có thể gọi tên là lớn.

2. Thánh nhân suốt đời không cho mình là lớn, cho nên thành được việc lớn của mình.

Chương 35: Phiên âm:

1. Chấp đại tượng,[1] thiên hạ vãng. Vãng nhi bất hại. An bình thái.

2. Nhạc dữ nhị,[2] quá khách chỉ. Đạo chi xuất khẩu, đạm hồ kỳ vô vị. Thị chi nhi bất túc kiến, thính chi nhi bất túc văn. Dụng chi bất khả ký.

Dịch xuôi:

1. Thánh nhân cầm gương lớn, cho thiên hạ theo. Theo mà chẳng hại, lại an ổn, thanh bình.

2. Nhã nhạc, cỗ bàn khi khách về rồi thời hết.[3] Đạo ra khỏi miệng thời nhạt nhẽo như thể là vô vi, không đáng xem, không đáng nghe, nhưng đem dùng thì vô tận.

Chương 36: Phiên âm:

1. Tương dục hấp chi,[1] tất cố trương [2] chi. Tương dục nhược chi, tất cố cường chi. Tương dục phế chi, tất cố hưng chi. Tương dục đoạt chi,[3] tất cố dữ chi. [4] Thị vị vi minh,[5] nhu nhược thắng cương cường.

2. Ngư bất khả thoát ư uyên, quốc chi lợi khí, bất khả dĩ thị nhân.[6]

Dịch xuôi:

1. Trước khi làm cho chùng, thời giương ra cho thẳng. Trước khi làm cho suy yếu, thời giúp cho mạnh thêm. Trước khi vứt bỏ đi, thời làm cho hưng vượng. Trước khi muốn cướp lấy, thời hãy cho trước. Thế gọi là hiểu lẽ vi diệu (của Trời). Mềm yếu được cứng mạnh.

2. Cá chẳng khá rời vực, đồ quốc bảo chẳng nên phô trương.

Chương 37: Phiên âm:

1. Đạo thường vô vi nhi vô bất vi.

2. Hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự hóa.

3. Hóa nhi dục tác, ngô tương trấn chi. Dĩ vô danh chi phác, diệc tương vô dục. Bất dục dĩ tĩnh, thiên hạ tương tự định.

Dịch xuôi:

1. Đạo thường không làm gì; nhưng không gì không làm.

2. Nếu bậc vương hầu giữ được Đạo thì muôn loài sẽ tự chuyển hóa.

3. Chuyển hóa mà muốn vẽ vời sinh chuyện, ta sẽ chấn tĩnh lại bằng cái «Không tên mộc mạc». Vô danh mộc mạc ắt không ham muốn. Không ham muốn dễ được yên tĩnh, do đó thiên hạ sẽ định.

Chương 38: Phiên âm:

1. Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức. Hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức.

2. Thượng đức vô vi nhi vô dĩ vi.[2] Hạ đức vi chi nhi hữu dĩ vi.

3. Thượng nhân vi chi nhi vô dĩ vi. Thượng nghĩa vi chi nhi hữu dĩ vi. Thượng lễ vi chi nhi mạc chi ứng.[3] Tắc nhương tí nhi nhưng chi.[4] Cố thất Đạo nhi hậu Đức. Thất Đức nhi hậu Nhân. Thất Nhân nhi hậu Nghĩa. Thất Nghĩa nhi hậu Lễ. Phù Lễ giả, trung tín chi bạc nhi loạn chi thủ. Tiền thức giả [5] Đạo chi hoa,[6] nhi ngu chi thủy.

4. Thị dĩ đại trượng phu xử kỳ hậu [7] bất cư kỳ bạc. Xử kỳ thực, bất cư kỳ hoa. Cố khứ bỉ thủ thử.[8]

Dịch xuôi:

1. Bậc đức cao coi thường tục đức, vì thế nên có đức. Người đức thấp nệ vào tục đức, vì thế nên không có đức.

2. Bậc đức cao không làm, vả cũng không hệ lụy vì công việc. Người đức thấp có làm, vả lại hệ lụy vì công việc.

3. Bậc «thượng nhân» có làm nhưng không hệ lụy vì công việc. Bậc «thượng nghĩa» có làm, nhưng hệ lụy vì công việc. Bậc «thượng lễ» có làm; nếu không được người hưởng ứng, thì sắn tay áo lôi kéo người theo. Cho nên mất Đạo thì đến Đức. Mất Đức thì đến Nhân. Mất Nhân thì đến Nghĩa. Mất Nghĩa thì đến Lễ. Mà Lễ là trung tín đã đi đến chỗ mỏng manh, và là đầu mối loạn lạc. Giỏi giang là hào nháng của Đạo và là đầu mối của sự ngu si.

4. Cho nên bậc đại trượng phu ở chỗ dày dặn mà tránh chỗ mỏng mảnh, ở chỗ thực mà tránh chỗ hào nháng. Thế tức là bỏ cái kia (hào nháng, mỏng mảnh) mà giữ cái này (dày dặn, thực chất).

Chương 39: Phiên âm:

1. Tích chi đắc nhất giả. Thiên đắc Nhất [1] dĩ thanh. Địa đắc Nhất dĩ ninh. Thần đắc Nhất dĩ linh. Cốc đắc Nhất dĩ doanh. Vạn vật đắc Nhất dĩ sinh. Hầu vương đắc Nhất dĩ vi thiên hạ trinh.[2] Kỳ trí chi Nhất dã.[3]

2. Thiên vô dĩ thanh, tương khủng liệt.[4] Địa vô dĩ ninh, tương khủng phế. [5] Thần vô dĩ linh, tương khủng hiệt.[6] Cốc vô dĩ doanh tương khủng kiệt. [7] Vạn vật vô dĩ sinh, tương khủng diệt.[8] Hầu vương vô quí cao, tương khủng quyết. [9]

3. Cố quí dĩ tiện vi bản. Cao dĩ hạ vi cơ.[10] Thị dĩ hầu vương tự vị cô quả, bất cốc. [11] Thử kỳ dĩ tiện vi bản da ? Phi hồ ? [12]

4. Cố trí số, dư vô dư. [13] Bất dục lục lục [14] như ngọc, lạc lạc như thạch.[15]

Dịch xuôi:

1. Những vật xưa được Đạo: Trời được Đạo, nên trong. Đất được Đạo, nên yên. Thần được Đạo, nên linh. Hang được Đạo, nên đầy. Vạn vật được Đạo, nên sống. Hầu vương được Đạo, nên trị vì thiên hạ. Đều là do đạt Đạo mà nên.

2. Trời không có Đạo (để) trong, sẽ vỡ. Đất không có Đạo (để) yên sẽ lở. Hang không có Đạo (để) đầy, sẽ cạn. Thần không có Đạo (để) linh, sẽ tán. Vạn vật không có Đạo (để) sống, sẽ tuyệt. Hầu vương không có Đạo (để) được sang cả, sẽ bị diệt vong.

3. Cho nên sang lấy hèn làm gốc. Cao lấy thấp làm nền. Vì thế bậc vương hầu xưng mình là «côi cút» là ít đức, là «vô dụng», thế không phải là lấy hèn làm gốc hay sao ?

4. Phân tách cho cùng, tất cả đều là hư danh (xe không là xe) không muốn coi ai quý như ngọc, hay hèn như đá.[16]

Chương 40: Phiên âm:

1. Phản[1] giả Đạo chi động. Nhược giả Đạo chi dụng.

2. Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu,[2] hữu sinh ư vô.[3]

Dịch xuôi:

1. Trở lại là cái động của Đạo. Yếu mềm là cái dụng của Đạo.

2. Thiên hạ vạn vật sinh từ có. Có sinh từ Không.

Chương 41: Phiên âm:

1. Thượng sĩ văn Đạo, cần nhi hành chi. Trung sĩ văn Đạo, nhược tồn, nhược vong. Hạ sĩ văn Đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vi Đạo.

2. Cố kiến ngôn hữu chi: Minh Đạo nhược muội. Tiến Đạo nhược thối. Di [1] Đạo nhược lỗi.[2] Thượng Đức nhược cốc.[3] Đại bạch nhược nhục.[4] Quảng đức nhược bất túc. Kiến đức nhược thâu.[5] Chất chân nhược du.[6]

3. Đại phương vô ngung; đại khí vãn thành; đại âm hi thanh; đại tượng vô hình. Đạo ẩn vô danh. Phù duy Đạo thiện thải thả thành.

Dịch xuôi:

1. Bậc học cao nghe đạo, cố gắng mà theo. Bậc học bình thường nghe Đạo như còn như mất. Bậc học thấp kém nghe Đạo, cả cười bỏ qua. Nếu không cười, không đủ gọi đó là Đạo.

2. Nên người xưa nói: Sáng về Đạo, dường tăm tối. Tiến về Đạo, nhường như thụt lùi. Ngang với Đạo, dường như cục cằn. Đức cao dường như hang suối. Thật trong trắng dường như bợn nhơ. Đức rồi rào dường như không đủ. Đức vững chắc dường như cẩu thả. Chất thực dường như biến đổi.

3. Hình vuông lớn không góc. Đồ dùng lớn lâu thành. Tiếng lớn nghe không thấy. Tượng lớn, không có hình. Đạo ẩn, không tên. Chỉ có Đạo, hay cho lại tác thành (muôn vật).

Chương 42: Phiên âm:

1. Đạo sinh nhất, Nhất sinh nhị, Nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ Âm nhi bão Dương, xung khí dĩ vi hòa.

2. Nhân chi sở ố duy cô, quả, bất cốc. Nhi vương công dĩ vi xưng. Cố vật hoặc tổn chi nhi ích. Hoặc ích chi nhi tổn.

3. Nhân chi sở giáo, ngã diệc giáo chi. Cường lương giả bất đắc kỳ tử. Ngô tương dĩ vi giáo phụ.

Dịch xuôi:

1. Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Trong vạn vật không có vật nào không cõng Âm và ôm Dương. Ở giữa là nguyên khí dung hòa.

2. Cái mà người ta ghét là: côi cút, góa bụa, bất tài, bất lực. Thế mà vua chúa lại dùng nó để tự xưng. Như vậy thì sự đời bớt là thêm, thêm là bớt.

3. Điều người xưa dạy, nay ta cũng dạy: Dùng bạo lực sẽ chết « bất đắc kỳ tử». Đó là lời của thày ta.

Chương 43: Phiên âm:

1. Thiên hạ chi chí nhu, trì sính[1] thiên hạ chi trí kiên. Vô hữu nhập vô gián. [2] Ngô thị dĩ tri vô vi chi hữu ích.

2. Bất ngôn chi giáo,[3] vô vi chi ích, thiên hạ hi[4] cập chi.[5]

Dịch xuôi:

1. Cái mềm nhất trong trời đất chi phối được cái cứng nhất trong trời đất. Cái «không có» lọt được vào chỗ «không có kẽ hở». Vì thế nên ta biết lợi ích của vạn vật

2. Cách Dạy mà không dùng đến lời, cũng như ích lợi của «Vô vi», ít người có thể hiểu thấu.

Chương 44: Phiên âm:

1. Danh dữ thân thục thân, thân dữ hóa thục[1] đa.[2] Đắc dữ vong thục bệnh.[3]

2. Thị cố, thậm ái tắc thậm phí.[4] Đa tàng tất hậu [5] vong. Tri túc bất nhục. Tri chỉ bất đãi. [6] Khả dĩ trường cửu.

Dịch xuôi:

1. Danh với thân cái nào quý hơn? Thân với của, cái nào trọng hơn? Được với mất, cái nào khổ hơn?

2. Cho nên, yêu nhiều ắt tổn nhiều. Chứa nhiều ắt mất nhiều. Biết đủ (an phận thủ thường), không nhục. Biết dừng không nguy. Có thể trường cửu.

Chương 45: Phiên âm:

1. Đại thành nhược khuyết [1] kỳ dụng bất tệ. [2] Đại doanh nhược xung[3] kỳ dụng bất cùng. Đại trực nhược khuất.[4] Đại xảo nhược chuyết.[5] Đại biện nhược nột.

2. Táo thắng hàn. Tĩnh thắng nhiệt. Thanh tĩnh vi thiên hạ chính.

Dịch xuôi:

1. Hoàn toàn mà ngỡ là khiếm khuyết, nhưng dùng không bao giờ hỏng. Thực đầy mà ngỡ như vơi, nhưng dùng không bao giờ hết. Thẳng băng mà ngỡ như cong; tuyệt khéo mà như vụng về; rất hùng biện, mà như là ấp úng.

2. Nóng thắng lạnh, yên thắng nóng, thanh tĩnh mà chính được thiên hạ.

Chương 46: Phiên âm:

1. Thiên hạ hữu đạo, khước tẩu mã dĩ phẩn. Thiên hạ vô đạo, nhung mã sinh ư giao.

2. Họa mạc đại ư bất tri túc.[1] Cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ.[2]

Dịch xuôi:

1. Thiên hạ có Đạo, thì ngựa dùng vào việc vun phân ruộng. Thiên hạ không Đạo, ngựa chiến sinh ngoài thành.

2. Không họa nào lớn bằng không biết đủ. Không hại nào lớn bằng muốn được của. Cho nên biết cho mình là có đủ, thời luôn luôn đủ.

Chương 47: Phiên âm:

1. Bất xuất hộ, tri thiên hạ. Bất khuy [1] dũ [2] kiến thiên đạo. [3] Kỳ xuất di * viễn, kỳ tri di* [4] thiểu.

2. Thị dĩ thánh nhân bất hành nhi tri, bất kiến nhi danh, bất vi nhi thành.

Dịch xuôi:

1. Chẳng ra khỏi cửa mà biết thiên hạ. Chẳng dòm qua cửa sổ, mà biết đạo Trời. Đi càng xa, biết càng ít.

2. Cho nên thánh nhân chẳng đi mà biết, chẳng thấy mà hay, chẳng làm mà nên.

Chương 48: Phiên âm:

1. Vi học nhật ích, vi Đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn dĩ chí ư vô vi.

2. Vô vi nhi vô bất vi, thủ thiên hạ thường dĩ vô sự. Cập kỳ hữu sự bất túc dĩ thủ thiên hạ.

Dịch xuôi:

1. Theo học ngày một thêm, theo Đạo ngày một bớt. Bớt rồi lại bớt, đến mức Vô vi.

2. Không làm mà không gì không làm; muốn được thiên hạ phải dùng vô vi; dùng hữu vi không đủ để được thiên hạ.

Chương 49: Phiên âm:

1. Thánh nhân vô thường tâm, dĩ bách tính tâm vi tâm. Thiện giả ngô thiện chi. Bất thiện giả ngô diệc thiện chi. Đắc thiện hĩ. Tín giả ngô tín chi. Bất tín giả ngô diệc tín chi, đắc tín hĩ.

2. Thánh nhân tại thiên hạ, hấp hấp vi thiên hạ hồn kỳ tâm. Bách tính giai chú kỳ nhĩ mục, thánh nhân giai hài chi.

Dịch xuôi:

1. Thánh nhân không có lòng, thường lấy lòng thiên hạ làm lòng mình. Với kẻ lành dữ đều tốt. Thế là tốt rất mực. Với người thành tín hay gian ngoan, cũng đều tin cậy ngang nhau, đó là lòng tin rất mực.

2. Thánh nhân ở trong thiên hạ mà lòng luôn hồn nhiên, không có thiên tư, thiên kiến. Mọi người đều để tai mắt vào người mà người coi mọi người như những đứa trẻ thơ.

Chương 50: Phiên âm:

1 Xuất sinh nhập tử.

2. Sinh chi đồ,[1] thập hữu tam.[2] Tử chi đồ, thập hữu tam. Nhân chi sinh, động chi tử địa diệc thập hữu tam. Phù hà cố ? Dĩ kỳ sinh sinh chi hậu.

3. Cái văn thiện nhiếp sinh giả, lục hành bất ngộ hủy hổ; nhập quân bất bị giáp binh. Hủy vô sở đầu kỳ giác; hổ vô sở thố kỳ trảo; binh vô sở dung kỳ nhận. Phù hà cố ? Dĩ kỳ vô tử địa.

Dịch xuôi:

1. Bước vào cõi sinh, tức là đã vào cõi tử.

2. Có 13 duyên cớ sống, chết. Con người sinh ra đời liền bị 13 duyên do đưa vào cõi chết.[3] Tại sao ? Vì con người muốn sống cho hết mức.

3. Nhưng ta nghe rằng người khéo giữ gìn sự sống đi trên đường không gặp tê, gặp hổ; vào trong quân lữ không cần mang giáp, mang gươm. Vì không có chỗ nào để húc; hổ không có chỗ nào để vấu; binh không có chỗ nào để chém. Tại sao ? Vì họ không có chỗ chết.

Chương 51: Phiên âm:

1. Đạo sinh chi, đức súc chi, vật hình chi, thế thành chi. Thị dĩ vạn vật mạc bất tôn Đạo nhi quí Đức.

2. Đạo chi tôn, Đức chi quí, phù mạc chi mệnh, nhi thường tự nhiên.

3. Cố Đạo sinh chi, Đức súc chi, trưởng chi, dục chi, thành chi, thục chi,[1] dưỡng chi, phú chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng nhi bất tể, thị vị huyền đức.

Dịch xuôi:

1. Đạo sinh, Đức dưỡng, vật chất cho hình, hoàn cảnh tác thành (muôn vật). Cho nên muôn vật đều tôn Đạo, quí Đức.

2. Sự cao trọng của Đạo Đức chẳng nhờ ai ban, mà Đạo Đức tự nhiên vốn đã cao trọng.[2]

3. Cho nên Đạo sinh, Đức dưỡng, làm cho vạn vật lớn lên; dưỡng nuôi vạn vật, tác thành che chở vạn vật. Sinh vạn vật mà không nhận là của mình; làm mà không cậy công; làm cho lớn lên mà không đòi làm chủ, thế gọi là Đức nhiệm mầu.

Chương 52: Phiên âm:

1. Thượng hạ hữu thủy, dĩ vi thiên hạ mẫu. Ký đắc kỳ mẫu, dĩ tri kỳ tử. Ký tri kỳ tử phục thủ kỳ mẫu. Một thân bất đãi.

2. Tắc kỳ đoài, bế kỳ môn, chung thân bất cần. Khai kỳ đoài, tế kỳ sự, chung thân bất cứu.

3. Kiến tiểu viết minh, thủ nhu viết cường. Dụng kỳ quang, phục qui kỳ minh, vô di thân ương, thị vi tập thường.

Dịch xuôi:

1. Thiên hạ có khởi điểm. Khởi điểm ấy là mẹ thiên hạ. Đã được mẹ, thời biết con, trở về giữ mẹ, thân đến chết vẫn không nguy.

2. Ngậm miệng,[1] đóng tai, suốt đời không lận đận. Mở miệng lo công việc, suốt đời không cứu được.

3. Thấy được tế vi mới là Minh, giữ được mềm yếu mới là Cường. Dùng ánh sáng của Đạo, để quay về sự quang minh của Đạo, thân không sợ tai ương, đó là tìm về vĩnh cửu.[2]

Chương 53: Phiên âm:

1. Sử ngã giới nhiên [1] hữu tri, hành ư Đại Đạo duy thi [2] thị úy. Đại Đạo thậm di [3] nhi dân hiếu kính.[4]

2. Triều thậm trừ,[5] điền thậm vu, thương thậm hư. Phục văn thái, đới lợi kiếm, yếm ẩm thực, tài hóa hữu dư, thị vị đạo khoa,[6] phi Đạo dã tai.

Dịch xuôi:

1. Nếu ta có chút hiểu biết, ta sẽ đi theo Đại Đạo, và sợ hãi sự phô trương. Đại Đạo thì rộng rãi thanh thản mà con người lại thích đi những con đường nhỏ hẹp.

2. Triều đình lộng lẫy, nhưng ruộng nương hoang phí, kho lẫm trống trơn.

3. Ăn mặc sang trọng, đeo kiếm sắc, ăn uống chán chê, đó là đường lối của phường đạo tặc, chứ đâu phải đường lối của Đại Đạo.

Chương 54: Phiên âm:

1. Thiện kiến giả bất bạt.[1] Thiện bão giả bất thoát.[2] Tử tôn dĩ tế tự bất chuyết.[3]

2. Tu chi ư thân, kỳ đức nãi chân. Tu chi ư gia, kỳ đức nãi dư. Tu chi ư hương, kỳ đức nãi trường. Tu chi ư quốc, kỳ đức nãi phong. Tu chi ư thiên hạ, kỳ đức nãi phổ.

3. Cố, dĩ thân quan thân; dĩ gia quan gia; dĩ hương quan hương; dĩ quốc quan quốc; dĩ thiên hạ quan thiên hạ. Ngô hà dĩ tri thiên hạ chi nhiên tai ? Dĩ thử.

Dịch xuôi:

1. Người khéo trồng (xây dựng) thì không nhổ, nậy lên được. Người khéo ôm, thì không rút ra được. Con cháu tế tự không dứt.

2. Nếu lấy Đạo tu thân, thì đức sẽ thực. Nếu lấy Đạo mà tu sửa gia đình, thì đức sẽ thừa. Nếu lấy Đạo mà tu sửa làng, đức sẽ phong thịnh. Nếu lấy Đạo tu sửa thiên hạ, đức sẽ phổ quát.

3. Cho nên, lấy thân mà xét thân, lấy nhà mà xét nhà, lấy làng mà xét làng, lấy nước mà xét nước, lấy thiên hạ mà xét thiên hạ. Ta làm thế nào mà biết thiên hạ ? Bằng cách trên.

Chương 55: Phiên âm:

1. Hàm đức chi hậu, tỷ ư xích tử. Độc trùng bất thích,[1] mãnh thú bất cứ [2] cược [3] điểu bất bác.[4]

2. Cốt nhược cân nhu nhi ốc[5] cố. Vị tri tẫn mẫu chi hợp nhi toàn tác. Tinh chi chí dã. Chung nhật hào nhi bất sá.[6] Hòa chi chí dã. Tri hòa viết thường. Tri thường viết minh. Ích sinh viết bất tường. Tâm sử khí viết cường.

3. Vật tráng tắc lão, vị chi bất Đạo, bất Đạo tảo dĩ.

Dịch xuôi:

1. Kẻ nào đức dày, giống như con đỏ. Độc trùng không cắn, thú dữ không ăn, chim ưng chẳng bắt.

2. Xương yếu gân mềm mà tay nắm chặt. Chưa biết giao hoan, tinh khí vẹn tuyền. Suốt ngày la khóc, mà chẳng khản tiếng. Hòa hợp hoàn toàn. Biết hòa hợp mới trường cửu, biết trường cửu mới sáng suốt. Quá ham sống thì hại, tâm sai khiến khí, thì mạnh.

3. Vật lớn thời già, thế là trái Đạo, trái Đạo chết sống.

Chương 56: Phiên âm:

1. Tri giả bất ngôn. Ngôn giả bất tri.

2. Tắc [1] kỳ đoài,[2] bế kỳ môn, tỏa [3] kỳ nhuệ,[4] giải [5] kỳ phân,[6] hòa kỳ quang, đồng kỳ trần. Thị vị huyền đồng.[7]

3. Cố bất khả đắc nhi thân, diệc bất khả đắc nhi sơ; bất khả đắc nhi lợi, diệc bất khả đắc nhi hại; bất khả đắc nhi quí, diệc bất khả đắc nhi tiện. Cố vi thiên hạ quí.

Dịch xuôi:

1. Người biết thì không nói, người nói không biết.

2. Ngậm miệng, bít tai, làm nhụt sự bén nhọn, tháo gỡ sự tần phiền, giảm ánh sáng, hòa mình cùng bụi bặm, thế gọi là huyền đồng.

3. Cho nên thân cũng không được, sơ cũng không được, lợi cũng không được, hại cũng không được, quí cũng không được, tiện cũng không được. Vì thế nên quí nhất thiên hạ.

Chương 57: Phiên âm:

1. Dĩ chính [1] trị quốc. Dĩ kỳ [2] dụng binh. Dĩ vô sự thủ thiên hạ.

2. Ngô hà dĩ tri kỳ nhiên tai? Dĩ thử: Thiên hạ đa kỵ húy [3] nhi dân di bần. Dân đa lợi khí, quốc gia tư hôn. Nhân đa kỹ xảo, kỳ vật tư khởi. Pháp lệnh tư chương, đạo tặc đa hữu.

3. Cố thánh nhân vân: Ngã vô vi nhi dân tự hóa. Ngã hiếu tĩnh nhi dân tự chính. Ngã vô sự nhi dân tự phú. Ngã vô dục nhi dân tự phác.

Dịch xuôi:

1. Lấy ngay thẳng trị nước; lấy mưu mô dùng binh; lấy vô sự được thiên hạ.

2. Ta làm sao biết được như vậy? Nhờ thế này: Thiên hạ càng nhiều kỵ húy, thì dân càng nghèo. Dân càng lắm lợi khí, thì quốc gia càng tối tăm. Dân càng tài khéo, vật lạ càng nẩy sinh, pháp lệnh càng rõ rệt, trộm cướp càng sinh ra nhiều.

3. Vì thế nên thánh nhân mới dạy: Ta vô vi mà dân tự hóa. Ta ưa tĩnh mà dân tự chính. Ta không dở dói mà dân giàu. Ta không có dục vọng mà dân tự động trở nên chất phác.

Chương 58: Phiên âm:

1. Kỳ chính muộn muộn, kỳ dân thuần thuần. Kỳ chính sát sát, kỳ dân khuyết khuyết.

2. Họa hề phúc chi sở ỷ. Phúc hề họa chi sở phục. Thục tri kỳ cực. Kỳ vô chính. [1] Chính phục vi kỳ,[2] thiên phục vi yêu. [3] Nhân chi mê, kỳ nhật cố cửu.

3. Thị dĩ thánh nhân, phương nhi bất cát [4] liêm nhi bất quế,[5] trực nhi bất tứ [6] quang nhi bất diệu.

Dịch xuôi:

1. Chính lệnh mơ hồ, dân con thư thái, chính lệnh soi mói, dân con lo âu.

2. Họa là nơi phúc tựa, phúc là nơi họa nấp. Trên mà không ngay thẳng thì người ngay sẽ thành nguy, người thiện trở thành tà. Con người u mê đã từ lâu.

3. Cho nên thánh nhân ngay chính nhưng không làm cho người tổn thương; liêm minh nhưng không làm mất lòng người, ngay thẳng nhưng không nghiệt ngã với người, sáng láng nhưng không làm cho ai chói lòa.

Chương 59: Phiên âm:

1. Trị nhân, sự Thiên mạc nhược sắc.[1]

2. Phù duy sắc thị vị tảo phục,[2] tảo phục vị chi trọng tích đức. Trọng tích đức tắc vô bất khắc. Vô bất khắc tắc mạc tri kỳ cực. Mạc tri kỳ cực, khả dĩ hữu quốc.

3. Hữu quốc chi mẫu [3] khả dĩ trường cửu. Thị vị thâm căn cố đế, trường sinh, cửu thị chi đạo.

Dịch xuôi:

1. Trị người thờ trời, không gì bằng tiết độ.

2. Tiết độ là việc phải lo trước tiên; lo việc ấy trước tiên sẽ tích đức, tích đức cao dày sẽ lướt thắng được mọi sự, sẽ siêu việt. Siêu việt sẽ được nước (Trời).

3. Được căn cơ trời đất, nên có thể trường cửu. Thế cho nên gọi là ăn rễ sâu, mọc rễ chắc, đó là đạo trường sinh cửu thị.

Chương 60: Phiên âm:

1. Trị đại quốc như phanh tiểu tiên.[1]

2. Dĩ đạo lỵ [2] thiên hạ. Kỳ quỉ bất thần.[3] Phi ký quỉ bất thần, kỳ thần bất thương nhân. Phi kỳ thần bất thương nhân, thánh diệc bất thương nhân. Phù lưỡng bất tương thương, cố đức giao qui yên.

Dịch xuôi:

1. Trị nước như câu cá nhỏ.

2. Lấy Đạo trị thiên hạ, quỉ thần hết linh. Không phải quỉ thần không linh, nhưng quỉ thần không làm hại người. Không phải quỉ thần không làm hại người, mà thánh nhân không làm hại người. Cả hai đều không hại người, nên Đức của họ qui về một chỗ.

Chương 61: Phiên âm:

1. Đại quốc giả hạ lưu, thiên hạ chi giao, thiên hạ chi tẫn.

2. Tẫn thường dĩ tĩnh thắng mẫu, dĩ tĩnh vi hạ. Cố đại quốc dĩ hạ tiểu quốc, tắc thủ tiểu quốc; tiểu quốc dĩ hạ đại quốc, tắc thủ đại quốc. Cố hoặc hạ dĩ thủ, hoặc hạ nhi thủ. Đại quốc bất quá dục kiêm súc nhân. Tiểu quốc bất quá dục nhập sự nhân. Phù lưỡng giả các đắc kỳ sở dục. Đại giả nghi vi hạ.

Dịch xuôi:

1. Nước lớn mà làm chỗ thấp, sẽ là nơi thiên hạ giao hội, sẽ là giống cái của thiên hạ.

2. Giống cái thường lấy sự tĩnh mà thắng giống đực, lấy tĩnh làm chỗ thấp. Cho nên nếu nước lớn mà hạ mình trước nước nhỏ, thì sẽ thu phục được nước nhỏ; nếu nước nhỏ mà hạ mình trước nước nhớn thời sẽ được lòng nước nhớn. Cho nên hoặc hạ mình để mà chinh phục, hoặc hạ mình để được lòng. Nước lớn chẳng qua là để dưỡng nuôi người, nước nhỏ chẳng qua là để phục vụ người, cả hai đều được như ý thích. Kẻ lớn nên hạ mình.

Chương 62: Phiên âm:

1. Đạo giả, vạn vật chi áo [1] thiện nhân chi bửu, bất thiện nhân chi sở bảo. [2]

2. Mỹ ngôn khả dĩ thị tôn. Mỹ hạnh khả dĩ gia nhân.[3] Nhân chi bất thiện hà khí chi hữu.

3. Cố lập thiên tử, trí tam công tuy hữu củng bích[4] dĩ tiên tứ mã [5] bất như tọa tiến thử Đạo.[6]

4. Cổ chi sở dĩ quí thử Đạo giả hà? Bất viết: [7] dĩ cầu đắc, hữu tội dĩ miễn da? Cố vi thiên hạ quí dã.

Dịch xuôi:

1. Đạo là bí quyết muôn loài, là châu báu của người lành, là chỗ dựa nương của người bất lương. (Nhờ Đạo) mà có những lời hay việc đẹp (Nhờ Đạo mà những lời hay được tăng giá trị, được trọng vọng; mà những việc đẹp tăng phẩm cách con người). (Nhờ Đạo) mà những kẻ bất lương không bị ruồng rẫy.

2. Cho nên lập thiên tử, lập tam công tuy tay cầm ngọc bích, tuy thân ngồi xe tứ mã, nhưng vẫn không bằng ngồi mà đem Đạo (ấy vào thân mình, và vào người khác).

3. Người xưa quí Đạo là vì sao? Há chẳng có lời rằng: Cầu Đạo thời được, có tội thời được khỏi sao? Cho nên Đạo quí nhất thiên hạ.

Chương 63: Phiên âm:

1. Vi vô vi, sự vô sự, vị vô vị. Đại tiểu, đa thiểu; báo oán dĩ đức.[1]

2. Đồ nan ư kỳ dị. Vi đại ư kỳ tế. Thiên hạ nan sự tất tác ư dị. Thiên hạ đại sự tất tác ư tế. Thị dĩ thánh nhân chung bất vi kỳ đại. Cố năng thành kỳ đại.

3. Phù khinh nặc, tất quả tín. Đa dị tất đa nan, thị dĩ thánh nhân do nan chi, cố chung vô nan.

Dịch xuôi:

1. Thánh nhân hoạt động lao tác trên bình diện siêu việt. Coi mọi sự đời lớn nhỏ, nhiều ít như nhau, lấy ân báo oán.

2. Làm việc khó từ việc dễ, làm việc lớn từ việc nhỏ. Các việc khó khăn trong thiên hạ, đều do từ việc dễ mà thành. Các việc lớn trong thiên hạ, đều từ việc nhỏ mà nên. Cho nên thánh nhân suốt đời không làm chuyện lớn, mà vẫn nên được chuyện lớn.

3. Những kẻ hứa bừa bãi, sẽ khó giữ được lời. Coi cái gì cũng dễ, sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên thánh nhân xem việc gì cũng là khó, nên cuối cùng không gặp khó.

Chương 64: Phiên âm:

1. Kỳ an dị trì, kỳ vị triệu dị mưu. Kỳ thúy dị phán,[1] kỳ vi dị tán. Vi chi ư vị hữu, trị chi ư vị loạn.

2. Hợp bão chi mộc, sinh ư hào mạt; cửu tằng chi đài, khởi ư lũy thổ. Thiên lý chi hành thủy ư túc hạ.

3. Vi giả bại chi, chấp giả thất chi. Thị dĩ thánh nhân vô vi cố vô bại, vô chấp cố vô thất.

4. Dân chi tùng sự, thường ư cơ [2] thành nhi bại chi. Thận chung như thủy tắc vô bại sự.

5. Thị dĩ, thánh nhân dục bất dục; bất quý nan đắc chi hoá; học bất học, phục chúng nhân chi sở quá. Dĩ phụ [3] vạn vật chi tự nhiên nhi bất cảm vi.

Dịch xuôi:

1. Vật yên dễ cầm, vật chưa phát lộ, dễ lo. Vật mềm mỏng dễ phá; vật nhỏ dễ làm tan. Làm khi chưa hình hiện, trị khi chưa loạn.

2. Cây to một ôm sinh tự gốc nhỏ xíu; đài cao chín tầng khởi từ mô đất; cuộc viễn hành nghìn dặm khởi từ dưới chân.

3. Làm thì hỏng, giữ thì mất. Cho nên thánh nhân không làm nên không hỏng, không giữ nên không mất.

4. Người dân làm việc thường thất bại lúc sắp thành công. Cẩn thận lúc cuối như lúc đầu, nên không hỏng việc.

5. Cho nên thánh nhân muốn cái [mà người ta] không muốn; không chuộng những của cải khó tìm; học cái [mà người ta] không học; cải thiện lỗi lầm của chúng dân để giúp vạn vật sống tự nhiên mà không dám lao tác.

Chương 65: Phiên âm:

1. Cổ chi thiện vi đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi.[1]

2. Dân chi nan trị, dĩ kỳ trí đa. Cố dĩ trí trị quốc, quốc chi tặc. Bất dĩ trí trị quốc, quốc chi phúc.

3. Tri thử lưỡng giả diệc khải thức.[2] Thường tri khải thức thị vị huyền đức. Huyền đức thâm hĩ, viễn hĩ, dữ vật phản hĩ. Nhiên hậu nãi chí đại thuận.

Dịch xuôi:

1. Xưa, kẻ khéo thi hành đạo thì không dạy cho dân trở nên xảo trá, mà giữ cho dân sống thuần phác.

2. Dân mà khó trị chính là vì nhiều trí mưu. Cho nên dùng trí trị nước chính là phá nước; không dùng trí trị nước tức là phúc cho nước.

3. Biết hai đường lối đó, có thể lấy đó làm mẫu mực. Luôn biết mẫu mực, thế là huyền đức. Huyền đức thâm viễn, tưởng là ngược với vật nhưng cuối cùng thật là xuôi.

Chương 66: Phiên âm:

1. Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ kỳ thiện hạ chi. Cố năng vi bách cốc vương.

2. Thị dĩ dục thượng dân tất dĩ ngôn hạ chi. Dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi. Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân bất trọng, xử tiền nhi dân bất hại. Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm, dĩ kỳ bất tranh.

Dịch xuôi:

1. Sông biển sở dĩ làm vua trăm hang suối chính vì khéo ở chỗ thấp, vì thế nên làm vua trăm hang suối.

2. Bởi vậy, muốn ngồi trên dân, ắt phải lấy lời mà hạ mình muốn đứng trước dân, ắt phải để thân mình ra sau. Vậy nên, thánh nhân ở trên dân mà dân không thấy nặng, ở trước dân mà dân không thấy hại. Cho nên thiên hạ thích thôi thúc (cổ võ) mà không chán. Vì không tranh, nên thiên hạ không tranh với mình.

Chương 67: Phiên âm:

1. Thiên hạ giai vị ngã đại [1] tự bất tiếu. Phù duy đại, cố tự bất tiếu. Nhược tiếu cửu hĩ, kỳ tế dã phù. [2]

2. Ngã hữu tam bảo, trì nhi bảo chi. Nhất viết từ, nhị viết kiệm, tam viết bất cảm vi thiên hạ tiên. Từ cố năng dũng; kiệm cố năng quảng; bất cảm vi thiên hạ tiên, cố năng thành khí trưởng.

3. Kim xả từ thả dũng, xả kiệm thả quảng, xả hậu thả tiên, tử hĩ.

4. Phù từ dĩ chiến tắc thắng, dĩ thủ tắc cố. Thiên tương cứu chi, dĩ từ vệ chi.

Dịch xuôi:

1. Thiên hạ cho ta là trọng đại, mặc dầu ta phong thái tầm thường. Cao đại chính là ỏ chỗ vẻ ngoài tầm thường. Còn nhiều kẻ làm ra vẻ quan trọng nhưng chính lại hết sức tầm thường, nhỏ mọn.

2. Ta có ba báu vật, ta hết sức nắm giữ chắt chiu. Một là khoan từ. Hai là tiết kiệm. Ba là không dám đứng trước thiên hạ (coi mình hơn người). Khoan từ nên mới hùng dũng. Tiết kiệm nên mới rộng rãi. Không dám đứng trước người, nên mới được hiển dương.

3. Nay người ta bỏ khoan từ, chạy theo dũng lực; bỏ tiết kiệm chạy theo phung phí; bỏ chỗ sau mà tranh chỗ trước; thế là chết vậy.

4. Lấy khoan từ mà tranh đấu sẽ thắng, mà cố thủ sẽ vững. Trời muốn cứu ai, lấy khoan từ mà bảo vệ cho.

Chương 68: Phiên âm:

1. Thiện vi sĩ giả bất vũ. Thiện chiến giả bất nộ. Thiện thắng địch giả bất dữ. [1]

2. Thiện dụng nhân giả vi chi hạ. Thị vị bất tranh chi đức. Thị vị dụng nhân chi lực. Thị vị phối Thiên, cổ chi cực.[2]

Dịch xuôi:

1. Tướng giỏi không dùng vũ lực. Người chiến đấu giỏi không giận dữ. Người khéo thắng không giao tranh với địch.

2. Khéo dùng người là hạ mình ở dưới người. Thế gọi là cái đức của không tranh. Thế là dùng sức người. Thế là kết hợp với Trời, cực điểm của người xưa.

Chương 69: Phiên âm:

1. Dụng binh hữu ngôn, ngô bất cảm vi chủ, nhi vi khách. Bất cảm tiến thốn nhi thoái xích.

2. Thị vị hành vô hành, nhương [1] vô tí, [2] nhưng [3] vô địch, chấp vô binh.

3. Họa mạc đại ư khinh địch, khinh địch cơ táng ngô bảo. Cố kháng binh tương gia. Ai giả thắng hĩ.

Dịch xuôi:

1.    Dụng binh có câu: Thà làm khách hơn làm chủ. Chẳng dám tiến một tấc, mà lui một thước.

2. Cho nên thánh nhân chẳng đi mà vẫn đi, đuổi mà không dùng tay, bắt mà không đối địch, cầm giữ mà không binh khí.

3. Không họa nào lớn bằng khinh địch, khinh địch là mất của báu, cho nên khi giao binh, người nào thận trọng từ nhân sẽ thắng.

Chương 70: Phiên âm:

1. Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành.

2. Ngôn hữu tông, sự hữu quân.

3. Phù duy vô tri, thị dĩ ngã bất tri. Tri ngã giả Hi, tắc ngã giả quý. Thị dĩ thánh nhân, bị hạt [1] hoài ngọc.

Dịch xuôi:

1. Lời ta rất dễ biết, rất dễ làm. Thiên hạ chẳng biết chẳng làm.

2. Lời ta có duyên do, việc ta có mấu chốt.

3. Thiên hạ không biết thế, nên không hiểu ta. Ít người hiểu ta, nên ta mới quý. [2] Cho nên thánh nhân mặc áo vải mà chứa ngọc.

Chương 71: Phiên âm:

1. Tri bất tri thượng, bất tri tri bệnh.[1]

2. Phù duy bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh.

3. Thánh nhân bất bệnh, dĩ kỳ bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh.

Dịch xuôi:

1. Biết điều không biết là cao. Không biết điều đáng biết là bệnh.

2. Biết sợ bệnh, thì không bệnh.

3. Thánh nhân không bệnh, vì biết sợ bệnh, thế nên không bệnh.

Chương 72: Phiên âm:

1. Dân bất [1] úy uy, tắc đại uy chí.

2. Vô hiệp [2] kỳ sở cư, vô yếm kỳ sở sinh. Phù duy bất yếm, thị dĩ bất yếm.

3. Thị dĩ thánh nhân, tự tri bất tự kiến, tự ái bất tự quý. Cố khứ bỉ, thủ thử. [3]

Dịch xuôi:

1. Dân mà không sợ cái đáng sợ, tất cái sợ lớn sẽ đến.

2. Đừng khinh chỗ mình ở, đừng chán đời sống mình. Vì không chê nên không chán.

3. Cho nên thánh nhân biết mình, và không cầu người biết, yêu mình mà không cần người trọng. Cho nên bỏ cái kia giữ cái này.

Chương 73: Phiên âm:

1. Dũng ư cảm tắc sát. Dũng ư bất cảm tắc hoạt. Thử lưỡng giả hoặc lợi hoặc hại.

2. Thiên chi sở ố, thục tri kỳ cố. Thị dĩ thánh nhân do nan chi.

3. Thiên chi đạo bất tranh nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện ứng, bất triệu nhi tự lai, thản nhiên [1] nhi thiện mưu.

4. Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất.

Dịch xuôi:

1. Mạnh bạo dám làm là chết, mạnh bạo chẳng dám làm là sống. Hai cái đó, hoặc lợi hoặc hại.

2. Cái mà Trời ghét, ai mà biết được căn do, thánh nhân còn lấy làm khó nữa là.

3. Đạo Trời không tranh mà thành, không nói, mà người hưởng ứng, không mời mà người tự tới, nhẹ nhàng mà công việc vẫn xong xuôi.

4. Lưới Trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt.

Chương 74: Phiên âm:

1. Dân bất úy tử, nại hà dĩ tử cụ chi? Nhược sử dân thường úy tử, nhi vi kỳ giả, ngô đắc chấp nhi sát chi, thục cảm.

2. Thường hữu tư sát giả sát.

3. Phù đại tư sát giả sát. Thị vị đại đại tượng trác.[1] Phù đại đại tượng trác giả, hi hữu bất thương kỳ thủ hĩ.[2]

Dịch xuôi:

1. Khi dân không sợ chết, làm sao lấy cái chết làm cho họ sợ được.

2. Nếu khiến được dân sợ chết, mà bắt kẻ phạm pháp giết đi, thì còn ai dám phạm pháp nữa.

3. Thường có đấng Tư sát, có quyền giết người.

4. Nay ta lại thay Ngài mà giết, thì có khác nào muốn đẽo gỗ thay thợ mộc đâu? Muốn thay thợ mà đẽo gỗ, khó mà thoát bị thương tật.

Chương 75: Phiên âm:

1. Dân chi cơ, dĩ kỳ thượng thực thuế chi đa, thị dĩ cơ.

2. Dân chi nan trị, dĩ kỳ thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị.

3. Dân chi khinh tử, dĩ kỳ cầu sinh chi hậu, thị dĩ khinh tử.

4. Phù duy vô dĩ sinh vi giả thị hiền ư quí sinh.

Dịch xuôi:

1. Dân đói, là vì người trên thu thuế nhiều, nên dân mới đói.

2. Dân khó trị, là vì người trên dở dói lôi thôi, vì thế nên khó trị.

3. Dân coi thường cái chết, chính là vì muốn sống cho rồi rào hậu hĩ, nên mới khinh chết.

4. Người sống đơn sơ hay hơn người sống cầu kỳ.

Chương 76: Phiên âm:

1. Nhân chi sinh dã nhu nhược, kỳ tử dã kiên cường.

2. Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thúy [1] kỳ tử dã khô cảo. [2]

3. Cố kiên cường giả tử chi đồ, nhu nhược giả sinh chi đồ.

4. Thị dĩ binh cường tắc bất thắng, mộc cường tắc chiết.

5. Cố kiên cường xử hạ, nhu nhược xử thượng.

Dịch xuôi:

1. Con người khi mới sinh thì mềm mại, mà khi chết thời cứng cỏi.

2. Vạn vật cỏ cây, khi mới sinh thì mềm mại, đến khi chết thì khô héo.

3. Cho nên cứng cỏi thời chết, mềm mại thời sống.

4. Cho nên binh mạnh sẽ không thắng, cây mạnh sẽ bị chặt.

5. Cho nên cứng cỏi thời kém, mềm mại thời hơn.

Chương 77: Phiên âm:

1. Thiên chi Đạo, kỳ do trương cung dư? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi, hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi Đạo, tổn hữu dư nhi bổ bất túc.

2. Nhân chi đạo tắc bất nhiên, tổn bất túc nhi phụng hữu dư. Thục năng hữu dư dĩ phụng thiên hạ? Duy hữu đạo giả.

3. Thị dĩ thánh nhân, vi nhi bất thị. Công thành nhi bất xử, kỳ bất dục kiến hiền.

Dịch xuôi:

1. Đạo Trời như dương cung. Cao thì ép xuống, thấp thì nâng lên. Thừa thì bớt đi, không đủ thì bù vào. Đạo Trời bớt dư bù thiếu.

2. Đạo người chẳng vậy, bớt thiếu bù dư. Ai đem chỗ dư bù đắp cho thiên hạ? Phải chăng chỉ có người có Đạo?

3. Cho nên thánh nhân làm mà không cậy công. Công thành không ở lại; không muốn ai thấy tài mình.

Chương 78: Phiên âm:

1. Thiên hạ nhu nhược mạc quá ư thủy, nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắng, kỳ vô dĩ dịch chi.[1]

2. Nhu thắng cương, nhược thắng cường. Thiên hạ mạc bất tri,[2] mạc năng hành.

3. Thị dĩ thánh nhân vân: Thụ quốc chi cấu, năng vi xã tắc chủ. Thụ quốc bất tường, năng vi thiên hạ vương. Chính ngôn nhược phản.

Dịch xuôi:

1. Trong thiên hạ không gì mềm yếu hơn nước; thế mà nó lại công phá được tất cả những gì cứng rắn. Chẳng chi hơn nó, chẳng chi thay thế được nó.

2. Mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh, thiên hạ ai cũng biết thế, mà chẳng ai làm được.

3. Cho nên thánh nhân nói: «Dám nhận lấy nhơ nhuốc của quốc gia, mới có thể làm chủ xã tắc, ai dám gánh chịu tai họa của quốc gia, mới có thể làm vua thiên hạ.» Lời ngay nghe trái tai.

Chương 79: Phiên âm:

1. Hòa đại oán, tất hữu dư oán. An khả dĩ vi thiện.

2. Thị dĩ thánh nhân, chấp tả khế nhi bất trách ư nhân.

3. Hữu đức tư khế, vô đức tư triệt.

4. Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân.

Dịch xuôi:

1. Hòa được oán lớn, vẫn còn oán thừa, như thế sao gọi là phải được.

2. Cho nên thánh nhân cầm tờ khế ước bên trái, mà không trách người.

3. Kẻ có đức thì thích cho người. Kẻ vô đức thì thích đòi người.

4. Thiên đạo không thân ai, mà thường gia ân cho người lành.

Chương 80: Phiên âm:

1. Tiểu quốc quả dân, sử hữu thập bá chi khí [1] nhi bất dụng.

2. Sử dân trọng tử nhi bất viễn tỉ. Tuy hữu chu dư vô sở thừa chi.

3. Tuy hữu giáp binh, vô sở trần chi.

4. Sử dân phục kết thằng nhi dụng chi.

5. Cam kỳ thực, mỹ kỳ phục, an kỳ cư, lạc kỳ tục.

6. Lân quốc tương vọng. Kê khuyển chi thanh tương văn. Dân chí lão tử, bất tương vãng lai.

Dịch xuôi:

1. Nước nhỏ, dân ít, dù có ít nhiều tôi giỏi, nhưng chưa cần dùng đến.

2. Dạy dân sợ chết, đừng đi xa. Tuy có xe thuyền, mà chẳng khi dùng.

3. Tuy có giáp binh, mà chẳng phô trương.

4. Khiến dân trở lại thắt nút mà dùng.

5. Ăn cho là ngon, mặc cho là đẹp, ở cho là yên, sống cho là sướng.

6. Nước gần, thấy nhau, gà kêu chó cắn đều nghe, dân đến già chết chẳng lui tới nhau.

Chương 81: Phiên âm:

1. Tín ngôn bất mỹ. Mỹ ngôn bất tín. Thiện giả bất biện. Biện giả bất thiện. Tri giả bất bác, bác giả bất tri.

2. Thánh nhân bất tích. Ký dĩ vi nhân, kỷ dũ hữu. Ký dĩ dữ nhân, kỷ dũ đa. Thiên chi đạo, lợi nhi bất hại. Thánh nhân chi đạo vi nhi bất tranh.

Dịch xuôi:

1. Lời chân thành không hoa mỹ. Lời hoa mỹ không chân thành. Người tốt không tranh biện, người tranh biện không tốt. Người biết không học rộng, người học rộng không biết.

2. Thánh nhân không tích trữ. Càng vì người, mình càng có. Càng cho người mình càng thêm nhiều. Đạo trời lợi mà không hại. Đạo thánh nhân làm mà không tranh.

III. ĐẠO ĐỨC KINH Nguyễn Hiến Lê

1

Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh.

Vô, danh thiên địa chi thủy; hữu, danh vạn vật chi mẫu.

Cố thường vô, dục dĩ quan kì diệu; thường hữu, dục dĩ quan kì kiếu.

Thử lưỡng giả, đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn.

*

Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cửu bất biến; tên mà có thể đặt ra để gọi nó [đạo] thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến.

“Không”, là gọi cái bản thủy của trời đất; “Có” là gọi mẹ sinh ra muôn vật.

Cho nên, tự thường đặt vào chỗ “không” là để xét cái thể vi diệu của nó [đạo]; tự thường đặt vào chỗ “có” là để xét cái [dụng] vô biên của nó.

Hai cái đó [không và có] cũng từ đạo ra mà khác tên, đều là huyền diệu.

Huyền diệu rồi lại thêm huyền diệu, đó là cửa của mọi biến hóa kì diệu.

2

Thiên hạ giai tri mĩ chi vi mĩ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ.

Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hoà, tiền hậu tương tuỳ.

Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo; vạn vật tác yên nhi bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, công thành nhi bất cư. Phù duy bất cư, thị dĩ bất khứ.

*

Ai cũng cho cái đẹp là đẹp, do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái xấu; ai cũng cho điều thiện là thiện, do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái ác.

Là vì “có” và “không” sinh lẫn nhau; dễ và khó tạo nên lẫn nhau; ngắn và dài làm rõ lẫn nhau; cao và thấp dựa vào nhau; âm và thanh hòa lẫn nhau; trước và sau theo nhau.

Cho nên, thánh nhân xử sự theo thái độ “vô vi”, dùng thuật “không nói” mà dạy dỗ, để cho vạn vật tự nhiên sinh trưởng mà không can thiệp vào[3], khéo nuôi dưỡng vạn vật mà không chiếm làm của mình, làm mà không cậy khéo, việc thành mà không quan tâm tới. Vì không quan tâm tới nên sự nghiệp mới còn hoài.

3

Bất thượng hiền, sử dân bất tranh; bất quí nan đắc chi hoá, sử dân bất vi đạo; bất hiện khả dục, sử dân tâm bất loạn.

Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kì tâm, thực kì phúc; nhược kì chí, cường kì cốt.

Thường sử dân vô tri vô dục, sử phù trí giả bất cảm vi giả, vi vô vi, tắc vô bất trị.

*

Không trọng người hiền để cho dân không tranh. Không quí của hiếm để cho dân không trộm cướp, không phô bày cái gì gợi lòng ham muốn, để cho lòng dân không loạn.

Cho nên, chính trị của thánh nhân là làm cho dân: lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, tâm chí thì yếu [không ham muốn, không tranh giành], xương cốt thì mạnh.

Khiến cho dân không biết, không muốn, mà bọn trí xảo không dám hành động. Theo chính sách “vô vi” thì mọi việc đều trị.

4

Đạo xung, nhi dụng chi hoặc bất doanh, uyên hề tự vạn vật chi tôn.

Toả kì nhuệ, giải kì phân, hoà kì quang, đồng kì trần; trạm hề tự hoặc tồn.

Ngô bất tri thuỳ chi tử, tượng đế chi tiên.

*

Đạo, bản thể thì hư không mà tác dụng thì cơ hồ vô cùng, nó uyên áo mà tựa như làm chủ tể vạn vật.

Nó không để lộ tinh nhuệ ra, gỡ những rối loạn, che bớt ánh sáng, hòa đồng với trần tục; nó sâu kín [không hiện] mà dường như trường tồn.

Ta không biết nó là con ai; có lẽ nó có trước thượng đế.

5

Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.

Thiên địa chi gian, kì do thác thược hồ! Hư nhi bất khuất, động nhi dũ xuất. Đa ngôn sác cùng, bất như thủ xung.

*

Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó rơm.

Khoảng giữa trời đất như ống bễ, hư không mà không kiệt, càng chuyển động, hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự hư tĩnh.

6

Cốc thần bất tử, thị vị huyền tẫn, huyền tẫn chi môn, thị vị thiên địa căn.

Miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần.

*

Thần hang bất tử, gọi là Huyền Tẫn (Mẹ nhiệm màu); cửa Huyền Tẫn là gốc của trời đất.

Dằng dặc mà như bất tuyệt, tạo thành mọi vật mà không kiệt (hay không mệt).

7

Thiên trường địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kì bất tự sinh, cố năng trường sinh. Thị dĩ thánh nhân hậu kì thân nhi thân tiên, ngoại kì thân nhi thân tồn. Phi dĩ kì vô tư dả[5]? Cố năng thành kì tư. * Trời đất trường cửu. Sở dĩ trời đất trường cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được. Vì vậy thánh nhân đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải vì thánh nhân không tự tư mà thành được việc riêng của mình ư?

8

Thượng thiện nhược thuỷ. Thuỷ thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư đạo. Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời. Phù duy bất tranh, cố vô vưu. * Người thiện vào bậc cao [có đức cao] thì như nước. Nước khéo làm lợi cho vạn vật mà không tranh với vật nào, ở chỗ mọi người ghét (chỗ thấp) cho nên gần với đạo. [Người thiện vào bậc cao] địa vị thì khéo lựa chỗ khiêm nhường, lòng thì khéo giữ cho thâm trầm, cư xử với người thì khéo dùng lòng nhân, nói thì khéo giữ lời, trị dân thì giỏi, làm việc thì có hiệu quả, hành động thì hợp thời cơ. Chỉ vì không tranh với ai, nên không bị lầm lỗi.

9

Trì nhi doanh chi, bất như kì dĩ; suỷ nhi nhuệ chi, bất khả trường bảo. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ; phú quý nhi kiêu, tự di kì cữu. Công thành thân thoái, thiên chi đạo. * Giữ chậu đầy hoài, chẳng bằng thôi đi; mài cho bén nhọn thì không bén lâu. Vàng ngọc đầy nhà, làm sao giữ nổi; giàu sang mà kiêu là tự rước lấy họa. Công thành rồi thì nên lui về, đó là đạo trời.

10

Tải doanh phách bão nhất, năng vô li hồ? Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ? Địch trừ huyền lãm, năng vô tì hồ? Ái quốc trị dân, năng vô vi hồ? Thiên môn khai hạp, năng vi thư hồ? Minh bạch tứ đạt, năng vô tri hồ? Sinh nhi súc chi[7], sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trường nhi bất tể, thị vị huyền đức. * Cho hồn, phách thuần nhất, không rời đạo được không? Cho cái khí tụ lại, mềm mại như đứa trẻ sơ sinh được không? Gột rửa tâm linh cho nó không còn chút bợn được không? Yêu dân trị nước bằng chính sách vô vi được không? Vận dụng cảm quan để giữ hư tĩnh được không? Chân tri sáng rỡ hiểu biết được tất cả mà không dùng tới trí lực được không? [Sinh và dưỡng vạn vật. Sinh mà không chiếm cho mình, làm mà không cậy công, để cho vạn vật tự lớn lên mà mình không làm chủ, như vậy gọi là huyền đức – đức cao nhất, huyền diệu].

11

Tam thập phúc, cộng nhất cốc, đương kì vô, hữu xa chi dụng. Duyên thực dĩ vi khí, đương kì vô, hữu khí chi dụng. Tạc hộ dũ dĩ vi thất, đương kì vô, hữu thất chi dụng. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng. * Ba mươi tay hoa cùng qui vào một cái bầu, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bầu mà xe mới dùng được.Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ khoảng trống ở trong mà chén bát mới dùng được.Đục cửa và cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được. Vậy ta tưởng cái “có” [bầu, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái “không” mới làm cho cái “có” hữu dụng[8].

12

Ngũ sắc linh nhân mục manh; ngũ âm linh nhân nhĩ lung; ngũ vị linh nhân khẩu sảng; trì sính điền liệp linh nhân tâm phát cuồng; nan đắc chi hoá linh nhân hành phương. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục, cố khứ bỉ thủ thử. * Ngũ sắc làm cho người ta mờ mắt; ngũ âm làm cho người ta ù tai; ngũ vị làm cho người ta tê lưỡi; ruổi ngựa săn bắn làm cho lòng người ta mê loạn; vàng bạc châu báu làm cho hành vi người ta đồi bại. Cho nên thánh nhân cầu no bụng mà không cầu vui mắt, bỏ cái này mà lựa cái kia [tức cầu chất phác, vô dục mà bỏ sự xa xỉ, đa dục].

13

[Sủng nhục nhược kinh, quí đại hoạn nhược thân]. Hà vị sủng nhục nhược kinh? Sủng vi thượng, nhục vi hạ, đắc chi nhược kinh, thất chi nhược kinh, thị vị sủng nhục nhược kinh. Hà vị quí đại hoạn nhược thân? Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân, cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn? Cố quý dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả kí thiên hạ; ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả thác thiên hạ. * [Người đời được vinh hay bị nhục thì lòng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn]. Tại sao vinh, nhục sinh ra rối loạn? Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng [mừng rỡ mà] rối loạn, mất thì lòng [rầu rĩ mà] rối loạn; cho nên bảo là vinh nhục sinh ra rối loạn. Tại sao sợ vạ lớn mà sinh ra rối loạn? Chúng ta sở dĩ sợ vạ lớn là vì ta có cái thân. Nếu ta không có thân [quên mình có thân đi] thì còn sợ gì tai vạ nữa. Cho nên người nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ thì có thể giao thiên hạ cho người đó được. Người nào vui vẻ đem thân mình phục vụ thiên hạ thì có thể gởi thiên hạ cho người đó được.

14

Thị chi bất kiến danh viết di; thính chi bất văn danh viết hi; bác chi bất đắc danh viết vi. Thử tam giả bất khả trí cật, cố hỗn nhi vi nhất. Kì thượng bất kiểu, kì hạ bất muội, thằng thằng bất khả danh, phục qui ư vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng, thị vị hốt hoảng. Nghinh chi bất kiến kì thủ, tuỳ chi bất kiến kì hậu. Chấp cổ chi đạo, dĩ ngự kim chi hữu; năng tri cổ thuỷ, thị vị đạo kỉ. * Nhìn không thấy gọi là di, nghe không thấy gọi là hi, nắm không được gọi là vi. Ba cái đó (di, hi, vi, tức vô sắc, vô thanh, vô hình) truy cứu đến cùng cũng không biết gì được, chỉ thấy trộn lộn làm một thôi. Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt, không thể gọi tên, nó lại trở về cõi vô vật, cho nên bảo là cái trạng không có hình trạng, cái tượng không có vật thể. Nó thấp thoáng, mập mờ. Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi. Ai giữ được cái đạo từ xưa vẫn có thì có thể khống chế được mọi sự vật ngày nay; biết được cái nguyên thủy tức là nắm được giềng mối của đạo.

15

Cổ chi thiện vi đạo[1] giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức, cố cưỡng vị chi dung. Dự hề[2], nhược đông thiệp xuyên; do hề, nhược úy tứ lân; nghiễm hề, kì nhược khách[3]; hoán hề, nhược băng chi tương[4] thích; đôn hề, kì nhược phác; khoáng hề, kì nhược cốc; hỗn hề, kì nhược trọc. Thục năng trọc dĩ[5] tĩnh chi từ thanh? Thục năng an dĩ động[6] chi từ sinh? Bảo thử đạo giả, bất dục doanh. Phù duy bất doanh, cố năng tế nhi[7] tân thành. * Người đắc đạo thời xưa tinh tế, mầu nhiệm, thông đạt, sâu xa không thể biết được. Vì không thể biết được, nên phải miễn cưỡng tả họ như sau: Họ rụt rè như mùa đông lội qua sông, nghi ngại như sợ láng giềng bốn bên, nghiêm chỉnh như một người khách, chảy ra, lưu động như băng tan, dày dặn mộc mạc như gỗ chưa đẽo, không hư như cái hang, hỗn độn (lờ đờ) như nước đục. Ai có thể đương đục mà lắng xuống để lần lần trong ra? Ai có thể đương hư tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên? Người nào giữ được đạo ấy thì không tự mãn. Vì không tự mãn nên mới bỏ cái cũ mà canh tân được.

16

Trí hư cực, thủ tĩnh đốc, vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các phục qui kì căn. Qui căn viết tĩnh, thị vị phục mệnh. Phục mệnh viết thường. Tri thường viết minh, bất tri thường vọng tác hung. Tri thường dung, dung nãi công, công nãi toàn, toàn nãi thiên, thiên nãi đạo, đạo nãi cửu, một thân bất đãi. * Hết sức giữ được cực hư, cực tĩnh xem vạn vật sinh trưởng ta thấy được qui luật phản phục [vạn vật từ vô mà sinh ra rồi trở về vô]. Vạn vật phồn thịnh đều trở về căn nguyên của chúng [tức đạo]. Trở về căn nguyên thì tĩnh, [tĩnh là bản tính của mọi vật, cho nên] trở về căn nguyên gọi là “trở về mệnh”. Trở về mệnh là luật bất biến (thường) của vật. Biết luật bất biến thì sáng suốt, không biết luật bất biến thì vọng động mà gây hoạ. Biết luật bất biến thì bao dung, bao dung thì công bình [vô tư], công bình thì bao khắp, bao khắp thì phù hợp với tự nhiên, phù hợp với tự nhiên thì phù hợp với đạo, hợp với đạo thì vĩnh cửu, suốt đời không nguy.

17

Thái thượng, bất tri hữu chi; kì thứ, thân nhi dự chi; kì thứ, uý chi; kì thứ, vũ chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên. Du hề, kì quí ngôn. Công thành sự toại, bách tính giai vị: ngã tự nhiên. * Bậc trị dân giỏi nhất thì dân không biết là có vua, thấp hơn một bực thì dân yêu quí và khen; thấp hơn nữa thì dân sợ; thấp nhất thì bị dân khinh lờn. Vua không đủ thành tín thì dân không tin. Nhàn nhã, ung dung [vì vô vi] mà quí lời nói. Vua công thành, việc xong rồi mà trăm họ đều bảo: “Tự nhiên mình được vậy”.

18

Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa; trí tuệ xuất, hữu đại ngụy; lục thân bất hoà, hữu hiếu từ; quốc gia hôn loạn, hữu trung thần. * Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy; gia đình (cha mẹ, anh em, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ; nước nhà rối loạn mới có tôi trung.

19

Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội; tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ; tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu. Thử tam giả dĩ vi văn bất túc, cố linh hữu sở thuộc[8]: hiện tố bão phác, thiểu tư quả dục. * Dứt thánh (thánh hiểu theo quan niệm Khổng, Mặc) bỏ trí, dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt [trí] xảo bỏ lợi, không có trộm giặc. Ba cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ (trang sức bề ngoài) không đủ (để trị dân) cho nên (phải bỏ mà) khiến cho dân qui (hoặc chuyên chú) về điều này: ngoài thì biểu hiện sự mộc mạc, trong thì giữ sự chất phác, giảm tư tâm, bớt dục vọng.

20

Tuyệt học vô ưu. Duy chi dữ a, tương khứ kỉ hà? Thiện chi dữ ác, tương khứ nhược hà? Nhân chi sở úy, bất khả bất úy. Hoang hề kì vị ương tai! Chúng nhân hi hi, như hưởng thái lao, như xuân đăng đài; ngã độc bạc hề kì vị triệu; như anh nhi chi vị hài; luy luy hề nhược vô sở qui. Chúng nhân giai hữu dư, nhi ngã độc nhược di; ngã ngu nhân chi tâm dã tai, độn độn hề! Tục nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn; tục nhân sát sát, ngã độc muộn muộn, đạm hề kì nhược hải, liêu hề nhược vô chỉ. Chúng nhân giai hữu dĩ, nhi ngã độc ngoan thả bỉ. Ngã độc dị ư nhân, nhi quí thực mẫu. * Dứt học thì không lo. Dạ (giọng kính trọng) với ơi (giọng coi thường) khác nhau bao nhiêu? Thiện với ác khác nhau thế nào? Cái người ta sợ, ta không thể không sợ. Rộng lớn thay, không sao hết được! Mọi người hớn hở như hưởng bữa tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ mới sinh, chưa biết cười; rũ rượi mà đi như không có nhà để về. Mọi người đều có thừa, riêng ta như thiếu thốn; lòng ta ngu muội, đần độn thay! Người đời sáng rõ, riêng ta tối tăm; người đời trong trẻo, riêng ta hỗn độn, như sóng biển nhấp nhô, như gió vèo vèo không ngừng. Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta khác người, mà quí mẹ nuôi muôn loài (tức đạo).

21

Khổng đức chi dung, duy đạo thị tòng. Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt; hốt hề hoảng hề, kì trung hữu tượng; hoảng hề hốt hề, kì trung hữu vật. Yểu hề minh hề, kì trung hữu tinh; kì tinh thậm chân, kì trung hữu tín. Tự cổ cập kim, kì danh bất khứ, dĩ duyệt chúng phủ. Ngô hà dĩ tri chúng phủ chi trạng tai. Dĩ thử. * Những biểu hiện của đức lớn đều tùy theo đạo (vì đạo là bản thể của đức, đức là tác dụng của đạo). Đạo là cái gì chỉ mập mờ, thấp thoáng; thấp thoáng mập mờ mà bên trong có hình tượng; mập mờ, thấp thoáng mà bên trong có vật; nó thâm viễn, tối tăm mà bên trong có cái tinh túy; tinh túy đó rất xác thực, và rất đáng tin. Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo vạn vật. Chúng ta do đâu mà biết được bản nguyên của vạn vật? Do cái đó (tức đạo).

22

Khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh, tệ tắc tân, thiểu tắc đắc, đa tắc hoặc. Thị dĩ thánh nhân bão nhất vi thiên hạ thức. Bất tự hiện cố minh bất tự thị cố chương; bất tự phạt, cố hữu công; bất tự căng cố trướng (hoặc trưởng). Phù duy bất tranh cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. Cổ chi sở vị khúc tắc toàn giả, khởi hư ngôn tai! Thành toàn nhi qui chi. * Cong [chịu khuất] thì sẽ được bảo toàn, queo thì sẽ thẳng ra, trũng thì sẽ đầy, cũ nát thì sẽ mới, ít thì sẽ được thêm, nhiều thì sẽ hóa mê. Vì vậy mà thánh nhân [thánh ở đây hiểu theo quan niệm của Lão] ôm giữ lấy đạo [nhất đây là đạo] làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải cho nên mới chói lọi, không tự kể công cho nên mới có công, không tự phụ cho nên mới trường cửu [hoặc hơn người]. Chỉ vì không tranh với ai cho nên không ai tranh giành với mình được. Người xưa bảo: “Cong thì sẽ được bảo toàn”, đâu phải hư ngôn! Nên chân thành giữ vẹn cái đạo mà về với nó.

23

Hi ngôn tự nhiên. Cố phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật. Thục vi thử giả? Thiên địa. Thiên địa thượng bất năng cửu, nhi huống ư nhân hồ? Cố tòng sự ư đạo giả, đồng ư đạo; đức giả, đồng ư đức; thất giả, đồng ư thất. Đồng ư đạo giả, đạo diệc lạc đắc chi; đồng ư đức giả, đức diệc lạc đắc chi; đồng ư thất giả, thất diệc lạc đắc chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên. * Ít nói thì hợp với tự nhiên (với đạo). Cho nên gió lốc không hết buổi sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm nên những cái ấy? Trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là người? Cho nên theo đạo thì sẽ hòa đồng với đạo; theo đức thì sẽ hòa đồng với đức; theo sự mất đạo mất đức thì sẽ là một với “mất”. Hòa đồng với đạo thì sẽ vui được đạo; hòa đồng với đức thì sẽ vui được đức; là một với “mất” thì sẽ vui với “mất”. Vua không đủ thành tín thì dân không tin.

24

Xí giả bất lập, khoá giả bất hành. Tự hiện giả bất minh, tự thị giả bất chương, tự phạt giả bất công, tự khoa giả bất trường. Kì ư đạo dã viết: dư thực chuế hành, vật hoặc ố chi, cố hữu đạo giả bất xử. * Kẻ kiểng chân không đứng được (vững), kẻ xoạc cẳng không đi được (lâu), kẻ tự biểu hiện thì không sáng tỏ, kẻ tự cho là phải thì không chói lọi, kẻ tự kể công thì không có công, kẻ tự phụ thì không trường cửu. Đối với đạo thì những thái độ đó là “những đồ ăn thừa, những cục bướu, ai cũng ghét”. Cho nên kẻ theo đạo không làm như vậy.

25

Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên địa mẫu. Ngô bất tri kì danh, tự chi viết đạo, cưỡng vị chi danh viết đại. Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản. Cố đạo đại, thiên đại, địa đại, nhân diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kì nhất yên. Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên. * Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết nó là gì, tạm đặt tên nó là đạo, miễn cưỡng gọi nó là lớn (vô cùng). Lớn (vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì đi xa, đi xa thì trở về (qui căn). Cho nên đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà người là một. Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên.

26

Trọng vi khinh căn, tĩnh vi táo quân. Thị dĩ thánh nhân chung nhật hành bất li tri[13] trọng. Tuy hữu vinh quan, yến xử siêu nhiên. Nại hà vạn thặng chi chủ, nhi dĩ thân khinh thiên hạ? Khinh tắc thất căn, táo tắc thất quân. * Nặng là gốc rễ của nhẹ, tĩnh là chủ của náo động. Cho nên thánh nhân (tức vua) suốt ngày đi không lìa xe chở đồ dùng (nặng) tuy được sự sang đẹp mà lòng nhàn tĩnh vượt lên cả (coi thường ngoại vật). Ông vua một nước có vạn cỗ xe (một nước lớn) sao lại có thể lấy thân coi nhẹ thiên hạ? Nhẹ thì mất gốc rễ, náo động thì mất chủ.

27

Thiện hành vô triệt tích, thiện ngôn vô hà trích, thiện số bất dụng trù sách, thiện bế vô quan kiện nhi bất khả khai, thiện kết vô thằng ước nhi bất khả giải. Thị dĩ thánh nhân thường thiện cứu nhân, cố vô khí nhân; thường thiện cứu vật, cố vô khí vật, thị vị tập minh. Cố thiện nhân giả, bất thiện nhân chi sư; bất thiện nhân giả, thiện nhân chi tư. Bất quí kì sư, bất ái kì tư, tuy trí đại mê. Thị vị yếu diệu. * Khéo đi thì không để lại dấu xe, vết chân; khéo nói thì không có lỗi lầm; khéo tính thì không dùng thẻ; khéo đóng thì không dùng then, róng mà mở không được; khéo buộc thì không dùng dây mà cởi không được. Cho nên thánh nhân giỏi cứu người mà không ai bị bỏ; giỏi cứu vật mà không vật nào bị bỏ. Như vậy là sáng lòng [đức của mình và của người và vật cùng nhau sáng tỏ]. Cho nên người thiện [người đắc đạo] là thầy của người không thiện [người không đắc đạo, người thường]; người không thiện là của dùng để người thiện mượn. Không trọng thầy, không yêu của dùng thì dù cho khôn cũng là lầm lẫn lớn. Thế gọi là cốt yếu, nhiệm màu.

28

Tri kì hùng, thủ kì thư, vi thiên hạ khê; vi thiên hạ khê, thường đức bất li, phục qui ư anh nhi. Tri kì bạch, thủ kì hắc, vi thiên hạ thức; vi thiên hạ thức, thường đức bất thắc, phục qui ư vô cực. Tri kì vinh, thủ kì nhục, vi thiên hạ cốc; vi thiên hạ cốc, thường đức nãi túc, phục qui ư phác. Phác tán tắc vi khí, thánh nhân dụng chi, tắc vi quan trưởng, cố đại chế thập bất cát. * Biết trống (nam tính), giữ mái (nữ tính), làm khe nước cho thiên hạ, làm khe nước cho thiên hạ, thì cái đức vĩnh cửu bất biến sẽ không mất mà trở về trẻ thơ (hồn nhiên). Biết trắng, giữ đen, làm phép tắc cho thiên hạ; làm phép tắc cho thiên hạ thì cái đức vĩnh cửu bất biến sẽ không sai lạc, mà trở về với vô cực (bản thể của đạo). Biết vinh, giữ nhục, làm cái hay cho thiên hạ; làm cái hay cho thiên hạ thì cái đức vĩnh cửu bất biến sẽ đầy đủ, mà trở về mộc mạc như gỗ chưa đẽo. Gỗ chưa đẽo, xẻ ra thành đồ dùng; thánh nhân giữ thuần phác mà điều khiển trăm quan, cho nên người giỏi trị nước không chia cắt chi li.

29

Tương dục thủ thiên hạ nhi vi chi, ngô kiến kì bất đắc dĩ. Thiên hạ thần khí, bất khả vi dã, bất khả chấp dã. Vi giả bại chi, chấp giả thất chi. Cố vật hoặc hành hoặc tuỳ, hoặc hư hoặc xuy, hoặc cường hoặc luy, hoặc toả[14] hoặc huy. Thị dĩ thánh nhân khứ thậm, khứ xa, khứ thái. * Muốn trị thiên hạ mà hữu vi thì ta biết là không thể được rồi. Thiên hạ là một đồ vật thần diệu, không thể hữu vi, không thể cố chấp được. Hữu vi thì làm cho thiên hạ hỏng, cố chấp thì mất thiên hạ. Sinh vật (người) hoặc đi trước (tích cực) hoặc đi theo (tiêu cực), hoặc hà hơi (cho ấm) hoặc thở (cho nguội), hoặc mạnh hoặc yếu, hoặc an hoặc nguy. Cho nên thánh nhân bỏ những cái gì thái quá.

30

Dĩ đạo tá nhân chủ giả, bất dĩ binh cường thiên hạ. Kì sự hảo hoàn. Sư chi sở xử, kinh cức sanh yên. Đại quân chi hậu, tất hữu hung niên. Thiện giả quả nhi dĩ, bất cảm dĩ thủ cường. Quả nhi vật căng, quả nhi vật phạt, quả nhi vật kiêu, quả nhi bất đắc dĩ, quả nhi vật cường. Vật tráng tắc lão, thị vị bất đạo, bất đạo tảo dĩ. * Người giữ đạo mà phò vua thì không dùng binh lực để mạnh hơn thiên hạ. Vì việc như vậy thường hay quay ngược trở lại [hiếu chiến thì lại chết vì chiến tranh]. Quân đội đóng ở đâu, gai góc mọc ở đấy. Sau trận chiến tranh lớn, tất bị mất mùa. Người khéo dùng binh hễ có hiệu quả, đạt được mục đích thì thôi, không dám ỷ mạnh hơn thiên hạ. Đạt được mục đích mà không tự phụ, đạt được mục đích mà không khoe công, đạt được mục đích mà không kiêu căng, đạt được mục đích mà bất đắc dĩ, đạt được mục đích mà không lấy làm mạnh. Vật gì cũng vậy, cường tráng rồi thì sẽ già, như vậy cường tráng là không hợp với đạo. Không hợp đạo thì sớm chết.

31

Phù giai binh giả, bất tường chi khí. Vật hoặc ố chi, cố hữu đạo giả bất xử. Quân tử cư tắc quí tả, dụng binh tắc quí hữu; [Binh giả bất tường chi khí, phi quân tử chi khí, bất đắc dĩ nhi dụng chi, điềm đạm vi thượng. Thắng nhi bất mĩ, nhi mĩ chi giả, thị lạc sát nhân. Phù lạc sát nhân giả, tắc bất khả đắc chí ư thiên hạ hĩ]. Cát sự thượng tả, hung sự thượng hữu. Thiên tướng quân cư tả, thượng tướng quân cư hữu, ngôn dĩ tang lễ xử chi. Sát nhân chi chúng, dĩ bi ai khấp chi, chiến thắng dĩ tang lễ xử chi. * Vì binh khí là vật bất tường (chẳng lành, gây họa), ai cũng ghét cho nên người giữ đạo không thích dùng nó. Người quân tử ở nhà thì trọng bên trái, khi dùng binh thì trọng bên phải. [Binh khí là vật bất tường, không phải là của người quân tử, cho nên bất đắc dĩ phải dùng nó, mà dùng đến thì điềm đạm (bình tĩnh, giữ được hòa khí, tránh cực đoan) là hơn cả. Thắng cũng không cho là hay, nếu cho là hay tức là thích giết người. Kẻ nào thích giết người thì không thực hiện được lí tưởng trị thiên hạ]. Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trong bên phải. Phó tướng ở bên trái, thượng tướng ở bên phải, như vậy có nghĩa là coi việc dùng binh như một tang lễ. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc; chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử.

32

Đạo thường vô danh, phác,tuy tiểu, thiên hạ mạc năng thần dã. Vương hầu nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự tân. Thiên địa tương hợp, dĩ giáng cam lộ, dân mạc chi linh nhi tự quân. Thủy chế hữu danh, danh diệc kí hữu, phù diệc tương tri chỉ. Tri sở chỉ khả dĩ bất đãi. Thí đạo chi tại thiên hạ, do xuyên cố chi dữ giang hải. * Đạo vĩnh viễn không có tên, chất phác, tuy ẩn vi mà thiên hạ không ai coi thường nó được [coi nó như bề tôi được]. Các bậc vương hầu biết giữ nó, thì vạn vật sẽ tự động qui phục. Trời đất hòa hợp với nhau cho móc ngọt rơi xuống, nhân dân không ra lệnh cho móc ngọt mà tự nó điều hòa. Đạo sáng tạo vật rồi vạn vật mới có danh phận, khi đã có danh phận rồi thì nên biết ngừng lại; vì biết ngừng lại cho nên mới không nguy. Đạo đối với thiên hạ cũng giống như sông biển đối với suối khe.

33

Tri nhân giả trí, tự tri giả minh. Thắng nhân giả lực, tự thắng giả cường. Tri túc giả phú, cường [hoặc cưỡng] hành giả hữu chí. Bất thất kì sở giả cửu, tử nhi bất vong giả thọ. * Kẻ biết người là người khôn, kẻ tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Kẻ tri túc (biết thế nào là đủ) là người giàu; kẻ mạnh mẽ [hoặc gắng sức] làm là người có chí. Không rời nơi chốn của mình [tức đạo] thì được lâu dài; chết mà không mất [đạo] là trường thọ.

34

Đại đạo phiếm hề, kì khả tả hữu. Vạn vật thị chi nhi sinh nhi bất từ, công thành nhi bất hữu, y dưỡng vạn vật nhi bất chủ. Thường vô dục, khả danh ư tiểu; vạn vật qui yên nhi bất chủ, khả danh vi đại. Dĩ kì chung bất tự vi đại, cố năng thành kì đại. * Đạo lớn lan tràn khắp có thể qua bên trái, qua bên phải. Vạn vật nhờ nó mà sinh trưởng mà nó không can thiệp vào, công thành rồi mà không nhận là của mình; nó nuôi dưỡng vạn vật mà không làm chủ vạn vật. Nó vĩnh viễn là “không”, vô vi, cho nên có thể bảo nó là ẩn vi, [vô hình]; muôn vật qui về nó mà nó không làm chủ, cho nên có thể bảo nó là lớn. Vì cho tới cùng, nó không tự nhận nó là lớn cho nên mới hoàn thành được cái vĩ đại của nó.

35

Chấp đại tượng, thiên hạ vãng. Vãng nhi bất hại, an bình thái. Nhạc dữ nhị, quá khách chỉ. Đạo chi xuất khẩu, đạm hồ kì vô vị, thị chi bất túc kiến, thính chi bất túc văn,dụng chi bất túc kí. * [Bậc vua chúa] giữ đạo lớn thì thiên hạ tới qui phục; qui phục mà không hại, được an lạc thái bình. Âm nhạc với mĩ vị làm cho khách qua đường ngừng lại; còn đạo mà nói ra thì nó nhạt nhẽo, vô vị; nhìn kĩ nó không thấy, lắng nghe cũng không thấy, nhưng dùng nó thì không bao giờ hết.

36

Tương dục hấp chi, tất cố trương chi. Tương dục nhược chi, tất cố cường chi. Tương dục phế chi, tất cố cử chi. Tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi. Thị vị vi minh. Nhu nhược thắng cương cường. Ngư bất khả thoát ư uyên; quốc chi lợi khí bất khả dĩ thị nhân. * Muốn cho vật gì thu rút lại thì tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. [Hiểu] như vậy là sâu kín mà sáng suốt. Vì nhu nhược thắng được cương cường. Cá không nên rời khỏi vực. Lợi khí của nước không nên khoe cho dân thấy.

37

Đạo thường vô vi nhi vô bất vi, hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự hóa. Hóa nhi dục tác, ngô tương trấn chi dĩ vô danh chi phác. (Vô danh chi phác). Phù diệc tương vô dục. Bất dục dĩ tĩnh, thiên hạ tương tự định. * Đạo vĩnh cửu thì không làm gì (vô vi – vì là tự nhiên) mà không gì không làm (vô bất vi – vì vạn vật nhờ nó mà sinh, mà lớn); bậc vua chúa giữ được đạo thì vạn vật sẽ tự biến hóa (sinh, lớn). Trong quá trình biến hóa, tư dục của chúng phát ra thì ta dùng cái mộc mạc vô danh (tức bản chất của đạo) mà trấn áp hiện tượng đó, khiến cho vạn vật không còn tư dục nữa. Không còn tư dục mà trầm tĩnh thì thiên hạ sẽ tự ổn định.

38

Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức; hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức. Thượng đức vô vi nhi vô dĩ vi; hạ đức vô vi nhi hữu dĩ vi. Thượng nhân vi chi nhi vô dĩ vi; thượng nghĩa vi chi nhi hữu dĩ vi. Thượng lễ vi chi nhi mạc chi ứng, tắc nhương tí nhi nhưng chi. Cố thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi hậu lễ. Phù lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ. Tiền thức giả đạo chi hoa, nhi ngu chi thủy. Thị dĩ đại trượng phu xử kì hậu, bất cư kì bạc, xử kì thực, bất cư kì hoa. Cố khứ bỉ thủ thử. * Người có đức cao thì [thuận theo tự nhiên] không có ý cầu đức, cho nên có đức; người có đức thấp thì có ý cầu đức, cho nên không có đức. Người có đức cao thì vô vi [không làm] mà không có ý làm [nghĩa là không cố ý vội vì cứ thuận theo tự nhiên]; người có đức thấp cũng vô vi, mà có ý làm [nghĩa là cố ý vô vi]. Người có đức nhân cao thì [do lòng thành mà] làm điều nhân, chứ không có ý làm [không nhắm một mục đích gì]; người có lòng nghĩa cao thì làm điều nghĩa mà có ý làm [vì so sánh điều nên làm – điều nghĩa – với điều không nên làm]; người có đức lễ cao thì giữ lễ nghi, và nếu không được đáp lại thì đưa cánh tay ra kéo người ta bắt phải giữ lễ nghi như mình. Cho nên đạo mất rồi sau mới có đức (đức ở đây hiểu theo nghĩa nguyên lí của mỗi vật), đức mất rồi sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là biểu hiện sự suy vi của sự trung hậu thành tín, là đầu mối của sự hỗn loạn. Dùng trí tuệ để tính toán trước, thì [mất cái chất phác] chỉ là cái lòe loẹt [cái hoa] của đạo, mà là nguồn gốc của ngu muội. Cho nên bậc đại trượng phu [người hiểu đạo] giữ trung hậu thành tín mà không trọng lễ nghi, giữ đạo mà không dùng trí xảo, bỏ cái này mà giữ cái kia.

39

Tích chi đắc nhất giả: thiên đắc nhất dĩ thanh, địa đắc nhất dĩ ninh, thần đắc nhất dĩ linh, cốc đắc nhất dĩ doanh, vạn vật đắc nhất dĩ sinh, hầu vương đắc nhất dĩ vi thiên hạ trinh. Kì trí chi. Thiên vô dĩ thanh tương khủng liệt, địa vô dĩ ninh tương khủng phế, thần vô dĩ linh tương khủng yết[3], cốc vô dĩ doanh tương khủng kiệt, vạn vật vô dĩ sinh tương khủng diệt, hầu vương vô dĩ quí cao tương khủng quyết. Cố quí dĩ tiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ. Thị dĩ hầu vương tự vị cô, quả, bất cốc. Thử phi dĩ tiện vi bản dả? Phi dư? Cố trí dự vô dự, bất dục lục lục như ngọc, lạc lạc như thạch. * Đây là những vật xưa kia được đạo: trời được đạo mà trong, đất được đạo mà yên, thần được đạo mà linh, khe ngòi được đạo mà đầy, vạn vật được đạo mà sinh, vua chúa được đạo mà làm chuẩn tắc cho thiên hạ. Những cái đó đều nhờ đạo mà được vậy. Nếu trời không trong thì sẽ vỡ, đất không yên thì sẽ lở, thần không linh sẽ tan mất, khe ngòi không đầy thì sẽ cạn, vạn vật không sinh thì sẽ diệt, vua chúa không cao quí thì sẽ mất ngôi. Sang lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền. Cho nên vua chúa mới tự xưng là “côi cút” (cô), “ít đức” (quả), “không tốt” (bất cốc) [đều là những lời khiêm tốn]. Như vậy, chẳng phải là lấy hèn làm gốc đấy ư? Không phải vậy chăng? Cho nên không được khen tức là được lời khen cao quí nhất. Không muốn được quí như ngọc, bị khi như sỏi

40

Phản giả đạo chi động, nhược giả đạo chi dụng. Thiên địa vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô. * Luật vận hành của đạo là trở lại lúc đầu [trở lại gốc], diệu dụng của đạo là khiêm nhu. Vạn vật trong thiên hạ từ “có” mà sinh ra; “có” lại từ “không” mà sinh ra.

41

Thượng sĩ văn đạo, cần nhi hành chi; trung sĩ văn đạo, nhược tồn nhược vong; hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vi đạo. Cố kiến ngôn hữu chi: minh đạo nhược muội,tiến đạo nhược thối, di đạo nhược loại[4]; thượng đức nhược cốc, đại bạch nhược nhục, quảng đức nhược bất túc, kiến đức nhược thâu; chất đức nhược du. Đại phương vô ngung, đại khí vãn thành, đại âm hi thanh; đại tượng vô hình, đạo ẩn vô danh. Phù duy đạo, thiện thải thả thành. * Bậc thượng sĩ [sáng suốt] nghe đạo [hiểu được] thì gắng sức thi hành; kẻ tầm thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ; kẻ tối tăm nghe đạo [cho là hoang đường] thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa. Cho nên sách xưa có nói: đạo sáng thì dường như tối tăm, đạo tiến thì dường như thụt lùi, đạo bằng phẳng dễ dàng thì dường như khúc mắc; đức cao thì dường như thấp trũng; cao khiết thì dường như nhục nhã [hoặc thật trong trắng thì dường như nhơ bẩn], đức rộng lớn thì dường như không đủ, đức mạnh mẽ thì dường như biếng nhác, đức chất phác thì dường như không hư [có người dịch là hay thay đổi]. Hình vuông cực lớn thì không có góc [nói về không gian, nó không có góc vì không biết góc nó đâu]; cái khí cụ cực lớn [đạo] thì không có hình trạng cố định; thanh âm cực lớn thì nghe không thấy, hình tượng cực lớn thì trông không thấy, đạo lớn thì ẩn vi, không thể giảng được [không gọi tên được]. Chỉ có đạo là khéo sinh và tác thành vạn vật.

42

Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sanh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão dương, trùng khí dĩ vi hòa. Nhân chi sở ố, duy “cô”, “quả”, “bất cốc”. Nhi vương công dĩ vi xưng. Cố, vật hoặc tổn chi nhi ích, hoặc ích chi nhi tổn. Nhân chi sở giáo, ngã diệc giáo chi, lương cường giả bất đắc kì tử, ngô tương dĩ vi giáo phụ. * Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh vạn vật. Vạn vật đều cõng âm mà ôm dương, điều hòa bằng khí trùng hư. Điều mà, mọi người ghét là “côi cút”, “ít đức”, “không tốt”, vậy mà các vương công dùng những tiếng đó để tự xưng. Cho nên vật có khi bớt đi mà lại là thêm lên, có khi thêm lên mà hóa ra bớt đi. Có một lời mà người xưa dạy, nay tôi cũng dùng để dạy lại, là “cường bạo thì sẽ bất đắc kì tử”. Tôi cho lời đó là lời khuyên chủ yếu.

43

Thiên hạ chi chí nhu trì sính thiên hạ chi chí kiên. Vô hữu nhập vô gian. Ngô thị dĩ tri vô vi chi hữu ích. Bất ngôn chi giáo, vô vi chi ích, thiên hạ hi cập chi. * Trong thiên hạ, cái cực mềm thì chế ngự được cái cực cứng [như nước xoi mòn được đá]; cái “không có” lại len vô được không có kẽ hở [như không khí len vô được những chất đá, gỗ cứng mà trông bề ngoài ta không thấy kẽ hở]. Do đó mà tôi biết “vô vi” là có ích. Dạy mà không dùng lời, cái ích lợi của vô vi, người đời ít ai hiểu kịp.

44

Danh dữ thân thục thân? Thân dữ hóa thục đa? Đắc dữ vong thục bệnh? Thị cố thậm ái tất đại phí, đa tàng tất hậu vong. Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi, khả dĩ trường cửu. * Danh tiếng với sinh mệnh cái nào quí? Sinh mệnh với của cải cái nào quan trọng? Được danh lợi mà mất sinh mệnh, cái nào hại? Cho nên ham danh quá thì phải hao tổn nhiều, chứa của cải nhiều thì mất mát nhiều. Biết thế nào là đủ (tri túc) thì không nhục, biết lúc nào nên ngừng thì không nguy mà có thể sống lâu được.

45

Đại thành nhược khuyết, kì dụng bất tệ; đại doanh nhược xung, kì dụng bất cùng; đại trực nhược khuất, đại xảo nhược chuyết, đại biện nhược nột. Tĩnh thắng táo, hàn thắng nhiệt, thanh tĩnh vi thiên hạ chính. * Cái gì hoàn toàn thì dường như khiếm khuyết mà công dụng lại không bao giờ hết; cái gì cực đầy thì dường như hư không mà công dụng lại vô cùng; cực thẳng thì dường như cong, cực khéo thì dường như vụng, ăn nói cực khéo thì dường như ấp úng. Tĩnh thắng động, lạnh thắng nóng, thanh tĩnh [vô vi] là chuẩn tắc trong thiên hạ.

46

Thiên hạ hữu đạo, khước tẩu mã dĩ phẩn; thiên hạ vô đạo, nhung mã sinh ư giao. Họa mạc đại ư bất tri túc, cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ. * Thiên hạ có đạo [các nước không gây chiến với nhau] thì ngựa tốt không dùng vào chiến tranh mà dùng vào việc cày cấy; thiên hạ vô đạo thì ngựa dùng vào chiến tranh và ngựa mẹ sinh con ở chiến trường [mà không sinh ở nhà]. [Do đó mà xét thì] họa không gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại không gì bằng tham muốn cho được nhiều [đi chiếm nước ngoài] cho nên biết thế nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì mới luôn luôn đủ.

47

Bất xuất hộ, tri thiên hạ, bất khuy dũ, kiến thiên đạo. Kì xuất di viễn, kì tri di thiểu. Thị dĩ thánh nhân bất hành nhi tri; bất kiến nhi danh; bất vi nhi thành. * Không ra khỏi cửa mà biết được [sự lí trong] thiên hạ; không dòm ra ngoài cửa mà biết được đạo trời. Càng đi xa càng biết được ít. Cho nên thánh nhân không đi mà biết, không nhìn mà thấy rõ, không làm mà nên.

48

Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi. Vô vi nhi vô bất vi. Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự, cập kì hữu sự, bất túc dĩ thủ thiên hạ. * Theo học [hiểu theo nghĩa thường] thì mỗi ngày [dục vọng và tinh thần hữu vi] một tăng; theo đạo thì mỗi ngày [dục vọng và tinh thần hữu vi] một giảm. Giảm rồi lại giảm cho tới mức vô vi, không làm. Không làm mà không gì là không làm. Trị thiên hạ thì nên vô vi, còn như hữu vi thì không trị được thiên hạ.

49

Thánh nhân vô thường tâm, dĩ bách tính tâm vi tâm. Thiện giả ngô thiện chi, bất thiện giả ngô diệc thiện chi, đức thiện. Tín giả ngô tín chi, bất tín giả ngô diệc tín chi, đức tín. Thánh nhân tại thiên hạ, hấp hấp yên, vi thiên hạ, hồn kì tâm. Bách tính giai chú kì nhĩ mục, thánh nhân giai hài chi. * Thánh nhân không có thành kiến, lấy lòng thiên hạ làm lòng mình. Thánh nhân tốt với người tốt, tốt cả với những người không tốt, nhờ vậy mà mọi người đều hoá ra tốt; tin người đáng tin mà tin cả người không đáng tin, nhờ vậy mà mọi người đều hoá ra đáng tin. Thánh nhân ở trong thiên hạ thì vô tư vô dục, trị thiên hạ thì để lòng mình hồn nhiên. Trăm họ đều chăm chú nghe nhìn thánh nhân, thánh nhân đều coi họ như con trẻ.

50

Xuất sinh nhập tử. Sinh chi đồ thập hữu tam, tử chi đồ thập hữu tam, nhân chi sinh, động chi tử địa, diệc thập hữu tam. Phù hà cố? Dĩ kì sinh sinh chi hậu. Cái văn thiện nhiếp sinh giả, lục hành bất ngộ huỷ hổ, nhập quân bất bị binh giáp. Huỷ vô sở đầu kì giác, hổ vô sở thố kì trảo; binh vô sở dung[6] kì nhẫn. Phù hà cố? Dĩ kì vô tử địa. * Ra [đời] gọi là sống, vô [đất] gọi là chết, cứ 10 người ra đời thì 3 người bẩm sinh được sống lâu[8], 3 người bẩm sinh chết yểu[9], 3 người có thể sống lâu được nhưng chết sớm [vì không biết dưỡng sinh]. Như vậy là vì đâu? Vì họ (hạng thứ ba) tự phụng dưỡng quá hậu (hưởng thụ thái quá)[10]. Tôi từng nghe nói người khéo dưỡng sinh thì đi đường không gặp con tê ngưu, con hổ, ở trong quân đội thì không bị thương vì binh khí. Con tê ngưu không dùng sừng húc, con hổ không dùng móng vồ, binh khí không đâm người đó được. Tại sao vậy? Tại người đó [khéo dưỡng sinh] không tiến vào tử địa.

51

Đạo sinh chi, đức súc chi, vật hình chi, thế thành chi. Thị dĩ vạn vật mạc bất tôn đạo nhi quí đức. Đạo chi tôn, đức chi quí, phù mạc chi mệnh nhi thường tự nhiên. Cố đạo sinh chi, đức súc chi, truởng chi, dục chi, đình chi, độc chi, dưỡng chi, phú chi. Sinh nhi bất hữu; vi nhi bất thị; trưởng nhi bất tể. Thị vị huyền đức. * Đạo sinh ra vạn vật [vì là tổng nguyên lí], đức bao bọc mỗi vật [vì là nguyên lí của mỗi vật], vật chất khiến cho mỗi vật hình thành, hoàn cảnh [khí hậu, thuỷ thổ] hoàn thành mỗi vật. Vì vậy mà vạn vật đều tôn sùng đạo và quí đức. Đạo sở dĩ được tôn sùng, đức sở dĩ được quí là vì đạo và đức không can thiệp, chi phối vạn vật mà để vạn vật tự nhiên phát triển.

52

Thiên hạ hữu thuỷ, dĩ vi thiên hạ mẫu. Kí đắc kì mẫu, dĩ tri kì tử, kí tri kì tử, phúc thủ kì mẫu, một thân bất đãi. Tắc kì đoài, bế kì môn, chung thân bất cần; khai kì đoài, tế kì sự, chung thân bất cứu. Kiến tiểu viết minh; thủ nhu viết cường. Dụng kì quang, phục qui kì minh, vô di thân ương. Thị vi tập thường. * Vạn vật có nguồn gốc (đạo), nguồn gốc đó là mẹ của vạn vật. Nắm được mẹ [hiểu được đạo] là biết con [vạn vật]; đã biết được con mà lại giữ được mẹ thì suốt đời không nguy. Ngăn hết các lối [tai, mắt, mũi, miệng], đóng hết các cửa [tức đừng để cho cảm quan gây dục vọng, cứ giữ lòng hư tĩnh] thì suốt đời không lo lắng; mở các đường lối, giúp cho dục vọng phát sinh, thì suốt đời không cứu được. Thấy cái ẩn vi [đạo] thì gọi là sáng, giữ được nhu nhược [đạo] thì gọi là mạnh. Dùng được ánh sáng [tức biết được vạn vật, được con] mà phục hồi được sự sáng [tức giữ được mẹ, được đạo] thì không bị tai hoạ. Như vậy là theo được đạo vĩnh cửu.

53

Sử ngã giới nhiên hữu tri, hành ư đại đạo, duy thi thị uý. Đại đạo thậm di nhi dân hiếu kính. Triều thậm trừ, điền thậm vu, sương[13] thậm hư; phục văn thái, đái lợi kiếm, yếm ẩm thực, tài hoá hữu dư, thị vị đạo khoa, phi đạo dã tai! * Nếu ta hốt nhiên hiểu biết thì ta đi theo con đường lớn, chỉ sợ con đường tà. Đường lớn thật bằng phẳng, mà ta lại thích con đường nhỏ quanh co. Triều đình thật ô uế, đồng ruộng thật hoang vu, kho lẫm thật trống rỗng; mà họ bận áo gấm thêu, đeo kiếm sắc, ăn uống chán mứa, của cải thừa thãi. Như vậy là trộm cướp chứ đâu phải là hợp đạo!

54

Thiện kiến giả bất bạt, thiện bão giả bất thoát. Tử tôn dĩ tế tự bất chuyết. Tu chi ư thân, kì đức nãi chân; tu chi ư gia, kì đức nãi dư; tu chi ư hương, kì đức nãi trường; tu chi ư bang, kì đức nãi phong; tu chi ư thiên hạ, kì đức nãi phổ. Cố dĩ thân quan thân, dĩ gia quan gia, dĩ hương quan hương, dĩ bang quan bang, dĩ thiên hạ quan thiên hạ. Ngô hà dĩ tri thiên hạ nhiên tai? Dĩ thử. * Khéo dựng thì không thể nhổ lên được, khéo ôm thì không thoát ra được, con cháu mà khéo dựng, khéo ôm thì việc tế tự [tôn miếu, xã tắc] sẽ đời đời không dứt. Lấy đạo mà tu thân thì đức sẽ đầy đủ; lấy đạo mà lo việc nhà thì đức sẽ có dư; lấy đạo mà lo việc làng xóm thì đức sẽ lớn ra; lấy đạo mà lo việc nước thì đức sẽ thịnh; lấy đạo mà lo việc thiên hạ thì đức sẽ phổ cập. Lấy thân mình mà xét thân người, nhà mình mà xét nhà người, làng mình mà xét làng khác, nước mình mà xét nước khác, thiên hạ ngày nay mà xét thiên hạ thời xưa và thời sau. Làm sao ta biết được thiên hạ thế này hay thế khác? Là do lẽ đó.

55

Hàm đức chi hậu, tỉ ư xích tử. Độc trùng bất thích, mãnh thú bất cứ; quắc điểu bất bác. Cốt nhược, cân nhu nhi ác cố, vị tri tẫn mẫu chi hợp nhi tôi tác[15], tinh chi chí dã. Chung nhật hào nhi bất sá, hoà chi chí dã. Tri hoà viết thường, tri thường viết minh. Ích sinh viết tường. Tâm sử khí viết cường. Vật tráng tắc lão, thị vị bất đạo, bất đạo tảo dĩ. * Người nào có đức dày thì như con đỏ. Độc trùng không chích, mãnh hổ không vồ, ác điểu không quắp. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, chưa biết giao hợp mà con cu dựng đứng, như vậy là tinh khí sung túc. Suốt ngày gào hét mà giọng không khản, như vậy là khí cực hoà. Biết “hoà” thì gọi là bất biến (thường), biết bất biến thì gọi là “sáng”. Túng dục tham sinh thì gọi là hoạ. Để cho lòng [dục] sai khiến cái “khí” thì gọi là “cường”. Vật nào cường tráng thì sẽ già, như vậy là không hợp đạo, không hợp đạo thì sớm chết.

56

Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất tri. Tắc kì đoài, bế kì môn, toả kì nhuệ, giải kì phân, hoà kì quang, đồng kì trần. Thị vị huyền đồng. Cố bất khả đắc nhi thân; bất khả đắc nhi sơ; bất khả đắc nhi lợi; bất khả đắc nhi hại; bất khả đắc nhi quí; bất khả đắc nhi tiện. Cố vi thiên hạ quí. * Người nào biết [đạo] thì không nói [về đạo], người nào nói thì không biết. Ngăn hết các lối, đóng hết các cửa (coi chương 52), không để lộ sự tinh nhuệ ra, gỡ những rối loạn, che bớt ánh sáng, hoà với trần tục (coi chương 4), như vậy gọi là “huyền đồng” (hoà đồng với vạn vật một cách hoàn toàn). [Đạt tới cảnh giới đó thì] không ai thân, cũng không có ai sơ với mình được (vì mình đã ngăn hết các lối, đóng hết các cửa, bỏ dục vọng, giữ lòng hư tĩnh); không ai làm cho mình được lợi hay bị hại (vì mình không để lộ sự tinh nhuệ, gỡ những rối loạn, giữ sự giản phác); không ai làm cho mình cao quí hay đê tiện được (vì mình đã che bớt ánh sáng, hoà đồng với trần tục). Vì vậy mà tôn quí nhất trong thiên hạ.

57

Dĩ chính trị quốc, dĩ kì dụng binh, dĩ vô sự thủ thiên hạ. Ngô hà dĩ tri kì nhiên tai? Dĩ thử: Thiên hạ đa kị huý nhi dân di bần; triều đa lợi khí, quốc gia tư hôn; nhân đa kĩ xảo, kì vật tư khởi; pháp lệnh tư chương, đạo tặc đa hữu. Cố thánh nhân vân: ngã vô vi nhi dân tự hoá, ngã hiếu tĩnh nhi dân tự chính, ngã vô sự nhi dân tự phú; ngã vô dục nhi dân tự phác. * Dùng chính trị mà trị nước, dùng thuật kì mà tác chiến, [nhưng cả hai cách đó đều không thích hợp], chỉ vô sự mới được thiên hạ. Do đâu mà biết được như vậy? Do lẽ này: Thiên hạ mà có nhiều lệnh cấm thì nước càng nghèo [vì làm thì sợ mắc tội này tội khác]; triều đình càng nhiều “lợi khí” [tức quyền mưu? Coi chương 36] thì quốc gia càng hỗn loạn; người trên càng nhiều kĩ xảo thì việc bậy càng sinh ra nhiều; pháp lệnh càng nghiêm khắc thì đạo tặc càng nổi. Cho nên thánh nhân bảo: ta không làm gì (vô vi) mà dân tự cải hoá, ta ưa thanh tĩnh mà dân tự nhiên thuần chính, ta không ban giáo lệnh mà dân tự phú túc, ta vô dục mà dân tự hoá ra chất phác.

58

Kì chính muộn muộn, kì dân thuần thuần; kì chính sát sát, kì dân khuyết khuyết. Hoạ hề phúc chi sở ỷ, phúc hề hoạ chi sở phục. Thục tri kì cực? Kì vô chính. Chính phục vi kì, thiện phục vi yêu. Nhân chi mê, kì nhật cố cửu. Thị dĩ thánh nhân phương nhi bất cát, liêm nhi bất quế, trực nhi bất tứ, quang nhi bất diệu. * Chính lệnh mập mờ (khoan hồng) thì dân thuần hậu; chính lệnh rõ ràng (hình pháp nghiêm minh quá) thì dân kiêu bạc. Hoạ là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ nấp của hoạ, ai biết được cứu cánh ra sao? Hoạ phúc không có gì nhất định. Chính có thể biến thành ta, thiện có thể biến thành ác. Loài người mê hoặc [không hiểu được lẽ đó] đã từ lâu rồi. Chỉ có bậc thánh nhân [biết được lẽ hoạ phúc vô định đó], nên tuy chính trực mà không làm thương tổn người, tuy có cạnh gốc mà không hại người, tuy cương trực mà không phóng túng, xúc phạm người, tuy sáng rỡ mà không chói loà.

59

Trị nhân, sự thiên mạc nhược sắc. Phù duy sắc, thị dĩ tảo phục, tảo phục vị chi trọng tích đức; trọng tích đức tắc vô bất khắc, vô bất khắc, tắc mạc tri kì cực; mạc tri kì cực, khả dĩ hữu quốc; hữu quốc chi mẫu, khả dĩ trường cửu, thị vị thâm căn cố đế, trường sinh cửu thị chi đạo. * Trị dân và tu thân thì không gì bằng tiết kiệm [tinh thần, trí óc]; có tiết kiệm thì mới sớm phục tòng đạo; sớm phục tòng đạo thì tích được nhiều đức; tích được nhiều đức thì không gì không khắc phục được; không gì không khắc phục thì năng lực của mình không biết tới đâu là cùng; năng lực không biết tới đâu là cùng thì trị được nước; nắm được cái gốc (mẹ) của đạo trị nước, thì có thể tồn tại được lâu dài. Như vậy là rễ sâu, gốc vững, [nắm được] cái đạo trường tồn.

60

Trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên. Dĩ đạo lị thiên hạ, kì quỉ bất thần. Phi kì quỉ bất thần, kì thần bất thương nhân. Phi kì thần bất thương nhân, thánh nhân diệc bất thương nhân. Phù lưỡng bất tương thương, cố đức giao qui yên. * Trị nước lớn cũng như nấu nướng cá nhỏ (nấu cá nhỏ mà lật lên lật xuống, động tới nó nhiều quá, nó sẽ nát; trị nước lớn mà chính lệnh phiền hà, pháp lệnh thay đổi nhiều quá, can thiệp vào việc dân nhiều quá, dân sẽ trá nguỵ, chống đối). Dùng đạo mà trị thiên hạ thì quỉ không linh; chẳng những quỉ không linh mà thần cũng không làm hại được người; chẳng những thần không hại được người mà thánh nhân cũng không làm hại người. Hai bên [một bên là quỉ, thần, thánh nhân, một bên là người] không làm hại nhau, cho nên đức quí cả về dân [dân yên ổn làm ăn mà gắng sức sửa đức].

61

Đại quốc giả hạ lưu, thiên hạ chi giao, thiên hạ chi tẫn. Tẫn thường dĩ tĩnh thắng mẫu, dĩ tĩnh vi hạ. Cố đại quốc dĩ hạ tiểu quốc tắc thủ tiểu quốc; tiểu quốc dĩ hạ đại quốc tắc thủ đại quốc. Cố hoặc hạ dĩ thủ; hoặc hạ nhi thủ. Đại quốc bất quá dục kiêm súc nhân; tiểu quốc bất quá dục nhập sự nhân. Phù lưỡng giả các đắc sở dục, đại giả nghi hạ. * Nước lớn nên ở chỗ thấp, chỗ qui tụ của thiên hạ, nên giống như giống cái trong thiên hạ. Giống cái nhờ tĩnh mà thắng giống đực [ham động], lấy tĩnh làm chỗ thấp. Cho nên nước lớn mà khiêm hạ đối với nước nhỏ thì được nước nhỏ xưng thần; nước nhỏ mà khiêm hạ đối với nước lớn thì được nước lớn che chở. Như vậy là một bên khiêm hạ để được [nước nhỏ xưng thần], một bên khiêm hạ mà được [nước lớn che chở]. Nước lớn chẳng qua chỉ muốn gồm nuôi nước nhỏ, nước nhỏ chẳng qua muốn thờ nước lớn. Khiêm hạ thì cả hai đều được như ý muốn; nhưng nước lớn phải khiêm hạ mới được.

62

Đạo giả vạn vật chi áo, thiện nhân chi bảo, bất thiện nhân chi sở bảo. Mĩ ngôn khả dĩ thị tôn, mĩ hành khả dĩ gia nhân. Nhân chi bất thiện, hà khí chi hữu? Cố lập thiên tử, trí tam công, tuy hữu củng bích, dĩ tiên tứ mã, bất như toạ tiến thử đạo. Cổ chi sở dĩ quí thử đạo giả hà? Bất viết: Cầu dĩ đắc, hữu tội dĩ miễn da? Cố vi thiên hạ quí. * Đạo là chỗ ẩn náo của vạn vật [vì đạo dung nạp vạn vật], là vật quí của người tốt, chỗ nhờ cậy của người không tốt. Lời nói hay có thể làm cho mình được tôn trọng, hành vi đẹp có thể làm cho mình hoá cao thượng. Nhưng còn người không tốt [mà biết nhờ cậy đạo] thì sao lại bỏ? Cho nên lập ngôi thiên tử, đặt ngôi tam công, dù [trong buổi lễ] hai tay bưng ngọc bích lớn đi trước xe tứ mã, cũng không bằng quì dâng đạo đó lên. Người xưa sở dĩ quí đạo là vì đâu? Chẳng phải là vì: [nhờ đạo mà] hễ cầu cái gì được cái nấy, có tội thì được tha ư? Vì vậy mà đạo được thiên hạ quí.

63

Vi vô vi, sự vô sự, vị vô vị. Đại tiểu đa thiểu, báo oán dĩ đức. Đồ nan ư kì dị; vi đại ư kì tế. Thiên hạ nan sự tất tác ư dị, thiên hạ đại sự tất tác ư tế. Thị dĩ thánh nhân chung bất vi đại, cố năng thành kì đại. Phù khinh nặc tất quả tín, đa dị tất đa nan. Thị dĩ thánh nhân do nan chi, cố chung vô nan hĩ. * [Thánh nhân] trị [thiên hạ] theo chính sách vô vi, thi hành theo nguyên tắc vô sự, giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ như lớn, cái ít như nhiều, lấy đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ [vì] việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn trong thiên hạ khởi từ lúc còn nhỏ. Do đó thánh nhân trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn. Người nào hứa một cách dễ dàng quá thì ít tin được, cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên thánh nhân coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặp gì khó.

64

Kì an dị trì, kì vị triệu dị mưu, kì thuý dị phán; kì vi dị tán. Vi chi ư vị hữu, trị chi ư vị loạn. Hợp bão chi mộc, sinh ư hào mạt. Cửu tằng chi đài, khởi ư luỹ thổ; thiên lí chi hành, thuỷ ư túc hạ. Vi giả bại chi; chấp giả thất chi. Thị dĩ thánh nhân vô vi cố vô bại, vô chấp cố vô thất. Dân chi tòng sự, thường ư cơ thành nhi bại chi. Thận chung như thuỷ, tắc vô bại sự. Thị dĩ thánh nhân dục bất dục; bất quí nan đắc chi hoá, học bất học; phục chúng nhân chi sở quá, dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên nhi bất cảm vi. * Cái gì an định thì dễ nắm, điểm chưa hiện thì dễ tính, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán. Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa manh nha, trị loạn từ khi chưa thành hình. Cây lớn một ôm, khởi sinh từ cái mầm nhỏ; đài cao chín tầng khởi từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân. Dụng tâm làm thì thất bại, cố chấp ý riêng thì hỏng việc. Vì vậy thánh nhân không làm nên không bại, không chấp trước nên không hỏng việc. Người ta làm việc, thường gần tới lúc thành công lại thất bại, vì không cẩn thận như lúc đầu. Dè sau như trước thì không hỏng việc, cho nên thánh nhân chỉ muốn một điều là vô dục (không muốn gì cả), không quí bảo vật; chỉ muốn học cho được vô tri vô thức để giúp mọi người lầm lạc trở về với đạo, giúp vạn vật phát triển theo tự nhiên, mà không dám làm (tức can thiệp vào).

65

Cổ chi thiện vi đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi. Dân chi nan trị, dĩ kì trí đa. Cố dĩ trí trị quốc, quốc chi tặc, bất dĩ trí trị quốc, quốc chi phúc. Tri thử lưỡng giả, diệc kê thức. Thường tri kê thức, thị vị huyền đức. Huyền đức thâm hĩ, viễn hĩ, dữ vật phản hĩ! Nhiên hậu nãi chí đại thuận. * Thời xưa, người khéo dùng đạo trị nước thì không làm cho dân khôn lanh cơ xảo, mà làm cho dân đôn hậu chất phác. Dân sở dĩ khó trị là vì nhiều trí mưu. Cho nên dùng trí mưu trị nước là cái hoạ cho nước, không dùng trí mưu trị nước là cái phúc cho nước. Biết phép tắc thì gọi là “huyền diệu” (huyền đức) [coi chương 51]. Đức huyền diệu sâu thẳm, cùng với vạn vật trở về gốc [về đạo chất phác tức qui căn] rồi sau mới đạt được sự thuận tự nhiên [cùng với đạo là một].

66

Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ kì thiện hạ chi, cố năng vi bách cốc vương. Thị dĩ thánh nhân dục thượng dân, tất dĩ ngôn hạ chi; dục tiên dân, tất dĩ thân hậu chi. Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân bất trọng; xử tiền nhi dân bất hại. Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm. Dĩ kì bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. * Sông biển sở dĩ làm vua trăm khe lạch [là nơi qui tụ của mọi khe] vì khéo ở dưới thấp nên làm vua trăm khe lạch. Vì thánh nhân muốn ở trên dân thì phải nói lời khiêm hạ, muốn ở trước dân thì phải lùi lại sau. Vì vậy thánh nhân ở trên mà dân không thấy nặng cho mình [không có cảm giác gánh vác trên vai], ở trước mà dân không thấy hại cho mình; vì vậy thiên hạ vui vẻ đẩy thánh nhân tới trước mà không chán. Không tranh với ai cho nên không ai tranh giành với mình được.

67

Thiên hạ giai vị ngã đạo đại, tự bất tiếu. Phù duy đại, cố tự bất tiếu. Nhược tiếu, cửu hỹ kì tế dã phù. Ngã hữu tam bảo, trì nhi bảo chi: nhất viết từ; nhị viết kiệm; tam viết bất cảm vi thiên hạ tiên. Từ cố năng dũng; kiệm cố năng quảng, bất cảm vi thiên hạ tiên, cố năng thành khí trưởng. Kim xá từ thả dũng, xá kiệm thả quảng, xá hậu thả tiên, tử hĩ! Phù từ, dĩ chiến tắc thắng, dĩ thủ tắc cố. Thiên tương cứu chi, dĩ từ vệ chi. * Thiên hạ bảo đạo của ta lớn, cơ hồ không có gì giống nó cả. Vì nó lớn quá [mà lại không có hình tượng] nên không có gì giống nó cả. Nếu có thì nó đã là nhỏ từ lâu rồi[2]. Ta có ba vật báo mà ta ôm giữ cẩn thận: một là lòng từ ái, hai là tính kiệm ước, ba là không dám đứng trước thiên hạ. Vì từ ái nên [tận lực che chở dân] mà sinh ra dũng cảm; vì kiệm ước nên hoá ra sung túc, rộng rãi; vì không dám đứng trước thiên hạ nên mới được làm chủ thiên hạ. Nếu không từ ái mà mong được dũng cảm; không kiệm ước mà mong được sung túc, rộng rãi; không chịu đứng sau người mà tranh đứng trước người, thì tất phải chết! Vì từ ái nên hễ chiến đấu thì thắng, cố thủ thì vững. Trời muốn cứu ai thì cho người đó lòng từ ái để tự bảo vệ [hoặc: thì lấy lòng từ ái mà giúp người đó].

68

Thiện vi sĩ giả bất vũ, thiện chiến giả bất nộ, thiện thắng địch giả bất dữ, thiện dụng nhân giả, vi chi hạ, thị vị bất tranh chi đức, thị vị dụng nhân chi lực, thị vị phối thiên chi cực. * Viên tướng giỏi không tỏ ra vũ dũng, người giỏi tác chiến không tỏ ra hung hăng, người khéo thắng dịch không giao phong với địch, người khéo chỉ huy thì tự đặt mình ở dưới người. Như vậy là có cái đức không tranh với người, như vậy là biết dùng sức của người, như vậy là hoàn toàn hợp với đạo.

69

Dụng binh hữu ngôn: “Ngô bất cảm vi chủ nhi vi khách, bất cảm tiến thốn nhi thối xích”. Thị vị hàng vô hàng, nhương vô tí, nhưng vô địch, chấp vô binh. Hoạ mạc đai ư khinh địch, khinh địch cơ táng ngô bảo. Cố kháng binh tương gia, ai giả thắng hĩ. * Thuật dụng binh có câu: “Ta không dám làm chủ (tức khiêu chiến) mà chỉ muốn làm khách (tức ứng chiến), không dám tiến một tấc, thà chịu lùi một thước (không muốn hung hăng mà chịu nhường địch)”. Như vậy dàn trận mà không thành hàng, xua đuổi mà không dám đưa cánh tay ra. Tuy có binh khí mà như không dùng binh khí, tuy có địch mà như không chạm trán với địch. Hoạ không gì lớn bằng khinh địch, khinh địch thì sẽ mất những vật báo của ta. Cho nên khi hai bên cử binh giao chiến, bên nào từ ái bên đó sẽ thắng lợi.

70

Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành. Ngôn hữu tông, sự hữu quân. Phù duy vô tri, thị dĩ bất tri ngã. Tri ngã giả hi, tắc ngã giả quí. Thị dĩ thánh nhân bị hạt hoài ngọc. * Lời [dạy] của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, mà thiên hạ không ai hiểu được, làm được. Lời của ta có tôn chỉ, việc của ta có căn bản [tôn chỉ, căn bản đó tức đạo: thuận tự nhiên, vô vi]. Vì thiên hạ không hiểu ngôn luận của ta nên không biết ta. Người hiểu ta rất ít, người theo cũng rất hiếm [nguyên văn là quí, mà hiếm tức là quí]. Cho nên thánh nhân bận áo vải thô mà ôm ngọc quí trong lòng.

71

Tri bất tri thượng; bất tri tri bệnh. Thánh nhân bất bệnh, dĩ kì bệnh bệnh. Phù duy bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh. * Biết mà làm ra vẻ ngu tối là cao minh; không biết mà làm ra vẻ biết rõ, sáng suốt là sai lầm. Thánh nhân sở dĩ không có tật sai lầm đó vì nhận cái tật đó là tật (dĩ kì bệnh – chữ bệnh trên là động từ, chữ bệnh dưới là danh từ). Cho cái tật sai lầm đó là tật cho nên mới không sai lầm.

72

Dân chi uý uy tắc đại uy chí. Vô hiệp kì sở cư, vô yếm kì sở sinh. Phù duy bất yếm, thị dĩ bất yếm. Thị dĩ thánh nhân tự tri bất tự hiện, tự ái bất tự quí. Cố khử bỉ thủ thử. * Dân mà không sợ sự uy hiếp (tức hà chính, bạo hình) của vua thì sự uy hiếp lớn của dân sẽ đến với vua (tức dân sẽ nổi loạn). Đừng bó buộc đời sống của dân (để cho dân an cư), đừng áp bức cách sinh nhai của dân. Vì không áp bức dân nên dân mới không bức lại vua (không phản kháng). Vì vậy thánh nhân biết quyền năng của mình mà không biểu lộ ra, yêu cái đức của mình mà không tự cho là tôn quí. Cho nên bỏ cái sau (tự hiện, tự quí) mà giữ cái trước (tự tri, tự ái).

73

Dũng ư cảm tắc sát, dũng vu bất cảm tắc hoạt. Thử lưỡng giả hoặc lợi, hoặc hại, thiên chi sở ố, thục tri kì cố? Thị dĩ thánh nhân do nan chi. Thiên chi đạo bất tranh nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện ứng, bất triệu nhi tự lai; thiện nhiên nhi thiện mưu. Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất. * Mạnh mẽ về dám làm (tức quả cảm cương cường) thì chết, mạnh mẽ về không dám làm (tức thận trọng, nhu nhược) thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà một cái được lợi, một cái bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái đó [cái cương cường]? Dẫu thánh nhân cũng còn cho là khó biết thay. Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự tới, bình thản vô tâm mà khéo mưu tính mọi việc. Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt.

74

Dân bất uý tử, nãi hà dĩ tử cụ chi? Nhược sử dân thường uý tử nhi vi kì giả, ngô đắc chấp nhi sát chi, thục cảm? Thường hữu ti sát giả sát. Phù đại ti sát giả sát, thị vị đại đại tượng trác. Phù đại đại tượng trác giả, hi hữu bất thương kì thủ hĩ. * Dân không sợ chết thì sao lại dùng tử hình doạ dân? Nếu làm cho dân luôn luôn sợ chết, mà có kẻ nào phạm pháp ta cũng bắt được mà giết thì ai còn dám phạm pháp nữa?[Sự thực không phải như vậy cho nên hình pháp mới vô hiệu]. Có đấng “ti sát” (tức đạo trời) chuyên lo việc giết, nếu vua chúa thay đấng ti sát mà giết dân thì cũng như thay thợ đẽo. Thay thợ đẽo thì ít khi không đứt tay.

75

Dân chi cơ, dĩ kì thượng thực thuế chi đa, thị dĩ cơ. Dân chi nan trị, dĩ kì thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị. Dân chi khinh tử, dĩ kì thượng cầu sinh chi hậu, thị dĩ khinh tử. Phù duy vô dĩ sinh vi giả, thị hiền ư quí sinh. * Dân sở dĩ đói là vì nhà cầm quyền thu thuế nặng nặng quá, cho nên dân đói. Dân sở dĩ khó trị là vì nhà cầm quyền dùng chính lệnh phiền hà, cho nên dân khó trị. Dân sở dĩ coi thường cái chết là vì nhà cần quyền tự phụng dưỡng quá hậu, cho nên dân coi thường sự chết. Nhà cầm quyền mà vô dục, đạm bạc thì hơn là quí sinh, hậu dưỡng.

76

Nhân chi sinh dã nhu nhược, kì tử dã kiên cường. Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thuý. Kì tử dã khô cảo. Cố kiên cường giả, tử chi đồ; nhu nhược giả, sinh chi đồ. Thị dĩ binh cường tắc bất thắng, mộc cường tắc binh. Cố kiên cường xử hạ, nhu nhược xử thượng. * Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng đơ. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết thì khô cứng. Cho nên cứng mạnh là cùng loài với chết, mềm yếu là cùng loài với sống. Vì vậy binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì bị chặt. Cứng mạnh phải ở dưới, mềm yếu được ở trên.

77

Thiên chi đạo kì do trương cung dữ? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi. Hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi đạo tổn hữu dư nhi bổ bất túc; nhân chi đạo tắc bất nhiên, tổn bất túc dĩ phụng hữu dư. Thục năng hữu dư dĩ phụng thiên hạ? Duy hữu đạo giả. Thị dĩ thánh nhân vi nhi bất thị, công thành nhi bất xử. Kì bất dục hiện hiền. * Đạo trời giống như buộc dây cung vào cung chăng? (Chữ trương cung ở đây không có nghĩa là giương cung để bắn). Dây cung ở cao quá thì hạ nó xuống, ở thấp quá thì đưa nó lên; dài quá thì bỏ bớt đi, ngắn quá thì thêm vào. Đạo trời bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu. Đạo người (thói thường của con người) thì không vậy, bớt chỗ thiếu mà cấp thêm cho chỗ dư. Ai là người có dư mà cung cấp cho những người thiếu thốn trong thiên hạ? Chỉ có người đắc đạo mới làm được như vậy. Cho nên thánh nhân làm mà không cậy khéo, việc thành mà không quan tâm tới, không biểu hiện đức của mình ra.

78

Thiên hạ mạc nhu nhược ư thuỷ, nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắng, dĩ kì vô dĩ dịch chi. Nhược chi thắng cường, nhu chi thắng cương, thiên hạ mạc bất tri, mạc năng hành. Thị dĩ thánh nhân vân: “Thụ quốc chi cấu, thị vị xã tắc chủ, thụ quốc bất tường, thị vị thiên hạ vương”. Chính ngôn nhược phản. * Trong thiên hạ không gì mềm yếu bằng nước mà thắng được những vật cứng không gì bằng nó, không gì thay nó được. Yếu thắng mạnh, mềm thắng cứng, không ai không biết lẽ đó nhưng không ai thực hành được. Cho nên thánh nhân bảo: “Chịu nhận cái ô nhục trong nước thì mới làm chủ xã tắc được, chịu nhận tai hoạ trong thiên hạ thì mới làm vua thiên hạ được”. Lời hợp đạo nghe như ngược đời.

79

Hoà đại oán, tất hữu dư oán, an khả dĩ vi thiện? Thị dĩ thánh nhân chấp tả khế, nhi bất trách ư nhân. Hữu đức ti khế; vô đức ti triệt. Thiên đạo vô thân, thường dữ thiện nhân. * Giải được cái oán lớn thì vẫn còn chút oán thừa [ở trong lòng], như vậy sao gọi là phải? Cho nên thánh nhân cầm phía bên trái tờ khế (tờ hợp đồng) mà đời không nhận. Người có đức thì cầm [phía trái] tờ khế, người không có đức thì đòi người ta phải trả. Đạo trời không tư vị ai, chỉ gia ân cho người có đức[9].

80

Tiểu quốc quả dân, sử hữu thập bách chi khí nhi bất dụng, sử dân trọng tử nhi bất viễn tỉ. Tuy hữu chu dư, vô sở thừa chi; tuy hữu giáp binh, vô sở trần chi. Sử dân phục kết thằng nhi dụng chi. Cam kì thực, mĩ kì phục, an kì cư, lạc kì tục. Lân quốc tương vọng, kê khuyển chi thanh tương văn, dân chí lão tử bất tương vãng lai. * Nước nhỏ, dân ít, dù có khí cụ gấp chục gấp trăm sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có thuyền, xe mà không ngồi, có binh khí mà không bày. [Bỏ hết văn tự] bắt dân dùng lại lối thắt dây thời thượng cổ. Thức ăn đạm bạc mà thấy ngon, quần áo tầm thường mà cho là đẹp, nhà ở thô sơ mà thích, phong tục giản phác mà lấy làm vui (nghĩa là chỉ lo ăn no, mặc ấm, ở yên, sống vui, ghét xa xỉ). Các nước láng giềng gần gũi có thể trông thấy nhau, nước này nghe được tiếng gà tiếng chó ở nước kia, mà nhân dân các nước ấy đến già chết cũng không qua lại với nhau.

81

Tín ngôn bất mĩ, mĩ ngôn bất tín. Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện. Tri giả bất bác, bác giả bất tri. Thánh nhân bất tích, kí dĩ vi nhân kỉ dư hữu, kí dĩ dữ nhân kỉ dũ đa. Thiên chi đạo, lợi nhi bất hại. Thánh nhân chi đạo, vi nhi bất tranh. * Lời nói chân thực thì không hoa mĩ, lời nói hoa mĩ thì không chân thực. Người “thiện” thì không cần biện giải (vì hành vi tốt rồi), người nào phải biện giải cho mình là người “không thiện”. Người sáng suốt hiểu đạo thì tri thức không cần rộng (vì nắm được chân lí là đủ rồi), người nào tri thức rộng thì không sáng suốt, hiểu đạo (vì tìm ngọn thì quên gốc). Bậc thánh nhân vô dục, không tích trữ, càng giúp người, mình lại càng có dư, càng cho người, mình lại càng có nhiều. Đạo trời chỉ có lợi cho vạn vật chứ không có hại; đạo thánh nhân giúp người mà không tranh với ai. ***

IV. ĐẠO ĐỨC KINH DỄ HIỂU Phan Ngọc

Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2001 Đạo đức kinh của Lão Tử là một trong những cuốn sách vĩ đại nhất của Trung Quốc và nhân loại. Ở Việt Nam đã có nhiều bản dịch kiệt tác này. Giáo sư Phan Ngọc cung cấp thêm một bản dịch mà ông gọi là Đạo đức kinh dễ hiểu với mong muốn tác phẩm kỳ lạ này dễ dàng đến với bạn đọc rộng rãi hơn.

Lời giới thiệu

Có một tác phẩm mà đã là người biết Hán học không ai không đọc, không ai không phục, nhưng cách giải thích từng câu trong tác phẩm này lại rất khác nhau. Trên hai nghìn năm nay sách chú giải có hàng trăm, sách dịch ra tiếng nước ngoài cũng không ít hơn, nhưng vẫn chưa có sự nhất trí về nội dung những câu mang tính chất triết học nhất. Đó là quyển Đạo Đức Kinh, một tác phẩm kinh điển của văn hóa Trung Hoa, bên cạnh quyển Luận Ngữ, tác phẩm kinh điển của Nho giáo. Tôi gọi nó là sách kinh điển của văn hóa Trung Hoa vì Nho giáo, Phật giáo, Pháp gia hay Đạo giáo đều vay mượn khá nhiều ở đấy, và chữ “Vô” làm nền tảng cho nó thuấn nhuần cả thi pháp, tự pháp, họa pháp, nhạc pháp, cách dinh dưỡng, y học, thậm chí cả ma thuật. Cho nên việc hiểu nó là hết sức cần thiết. Có một điều đáng chú ý là ở phương Tây ảnh hưởng của Lão Tử là to lớn hơn ảnh hưởng của Khổng Tử rất nhiều, số bản dịch ở Pháp theo Thu Giang trong Lão Tử, Đạo Đức Kinh là hơn 60 quyển và trong những bài giảng về triết học của Hegel, Lão Tử được đánh giá rất cao, nhưng Khổng Tử không được xem là nhà triết học. Ở Việt Nam trừ GS Cao Xuân Huy ra, tôi thấy ảnh hưởng của Lão Tử trong tư tưởng, triết học, văn học không rõ cho lắm. Trái lại, ảnh hưởng Trang Tử lại rất lớn và không một nhà Nho Việt Nam nào lại không chịu đôi chút ảnh hưởng Trang Tử. Theo tôi, điều này một phần do các sách chú giải đã thần bí hóa tác phẩm, mà các nhà Nho Việt Nam tuy đều thuộc Đạo Đức Kinh, vì sách này rất mỏng chỉ có 5000 chữ, nhưng đều xa lạ với cách nhìn khách quan, lạnh lùng của tác giả. Là người mê bách gia chư tử năm 18 tuổi, tôi đã đọc Đạo Đức Kinh hàng chục lần, nhưng chỉ hiểu được một nửa, cái nửa có thể nói, ai cũng hiểu như nhau. Còn về nửa kia, dù tôi có đọc đủ mọi bản Đạo Đức Kinh mà tôi tìm được với những chú giải của Vương Bật, Trần Tụ, Cao Hanh… nếu như ở chỗ này tôi có hiểu rõ hơn, thì ở chỗ khác tôi lại thấy không chấp nhận được. Tự kiểm điểm mình, tôi thấy tôi là anh chàng duy lý, cho nên bất kỳ cách giải thích nào nghe ra huyền bí tôi đều thấy chối. Tôi ngờ rằng cách giải thích không khỏi chịu ảnh hưởng của Đạo giáo, điều mà sau này thấy rất rõ khi nghiên cứu Đạo giáo Trung Hoa. Để giải quyết băn khoăn, tôi đọc các bản dịch ra một số ngôn ngữ phương Tây mà tôi quen. Tôi vẫn thấy mình không hài lòng. Người thì biến ông ta thành một người báo trước Thiên chúa giáo, người thì chuyển ông ta thành nhà triết học trực giác luận, người mượn ông ta để bênh vực thần bí luận. Ngay bản dịch gần đây nhất, năm 1995, do Giáp Văn Cường dịch, Trần Kiết Hùng hiệu đính, vẫn mang một tên gọi tiêu biểu Lão Tử, Đạo Đức huyền bí. Vào khoảng năm 1951, nhờ anh Trần Đức Thảo, tôi học triết học cổ điển và hiện đại của Đức. Tôi bắt đầu hiểu Đạo Đức Kinh một cách khác. Nhờ có học ngôn ngữ học tôi nhận ra điều dưới đây. Sở dĩ các bản chú thích, và các bản dịch có chỗ không làm tôi tin vì các học giả có xu hướng quan niệm các khái niệm do Lão Tử đặt ra là những từ kép, có một nội dung siêu hình như: vô vi, huyền tẫn, cốc thần, huyền đức, thiên môn, thường vô, thường hữu… Đồng thời, người ta có xu hướng hiểu cách diễn đạt theo lối ẩn dụ, nói chuyện bóng gió. Điều này một phần do chỗ các học giả có xu hướng giải thích Đạo Đức Kinh theo Nam Hoa Kinh của Trang Tử. nhưng đọc kỹ Trang Tử, tôi lại thấy Trang Tử là người duy tâm chủ quan. Mặt khác, tôi thấy các sách triết học Tiên Tần rất ít đặt ra những từ kép có nội dung triết học, cố nhiên trừ Trang Tử. Như vậy, nếu như Đạo Đức Kinh là một tác phẩm thời Chiến Quốc và chắc chắn là trước tác phẩm của Trang Tử thì khó lòng Trang Tử hóa được tác phẩm được. Tôi lại giải mã tác phẩm theo quan điểm tách mọi từ kép kia thành những từ đơn, rồi giải thích theo nghĩa đen, không chấp nhận nghĩa bóng. Nói khác đi, tôi đọc với đôi mắt của trẻ thơ như tác giả yêu cầu. Cuối cùng tôi trở về cái nguyên mộc chưa bị đẽo gọt và công bố bản Đạo Đức Kinh dễ hiểu mà các bạn đang đọc. Trong bản dịch này, mọi từ do Lão Tử sáng tạo đều bị tách ra, hiểu theo nghĩa mộc. Sở dĩ tôi giữ từ “Vô vi”, chẳng qua từ này quá thông dụng, nếu đổi sẽ bị phản ứng. Còn nội dung của “Vô vi” là làm theo cái Vô. Cái Vô đây theo cách lý giải của tác giả đồng thời là cái đạo tự nhiên, cái đạo với chữ Đ hoa, cũng không có gì là huyền bí. Nó không có nghĩa là làm không bị ham muốn riêng lôi cuốn mà là làm theo cái tự nhiên trong trời đất và trong lòng người. Chính vì làm theo “Vô vi” mà khiến mọi người làm vì chính vì như họ yêu cầu, do đó mình không nhọc sức mà không có gì không làm được. Cách này không khác cách nói quen thuộc của ta “Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong” là bao nhiêu. Trong bản dịch này, mỗi chương đều có phần phiên âm chữ Hán được sao lại theo những bản có uy tín nhất, sau đó có phần dịch rất sát để bạn đọc tự kiểm tra. Tự thân bạn đọc sẽ thấy câu nào cũng sâu sắc, cũng hay và sẽ hiểu tại sao tác phẩm này lôi cuốn người ta đến như thế. Cũng chính để chứng minh điều ấy, nên tôi cố tình không thêm chú thích nào hết. Điều chứng minh quả táo tồn tại là tôi ăn nó. Đưa thêm chú giải nào có khó gì, nhưng việc gì phải làm chuyện rắc rối? Nếu như tác giả có gan viết một tác phẩm triết học bằng một ngôn ngữ mộc mạc nhất ta có thể hình dung được, vậy cớ gì tôi lại biến ông ta thành con người nói không ai hiểu, nếu không có những chú thích dài dòng? Tôi chỉ thêm ngoặc đơn là phần có trong bản dịch nhưng không có trong nguyên bản để đọc cho xuôi, và một vài chữ trong ngoặc chéo để chú thích, hoặc là do nghĩa của từ quá đặc biệt, hoặc vì thực tế có thể xa lạ với chúng ta. Bây giờ tôi thử dùng ngôn ngữ học chứng minh tại sao tác phẩm này lại khó dịch đến thế. Nó khó dịch không phải vì tư tưởng khó hiểu mà vì tác giả là người đầu tiên ở Trung Hoa đã thực hiện một hành động cực kỳ táo bạo là tư biện triết học bằng một ngôn ngữ đơn tiết khi nó chưa tiếp thu những kinh nghiệm của các ngôn ngữ biến tố để đổi mới cách diễn đạt, kinh nghiệm mà nó sẽ tiếp thu từ tiếng Sanskrit để tạo nên những bản dịch kinh Phật nổi tiếng và văn phong của Tống Nho. Tiếng Hán ở thời tác giả cũng đại khái như tiếng Việt trước khi tiếp xúc với tiếng Pháp. Một sự kết hợp như “anh em” có thể có bảy nghĩa khác nhau. Nếu là danh từ kép thì nó sẽ có nghĩa tương đương với “các bạn”, tức là một danh từ tập thể; nếu là một tính từ nó sẽ có nghĩa tương đương với “thân mật”; nếu là động từ nó sẽ có nghĩa là “chơi bời thân thiết”. Một khi nó là hai danh từ tách biệt nhau nó sẽ có nghĩa là “anh của em”, “anh và em”. Còn một khi “em’ được xem như một đại từ nhân xưng thì nó lại có nghĩa là “anh của tôi”, “anh của mày”. Giải thích cách nào cũng ổn. Để tránh những hiểu lầm như vậy trong tiếng Việt hiện đại, chúng ta “dán nhãn” cho sự kết hợp này bằng cách thêm những yếu tố ngữ pháp để xóa bỏ mọi sự hiểu lầm: “các anh em, rất anh em, vẫn anh em, anh của em, anh và em, anh của tôi, anh của mày”. Đây là một quá trình tự phát nhưng nhìn kỹ nó cũng là một biểu hiện của “Vô vi”, rất phù hợp với ham muốn của mọi người để đạt đến một ngôn ngữ trong sáng, chính xác, một nghĩa, cho nên được mọi người chấp nhận và thành quy tắc của tiếng Việt hiện đại, điều mà các nhà thơ trước đây không hề làm. Dĩ nhiên, tôi phải dịch không chỉ Đạo Đức Kinh mà mọi tác phẩm Hán cổ bằng một tiếng Việt có “dán nhãn” như vậy. Ngày còn trẻ, tôi có tham vọng dịch Bách gia chư tử thành tiếng Việt hiện đại, ai cũng hiểu. Nhưng cái tham vọng ấy không được thực hiện vì không có kinh phí, dù ít nhất. Tuy chủ trương dịch ra tiếng Việt hiện đại không được một số người tán thành, nhưng tôi không thay đổi ý kiến vì tôi thấy các sách dịch Hán văn của ta không lôi cuốn được bạn đọc như lẽ ra phải như vậy. Tuy số sách dịch khuynh hướng nhiều, nhưng từ Trương Vĩnh Ký đến nay, ngoài các tiểu thuyết ra, các sách lý luận vẫn không được bạn đọc chú ý. Chính vì Hán cổ quá gần tiếng Việt cho nên ta cứ muốn diễn đạt theo lối phục chế trong khi tâm thức chúng ta đã Tây phương hóa rất nhiều và tiếng Việt đã mang một diện mạo về ngữ pháp không thể chối cãi được. Để làm cho một ngôn ngữ phi tư biện như tiếng Hán có thể diễn đạt một nội dung triết học, Lão Tử bắt buộc phải sử dụng những biện pháp dưới đây: a)     Cùng một khái niệm là Đạo, được gọi bằng nhiều biểu đạt khác nhau, khi muốn nhấn mạnh một khía cạnh cá biệt. Do đó Đạo, Nhất, Cốc thần, Thực mẫu, Vô, Hữu… thay thế Đạo tùy theo nội dung từng câu muốn nhấn mạnh mặt nào đó của Đạo. b)     Sử dụng một lối văn xuôi mới mà ông là người đầu tiên khởi xướng. Đó là lối với chia câu ra từng vế đối chọi nhau, các vế này chỉ khác nhau có một hai chữ, nhưng về cơ bản là lặp lại của nhau, để mượn những chữ khác nhau này nêu bật cái mâu thuẫn trong tồn tại là điều tác giả cảm nhận cực kỳ sâu sắc. Chính cách diễn đạt này đã đã chuyển ngôn ngữ tác phẩm thành ngôn ngữ của cách ngôn, tục ngữ, điều mà ta cũng thấy trong tục ngữ Việt Nam và Hán. Nhờ hình thức đối chọi này, ý kiến trở thành một chân lý muôn thuở, rất hợp với một quyển kinh. c)      Rồi để cấp cho ngôn ngữ một sắc thái cao siêu tác giả biến các đoạn ngắn thành những đoạn có vần. Lúc đó tự thân cách diễn đạt sẽ khoác cái vẻ muôn đời, ngoại thời gian, mà người đọc cảm nhận rất rõ. Điều này cũng do tác giả khởi xướng. d)     Câu văn phải kỳ mới làm cho người ta nhớ, bởi vì một nội dung mới, lạ, cần có một hình thức mới, lạ. Ta thấy rất rõ điều này trong cách chấm câu. Khi thì chấm câu chỉ sau hai chữ, thậm chí sau một chữ. Câu văn nhờ vậy cực kỳ rắn rỏi. Nhưng điểm này không phải sáng tạo của tác giả. Tả truyện đã mở đầu nhưng làm kín đáo. Còn Lão Tử làm lộ liễu, gây khó chịu, làm khổ các nhà chú giải, nhưng cũng chính cái khó ấy thu hút mọi người. Kinh nghiệm giải mã tục ngữ giúp tôi giải mã Đạo Đức Kinh. Cũng như tục ngữ, từng chữ một trong tác phẩm không có gì khó, nhưng câu thường rất lạ. Tôi chỉ nêu hai trường hợp mà cách chú giải và các bản dịch đều làm tôi khó hiểu. Thứ nhất, về cách chấm câu. Trong chương 1 có câu: “Đồng vị chi huyền” sau khi nói cái Vô và cái Hữu đều là một, các sách đều giải thích là “Cũng gọi là cái huyền diệu”. Nhưng tôi thấy vô lý. Cái Vô đành là cái huyền diệu, nhưng cái Hữu thì có gì là huyền diệu đâu, tại sao lại bảo cái Hữu “cũng là cái huyền diệu”. Nên chấm câu khác đi thành: “Đồng, vị chi huyền” thì ý nghĩa triết học sẽ là: Cái đồng (thống nhất) ấy chính là cái huyền diệu. Nội dung triết học sẽ rất lớn và rất gần với quan điểm của Hegel trong Đại Logic khi khẳng định “tính thống nhất của Tồn tại và Hư vô”. Học Hegel, tôi thấy có thể xem Lão Tử là Hegel của Trung Hoa. Thứ hai, về cách phân biệt từ loại. Ta biết tiếng Hán cổ không “dán nhãn” cho từ loại, cho nên một từ có thể hiểu là danh từ, tính từ hay động từ và cách giải thích sẽ hết sức khác nhau. Trong chương 5 có hai câu: “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu”, các sách đều cho bất nhân là một tính từ kép và dịch là “Trời đất bất nhân xem muôn vật là con chó rơm; thánh nhân bất nhân xem trăm họ là con chó rơm”. Nhưng như vậy là quan niệm trời đất tàn nhẫn và thánh nhân là tàn nhẫn, hoàn toàn trái ngược với nội dung của tác phẩm, bởi vì trong suốt tác phẩm ta thấy trời đất và thánh nhân rất quan tâm tới vạn vật và trăm họ. Nếu tách đôi kết hợp này ra thành “bất” là “chẳng” và xem “nhân” là động từ thì sẽ diễn đạt đúng tư tưởng của Lão Tử. Trời đất chẳng lo đến chữ nhân, xem muôn vật là con chó rơm; thánh nhân chẳng lo đến chữ nhân, xem trăm họ là con chó rơm”. Nói khác đi, trời đất và thánh nhân đều vô vi, làm theo tự nhiên, không bị trói buộc bởi chữ nhân của người đời, nhưng trời đất vẫn sinh ra và nuôi dưỡng muôn vật và thánh nhân luôn nghĩ đến hạnh phúc của trăm họ, có điều không làm theo cái kiểu thô thiển của chữ “nhân” Nho giáo mà thôi. Lúc đó ta thấy học thuyết Lão Tử sâu sắc như thế nào. Có thuyết cho rằng Đạo Đức Kinh không phải do một người viết mà là tập hợp những câu cách ngôn của nhiều người. Theo quan điểm ngôn ngữ học, tác phẩm này không thể là do nhiều người viết vì phong cách nó rất thống nhất, tất cả các chương đều viết bằng một ngôn ngữ cực kỳ trau chuốt, chữ đúc công phu và rất giỏi về văn học. Nếu cho do chỉ nói hai người viết thôi thì đã không tìm thấy một văn bản thứ hai nào kiểu này. Dù cho nội dung có thể phản ánh những quan niệm chung của tầng lớp ẩn sĩ, nhưng chỉ có thể do một người viết mới đạt đến trình độ thống nhất, chuẩn mực đến như thế. Đạo Đức Kinh dễ hiểu dịch theo chủ trương của tôi trong “Mẹo dịch”, “Mẹo chính tả”, “Mẹo giảng từ Hán – Việt”, “Mẹo giảng văn” vân vân. Người viết phải chịu mọi vất vả để cấp cho người đọc thao tác làm việc có kết quả. Trong việc dịch này tôi cảm ơn các bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Hiến Lê, Thu Giang, Giáp Văn Cường mà tôi đều tham khảo với tinh thần “Hư tâm cầu học”. Đó đều là những bản dịch tốt, biểu hiện một trình độ Hán học sâu và một công phu khảo cứu hết sức nghiêm túc. So với nhiều bản dịch tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nga thì nó dễ hiểu hơn. Tôi chỉ giới thiệu cách dịch dễ hiểu cho nên gọi nó là Đạo Đức Kinh dễ hiểu, còn Đạo Đức Kinh chính nghĩa là chuyện của các thế hệ sau. Cuối cùng, cho phép tôi tỏ lòng với hai bậc thầy đã khuất là bác Cao Xuân Huy, chuyên gia về Lão giáo và cha tôi, người đã dạy cho tôi chữ Hán, đồng thời cũng có những thắc mắc gần với những thắc mắc của tôi khi giảng Đạo Đức Kinh. Trong khi dịch tôi nghĩ rằng dù bản dịch có thiếu sót, cha tôi và bác Huy sẽ vui lòng thấy tôi làm một việc có ích. Phan Ngọc

Hà Nội, tháng 11 năm 1997

# 1

Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh. Vô, danh thiên địa chi thủy; Hữu, danh vạn vật chi mẫu. Cố thường vô, dục dĩ quan kỳ diệu; thường hữu, dục dĩ quan kỳ khiếu. Thử lưỡng giả đồng xuất, nhi dị danh. Đồng, vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn. * 1

Cái Đạo có thể dùng lời mà nói được chẳng phải là cái Đạo vĩnh viễn; cái tên có thể gọi tên được chẳng phải là cái tên vĩnh viễn. Cái “Vô” là cái tên chỉ cái khởi thủy của trời đất; cái “Hữu” là cái tên chỉ bà mẹ của muôn vật. Cho nên (phải xem) Đạo là cái Vô vĩnh viễn nếu như ta muốn nhìn cái huyền diệu của Đạo, (lại phải xem) nó là cái Hữu vĩnh viễn nếu như ta muốn nhìn cái biểu hiện của nó. Cả hai cái (mặt Vô và mặt Hữu) này cùng xuất hiện với nhau, mà tên gọi khác nhau. Hiện tượng cùng xuất hiện này là cái huyền diệu. Đó là cái huyền diệu của sự huyền diệu, cái cửa để bước vào mọi sự huyền diệu. # 2

Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ. Giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố Hữu Vô tương sinh, nan dị tương thành; trường đoản tương hình; cao hạ tương khuynh; âm thanh tương hóa; tiền hậu tương tùy. Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo. Vạn vật tác yên nhi bất tử; sinh nhi bất hữu; vi nhi bất thị; công thành nhi phất cư. Phù; duy phất cư, thị dĩ bất khứ. * 2

Khi thiên hạ đều biết cái tốt là tốt thì đó đã là cái xấu mất rồi. Khi thiên hạ đều biết cái thiện là thiện thì đó đã là cái bất thiện rồi. Cho nên cái Hữu và cái Vô sinh ra nhau; cái dễ và cái khó nghiêng vào nhau; cái dài và cái ngắn giao tiếp nhau, âm và thanh chuyển hóa cho nhau; cái đi trước và cái đi sau đi theo nhau. Chính vì vậy bậc thánh nhân thi hành cái việc Vô vi, thực hiện việc dạy không dùng lời. Muôn vật xuất hiện mà mình không nói; chúng sinh ra mà mình không chiếm lấy; mình làm mà không cậy công; công lao hoàn thành mà mình không kể công. Chính vì mình không kể công cho nên (công) mới không mất đi. # 3

Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quý nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo. Bất hiện khả dục, sử dân tâm bất loạn. Thị dĩ thánh nhân chi trị; hư kỳ tâm thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri, vô dục. Sử phù trí giả bất cảm vi dã. Vi vô vi tắc vô bất trị. * 3

Không chuộng cái giỏi khiến cho dân không tranh. Không quý những của cải khó kiếm khiến dân không làm trộm cắp. Không để lộ điều ham muốn khiến dân không làm loạn. Chính vì vậy cho nên cách cai trị của bậc thánh là: làm cho lòng dân trống rỗng, bụng dân no, chí dân mềm yếu, xương dân cứng mạnh. Luôn luôn khiến dân không biết, không ham muốn, khiến kẻ khôn không trổ được điều gì. Làm cái Vô vi, thì không có việc gì không trị an. # 4

Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh. Uyên hề tự vạn vật chi tông. Tỏa kỳ nhuệ; giải kỳ phân; hòa kỳ quang; đồng kỳ trần. Trạm hề, tự hoặc tồn! Ngô bất tri thùy chi tử, thượng đế chi tiên. * 4

A. Cái Đạo tuy trống rỗng nhưng công dụng của nó không bao giờ hết. Nó sâu xa thay, tựa hồ cái gốc của muôn vật. B. Nó làm cùn cái bén nhọn của mình, tháo gỡ cái rối rắm của mình, làm cho cái sáng của mình hòa lẫn với cái bụi bặm của mình. C. Nó ẩn náu thay, nhưng xem ra vẫn (tự mình) tồn tại. Ta không biết nó là con của ai, dường như có trước thượng đế. # 5

Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu. Thiên địa chi gian, kỳ do thác thược hồ? Hư nhi bất khuất; động nhi dũ xuất. Đa ngôn sổ cùng, bất như thủ trung. * 5

A. Trời đất chẳng hề (lo đến) nhân, xem muôn vật là con chó rơm; thánh nhân chẳng hề (lo đến) nhân, xem trăm họ là con chó rơm. B. Cái khoảng ở giữa trời và đất phải chăng giống như cái ống bễ? Tuy trống rỗng nhưng lại dùng không hết. Càng vận động (muôn vật) càng hiện ra. C. Nói lắm hay cùng lý, chẳng bằng giữ lấy cái vừa mức. # 6

Cốc thần bất tử, thị vị huyền tẫn. Huyền tẫn chi môn, thị vị thiên địa căn. Miên miên nhược tồn. Dụng chi bất cần. * 6

Cái thần diệu của cái hang (/cốc thần/) không chết, cho nên gọi là bà mẹ huyền diệu (/huyền tẫn/). Cái cửa của bà mẹ huyền diệu, đó là cái gốc của trời đất. Tồn tại xem ra dằng dặc, dùng mà không hết. # 7

Thiên trường địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kỳ bất tự sinh cố năng trường sinh. Thị dĩ thánh nhân hậu kỳ thân nhi thân tiền, ngoại kỳ thân nhi thân tồn. Phi dĩ kỳ vô tư da? Cố năng thành kỳ tư. * 7

A. Trời dài đất lâu. Trời đất sở dĩ có thể dài và lâu vì nó không sống cho mình. Cho nên nó mới có thể sống mãi. B. Vì vậy bậc thánh nhân đặt thân mình ra sau, cho nên cái thân ông ta lại ở trước; đặt thân mình ra ngoài nên thân ông ta mới còn. Đó chẳng phải vì ông ta không có cái gì riêng đó sao? Vì vậy cho nên ông ta làm cho cái riêng của mình hoàn thành. # 8

Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh. Sử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư Đạo. Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời. Phù duy bất tranh cố vô vưu. * 8

A. Kẻ thiện cao nhất giống như nước. Nước làm cho muôn vật được lợi mà không tranh giành. Nó ở vào nơi mọi người ghét cho nên gần với Đạo. B. Ở khéo chọn chỗ, lòng khéo chọn nơi sâu, chơi khéo chọn người, nói khéo chọn chữ tín, làm chính sự khéo chọn sự yên lành, làm việc khéo chọn năng lực, hành động khéo chọn lúc (nên làm). Ôi! Chỉ vì chỗ chẳng tranh giành cho nên không thể lầm lỗi. # 9

Trì nhi doanh chi, bất như kỳ dĩ. Sủy nhi duệ chi, bất khả trường bảo. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ. Phú quý nhi kiêu tự di kỳ cữu. Công toại thân thối, thiên chi đạo. * 9

Nắm lấy làm cho nó đầy, chẳng bằng thôi đi. Sờ để mài nó nhọn chẳng thể giữ mãi. Ngọc vàng đầy nhà chẳng ai có thể giữ được. Giàu sang mà kiêu căng thì tự chuốc lấy họa. Công đã thành thì thân rút lui, đó là đạo trời. # 10

Tải doanh phách, bão nhất, năng vô ly hồ? Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ? Địch trừ huyền lãm, năng vô tỳ hồ? Ái dân trị quốc, năng vô tri hồ? Thiên môn khai hợp, năng vô tỳ hồ? Minh bạch tứ đạt, năng vô vi hồ? Sinh nhi súc chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị; trưởng nhi bất tể, thị vị huyền đức. * 10

A. Làm cho hồn và phách giữ được “cái Một” (/đây là cái Đạo/) phải chăng có thể khỏi chia lìa? Làm cho cái khí đạt đến sự mềm yếu phải chăng có thể thành đứa trẻ sơ sinh? Gạt bỏ việc ngắm nhìn điều huyền bí phải chăng có thể không nhơ bẩn? B. Phải chăng có thể lấy “Vô tri” để yêu dân, trị nước? Phải chăng có thể lấy sự yên tĩnh để cho cửa trời (các giác quan) đóng mở? Phải chăng có thể dùng “Vô vi” để biết rõ mọi việc? C. Cái sinh ra vật và nuôi nấng nó, sinh ra mà không chiếm lấy, làm mà không cậy công, làm cho vật lớn lên mà không làm chủ, đó là cái Đức huyền diệu. # 11

Tam thập phức cộng nhật cốc, đương kỳ vô, hữu xa chi dụng. Duyên thực dĩ vi khí, đương kỳ vô hữu khí chi dụng; tạc hộ dũ dĩ vi thất, đương kỳ vô hữu thất chi dụng. Cố hữu chi dĩ vi lợi; vô chi dĩ vi dụng. * 11

Trong ba mươi cái nan hoa cùng một bầu xe, ở ngay cái vô của bánh xe có cái công dụng của xe. Nhồi đất làm đồ dùng, ở ngay cái vô của đồ dùng có cái công dụng của đồ dùng. Khoét cửa lớn, cửa sổ để làm phòng (/người Trung Quốc xưa vẫn quen khoét núi đất để ở/), ở ngay cái vô của phòng có cái công dụng của phòng. Cho nên ta xem nó là cái Hữu để mưu cái lợi; xem nó là cái Vô để mưu cái công dụng. # 12

Ngũ sắc lịnh nhân mục manh. Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng. Tri sinh điền liệp, lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa lịnh nhân hành phương. Thị dĩ thánh nhân vị phúc, bất vị mục. Cố khử bỉ thủ thử. * 12

Năm màu khiến mắt người ta tối đi. Năm âm khiến tai người ta điếc đi. Năm mùi khiến miệng người ta tê đi. Ham theo đuổi săn bắn khiến lòng người ta phát cuồng. Hàng hóa khó kiếm khiến người ta làm chuyện sai trái. Vì vậy bậc thánh nhân lo bụng không lo mắt. Cho nên bỏ cái thứ hai mà theo cái thứ nhất. # 13

Sủng nhục nhược kinh. Quý đại hoạn nhược thân. Hà vị sủng nhục nhược kinh? Sủng vi thượng, nhục vi hạ. Đắc chi nhược kinh; thất chi nhược kinh. Thị vị sủng nhục nhược kinh. Hà vị quý đại hoạn nhược thân? Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà loạn? Cố quý dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả ký thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả thác thiên hạ. * 13

Hãy sợ hãi việc ân sủng cũng như điều nhục nhã. Sở dĩ ta lo cái mối lo lớn là vì ta có thân. Tại sao bảo: “Hãy sợ hãi việc ân sủng cũng như điều nhục nhã?” Đó là vì có vinh ở trên thì có nhục ở dưới. Cho nên được nó cũng sợ hãi; mà mất nó cũng sợ hãi. Cho nên nói “Hãy sợ hãi việc ân sủng cũng như điều nhục nhã”. Tại sao nói “Ta có mối lo lớn vì ta có thân?” Đó là vì, ta có thân nên có mối lo lớn, nếu như ta không có thân thì ta có gì phải lo? Cho nên kẻ nào biết quý thân mình mà lo cho thiên hạ thì có thể gửi thiên hạ cho người ấy. Kẻ nào vì yêu thân mình mà lo cho thiên hạ thì có thể giao thiên hạ cho người ấy. # 14

Thị chi bất kiến, danh viết “Di”; thính chi bất văn viết “Hi”; bác chi bất đắc, danh viết “Vi”. Thử tam giả bất khả trí cật. Cố hỗn nhi vi nhất. Kỳ thượng bất kiểu, kỳ hạ bất muội. Thằng thằng bất khả danh. Phục quy ư vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng. Thị vị hốt hoảng. Nghinh chi bất kiến kỳ thủ, tùy chi bất kiến kỳ hậu. Chấp cổ tri đạo, dĩ ngự kim chi hữu. Năng tri cổ thủy, thị vị đạo kỷ. * 14

Vật mà nhìn không thấy gọi là “Di”; lắng tai mà không nghe thấy gọi là “Hi”; chộp mà không nắm được thì gọi là “Vi”. Ba cái này không thể truy cứu được cho nên hỗn hợp lại làm một. Cái trên của nó không sáng; cái dưới của nó không tối. Dằng dặc mà không thể gọi tên, lại quay về chỗ không có vật gì hết. Cho nên gọi nó là cái hình trạng không có hình trạng, cái hình trạng không có sự vật. Cho nên gọi nó là cái thấp thoáng. Đón nó thì không thấy đầu; đuổi nó thì không thấy phía sau của nó. Hãy giữ lại cáo đạo xưa để chế ngự cái tồn tại hiện nay. Có thể biết được cái đầu mối xưa, đó gọi là nắm được cái giềng mối của Đạo. # 15

Cố chi thiện vi sĩ giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức cố cưỡng vi chi dung. Dự hề, nhược đông thiệp xuyên; do hề, nhược úy tứ lân; nghiễm hể, kỳ nhược khách; hoán hề, nhược băng chi tương thích. Đôn hề, kỳ nhược phác; khoáng hể kỳ nhược cốc; hỗn hề, kỳ nhược trọc. Thục năng trọc dĩ chỉ, tĩnh chi từ thanh? Thục dĩ an dĩ cửu, động chi từ sinh? Bảo thử Đạo giả bất dục doanh. Phù duy bất doanh, cố năng tế nhi bất thành. * 15

Con người xưa khéo thực hành cái Đạo thì tinh diệu, huyền ảo, thông suốt, sâu xa không thể nhận thức được. Vì ta không thể nhận thức được (anh ta), cho nên tạm miêu tả anh ta như sau: anh ta rụt rè chừ, như lội qua sông vào mùa đông; lúng túng chừ, như sợ bốn bên hàng xóm; nghiêm chỉnh chừ, như mình là người khách, rã rời chừ, như băng giá đang tan. Đôn hậu chừ, như khúc gỗ mộc; trống rỗng chừ như cái hang, hỗn độn chừ như nước đục. Ai có thể làm cho cái đục lắng xuống dần đần thành trong? Ai có thể làm cái yên tĩnh kéo dài, dần dần trở nên động? Giữ được cái đạo ấy mà không muốn tự mãn? Vì không tự mãn cho nên có thể ẩn mình mà không cho người ta biết. # 16

Trí hư cực, thủ tĩnh dốc. Vạn vật tịnh tác ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân,  các phục quy kỳ căn. Quy căn viết tĩnh. Thị vị viết “phục mạng”. Phục mạng viết thường. Tri thường viết minh. Bất tri thường vọng tác, hung. Tri thường dung. Dung nãi công. Công nãi toàn. Toàn nãi thiên. Thiên nãi đạo. Đạo nãi cửu. Một thân bất đãi. * 16

A. Hãy đạt đến cái trống không cùng cực; hãy giữ lấy cái hết sức yên tĩnh. Muôn vật đều sinh ra, ta qua đó thấy chúng đều trở về gốc. Vật tuy nhan nhản, tất cả đều trở về cái gốc của mình. Trở về gốc gọi là “hư tĩnh”, cái đó gọi là “trở về bản tính”(/phục mạng/). Trở về bản tính gọi là “cái lẽ tự nhiên”(/thường/). Biết được cái lẽ tự nhiên gọi là “sáng suốt”; không biết cái lẽ tự nhiên, làm bậy, là tai hại. B. Biết cái lẽ tự nhiên thì chứa đựng được. Chứa đựng được cho nên chung cho mọi người (/công/). Do chung cho mọi người cho nên bao khắp. Bao khắp là hợp với trời. Hợp với trời là đúng đạo. Theo Đạo thì lâu dài, suốt đời không bị nguy hiểm. # 17

Thái thượng, hạ tri hữu chi. Kỳ thứ, thân nhi dự chi. Kỳ thứ, úy chi. Kỳ thứ, vũ chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên. Du hề, kỳ quý ngôn. Công thành sự toại, bách tính giai vị “Ngã tự nhiên”. * 17

A. (Với ông vua) cao nhất, dân chỉ biết mình có ông vua như thế. (Với ông vua) kém hơn, dân yêu quý và khen ngợi ông ta. (Với ông vua) kém hơn nữa, dân sợ ông ta. Xuống thêm nữa, dân khinh ông ta. (Với loại vua này) không đủ để tin cho nên dân cũng không tin. B. Ông vua cao nhất nhàn hạ thay, không nói. Công lớn đã thành, công việc xong xuôi, mà trăm họ đều bảo: “Tự nhiên tôi thấy như thế”. # 18

Đại Đạo phế, hữu nhân nghĩa. Trí tuệ xuất hữu đại ngụy; lục thân bất hòa, hữu hiếu từ. Quốc gia hôn loạn hữu trung thần. * 18

Khi cái Đạo lớn bị bỏ mới có Nhân Nghĩa. Khi sự khôn ngoan, tính toán sinh ra là có cái dối trá lớn. Sáu người thân chẳng hòa hợp mới có hiếu và từ. Nước nhà có tối tăm loạn lạc mới có kẻ trung thần. # 19

Tuyệt thánh, khí trí, dân lợi bách bội. Tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ. Tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu. Thử tam giả, dĩ vi văn, bất túc. Cố lịnh hữu sở thuộc: kiến tố, bão phác, thiểu tư, quả dục. * 19

Cắt đứt cái sáng suốt, vứt bỏ cái khôn thì dân lợi gấp trăm lần. Cắt đứt nhân, rời bỏ nghĩa, dân sẽ quay trở lại hiếu và từ. Cắt đứt cái khéo, vứt bỏ cái lợi sẽ không có trộm cướp. Ba cái trên chỉ là cái văn vẻ, không đủ (để cai trị). Cho nên phải khiến cho dân có cái để theo: nêu cao cái giản dị, giữ lấy sự chất phác, giảm lòng riêng tư, bớt sự ham muốn. # 20

Tuyệt học vô ưu. Duy chi dự a, tương khứ kỷ hà? Thiện chi dự ác, tương khứ nhược hà? Nhân chi sở úy, bất khả bất úy. Hoang hề kỳ vị ương tai! Chúng nhân hy hy, như hưởng thái lao, như xuân đăng đài. Ngã độc bạc hề kỳ vị triệu, như anh nhi chi vị hài. Luy luy hề nhược vô sở quy. Chúng nhân giai hữu dư, nhi ngã độc nhược di. Ngã ngu nhân chi tâm dã tai! Độn độn hề, tục nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn; tục nhân sát sát, ngã độc muộn muộn. Đạm hề, kỳ nhược hải; liêu hề, nhược vô chỉ. Chúng nhân giai hữu dĩ, nhi ngã độc ngoan tự bỉ. Ngã độc dị ư nhân, nhi quy thực mẫu. * 20

A. Cắt đứt cái học sẽ không phải lo lắng. Lời vâng dạ và lời mắng nhiếc cách nhau có bao nhiêu đâu! Cái thiện và cái ác cách nhau có bao nhiêu đâu! Khi tai họa chưa đến thì mơ hồ thay! Cái điều người ta sợ, ta không thể không sợ. B. Ta khác thế tục quá xa. Mọi người hớn hở, như hưởng bữa tiệc lớn, như bước lên đài vào mùa xuân. Riêng ta lặng lẽ không tỏ dấu vết gì, như đứa trẻ sơ sinh chưa biết cười. Rũ rượi không biết đi về đâu. Mọi người đều có thừa; riêng ta thiếu thốn, ta ôm tấm lòng của kẻ ngu sĩ chăng? Mờ mịt thay! Thế tục rạng rỡ, riêng ta mờ mịt; thế tục trong sáng, riêng ta mờ mờ. Thản nhiên chừ, như biển; phiêu bạt chừ, không có nơi dừng! Mọi người đều có cái để đòi hỏi, riêng ta một mình bướng bỉnh như bỉ lậu. Riêng một mình ta khác mọi người mà lo giữ bà Mẹ nuôi muôn vật(/ thực mẫu/). # 21

Khổng đức chi dung, duy Đạo thị tùng. Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt. Hốt hề, hoảng hề, kỳ trung hữu tượng; hoảng hề hốt hề, kỳ trung hữu vật; yểu hề, minh hề, kỳ trung hữu tinh. Kỳ tinh thậm chân, kỳ trung hữu tín. Tự cổ cập kim, kỳ danh bất khứ, dĩ duyệt chúng phủ. Ngô hà dĩ tri chúng phủ chi trạng tai? Dĩ thử. * 21

A. Biểu hiện của cái Đức lớn (/khổng đức/) là ở điểm nó chỉ tuân theo Đạo. B. Đạo là một vật chỉ thấp thoáng, mập mờ. Trong đó có hình tượng. Mập mờ, thấp thoáng, trong đó có sự vật; sâu xa tăm tối, trong đó có “cái mầm” (tinh/ đây chỉ tinh trùng/). Cái mầm ấy rất chắc chắn, trong đó có cái đáng tin. Từ xưa đến nay, cái tên của nó chẳng mất để làm cái gốc của muôn vật (/dĩ duyệt chúng phủ/). Ta làm sao biết được nó là cái gốc của muôn vật? Vì điều đã nói ở trên đây. # 22

Khúc tắc toàn; uổng tắc trực; oa tắc doanh; tệ tắc tân; thiểu tắc đắc; đa tắc hoặc. Thị dĩ thánh nhân bão nhất, vi thiên hạ thức. Bất tự kiến, cố minh; bất tự thị, cố chương; bất tự phạt cố hữu công; bất tự căng, cố trưởng. Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. Cố chi sở vi khúc tắc toàn giả, khởi hư ngôn tai? Thành, toàn nhi quy chi. * 22

A. (Đạo khiến) cái quanh co sẽ được bảo toàn; cái cong thì sẽ được duỗi thẳng; cái gì trũng xuống thì sẽ tràn đầy; cái gì cũ nát thì sẽ mới lại; cái gì ít ỏi thì sẽ được thêm; cái gì nhiều thì sẽ gây mê hoặc. B. Chính vì vậy bậc thánh nhân giữ cái một (/cái Đạo/) mà làm mẫu mực cho thiên hạ. Không tự mình nhìn cho nên sáng; không cho mình là đúng cho nên rực rỡ; không tự khoe mình cho nên có công lao; không tự mãn cho nên đứng đầu. Chính vì không tranh giành với ai cho nên thiên hạ không ai tranh giành được với ông ta. Cho nên nói “Quanh co cho nên được bảo toàn” đâu phải lời nói trống không? Hãy chân thành bảo toàn rồi quay theo về với nó (/Đạo/). # 23

Hy ngôn tự nhiên. Cố phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật. Thục vi thử giả? Thiên địa. Thiên địa thượng bất năng cửu, nhi huống ư nhân hồ? Cố tòng sự ư Đạo giả Đạo giả đồng ư Đạo. Đức giả đồng ư Đức. Thất giả đồng ư thất. Đồng ư Đạo giả, Đạo diệc lạc đắc chi. Đồng ư Đức giả, Đức diệc lạc đắc chi. Đồng ư thất giả, thất diệc lạc đắc chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên. * 23

A. Nói ít, theo tự nhiên. Cho nên gió bão chẳng kéo dài suốt buổi sáng; mưa rào chẳng kéo suốt cả ngày. Ai làm nên điều ấy? Trời đất đấy. Đến cả trời với đất còn chưa có thể kéo dài, huống là con người. B. Cho nên kẻ nào chăm lo theo Đạo thì sẽ cùng được với Đạo; kẻ nào chăm lo theo Đức thì cùng được với Đức: Cùng theo với Đạo, Đạo cũng vui nhận anh ta, cùng theo với Đức, Đức cũng vui nhận anh ta; cùng theo với cái mất, cái mất cũng vui nhận anh ta. Khi đức tin (của mình) không đủ thì mới có chuyện (người ta) không tin. # 24

Xí giả bất lập; khóa giả bất hành. Tự kiến giả bất minh; tự thị giả bất chương; tự phạt giả vô công; tự căng giả bất trường. Kỳ tại Đạo dã, viết: “Dư thực chuế hành, vật hoặc ố chi”. Cố hữu Đạo giả bất xử. * 24

Nhón chân thì không đứng vững được; chạng chân thì không đi được. Kẻ tự biểu lộ mình thì không sáng suốt, kẻ tự cho mình là đúng thì không chói lọi. Kẻ tự khoe công thì không có công; kẻ tự mãn thì không được lâu dài. Căn cứ vào cái Đạo mà xét thì những điều trên đều là cơm thừa canh cặn. Súc vật còn chán ghét nó, cho nên người có đạo không chuộng. # 25

Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập bất cải. Chu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi thiên hạ mẫu. Ngô bất tri kỳ danh. Tự chi viết Đạo; cưỡng vi chi danh viết Đại. Đại viết thệ; thệ viết viễn; viễn viết phản. Cố Đạo đại; Thiên đại; Địa đại; Nhân diệc đại. Vực trung hữu tứ đại nhi nhân cư kỳ nhất yên. Nhân pháp địa; địa pháp thiên; thiên pháp Đạo; Đạo pháp tự nhiên. * 25

A. Có cái vật hình thành hỗn độn, sinh trước trước trời đất. Yên lặng trống không đứng một mình không thay đổi, đi vòng mà không mỏi, có thể làm bà mẹ thiên hạ. Ta không biết cái tên của nó là gì, gượng đặt tên cho nó là Cái Lớn. Cái Lớn ấy đi; cái đi của nó xa, cái xa của nó quay về. B. Cho nên cái Đạo lớn; Trời lớn; Đất lớn; Người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà Con Người là một trong bốn cái này. Con Người lấy Đất làm khuôn phép; Đất lấy Trời làm khuôn phép; Trời lấy Đạo làm khuôn phép; Đạo lấy Tự nhiên làm khuôn phép.

# 26

Trọng vi khinh căn; tĩnh vi táo quân. Thị dĩ thánh nhân chung nhật hành bất ly tri trọng; tuy hữu vinh quan, yến xử siêu nhiên. Nại hà vạn thặng chi chủ nhi dĩ thân khinh thiên hạ? Khinh tắc thất bản; táo tắc thất quân. * 26

Cái nặng là gốc rễ cho cái nhẹ; cái yên tĩnh là gốc rễ cho cái nôn nóng. Vì vậy cho nên bậc thánh nhân suốt ngày đi đường không rời xe chở; tuy hưởng sự vinh hoa vẫn yên tĩnh vượt lên. Cớ gì ông vua của nước có vạn cỗ xe lại coi thân mình nặng, coi thường thiên hạ? Coi thường thì bỏ mất cái gốc rễ; nôn nóng thì bỏ mất cái chủ yếu.

# 27

Thiện hành, vô triệt tích; thiện ngôn, vô hà trích; thiện số, bất dụng trù sách; thiện bế, vô quan kiện nhi bất khả khai; thiện kết, vô thằng ước nhi bất khả giải. Thị dĩ thánh nhân thường thiện cứu nhân, cố vô khí nhân; thường thiện cứu vật, cố vô khí vật. Thị vị tập minh. Cố thiện nhân giả, bất thiện nhân chi sư; bất thiện nhân giả, thiện nhân chi tư. Bất quý kỳ sư, bất ái kỳ tư, tuy trí đại mê. Thị vi yếu diệu. * 27

A. Kẻ khéo đi không để lại dấu vết; kẻ khéo nói không có chỗ sai để chỉ trích. Kẻ khéo tính toán không dùng đến thẻ tre để tính; kẻ khéo đóng không dùng đến khóa mà người ta chẳng sao mở được; kẻ khéo buộc không dùng đến dây buộc mà không sao cởi ra được. B. Vì vậy cho nên bậc thánh nhân bao giờ cũng khéo cứu người, nên không có người bị vứt bỏ; bao giờ cũng khéo cứu vật cho nên không có vật bị vứt bỏ. Không để vật bị vứt bỏ là tập hợp sự sáng suốt. Vì vậy người thiện là thầy của người không thiện; người không thiện là cái chỗ dựa cho người thiện. Nếu không quý ông thầy của mình; không yêu chỗ dựa của mình thì dù là khôn cũng bị mê hoặc lớn. Đó là cái huyền diệu chủ chốt. # 28

Tri kỳ hùng, thủ kỳ thư, vi thiên hạ khê. Vi thiên hạ khê, thường đức bất ly, phục quy ư anh nhi. Tri kỳ bạch, thủ kỳ hắc, vi thiên hạ thức. Vi thiên hạ thức, thường Đức bất thắc, phục quy ư vô cực. Tri kỳ vinh, thủ kỳ nhục, vi thiên hạ cốc. Vi thiên hạ cốc, thường Đức nãi túc, phục quy ư phác. Phác tán tắc vi khí. Thánh nhân dụng chi tắc vi quan trưởng. Cố đại chế bất cát. * 28

Dù biết cái (mặt) trống của nó vẫn giữ lấy cái (mặt) mái của nó, hãy làm cái khe của thiên hạ. Khi làm cái khe của thiên hạ thì sẽ không rời khỏi cái Đức vĩnh viễn, lại quay về tình trạng trẻ sơ sinh. Dù biết cái (mặt) trắng của nó, ta vẫn giữ cái (mặt) đen của nó. Khi giữ cái (mặt) đen của nó, ta làm gương mẫu cho thiên hạ. Dù biết cái (mặt) vinh của nó ta vẫn giữ cái (mặt) nhục của nó, làm cái hang của thiên hạ. Khi làm cái hang của thiên hạ thì cái Đức vĩnh viễn sẽ đầy đủ. Cái nguyên mộc nếu chia cắt ra sẽ thành đồ dùng. Bậc thánh nhân nếu dùng cái nguyên mộc thì sẽ làm người cầm đầu các quan. Cho nên cái quy chế lớn (/đại chế/) không bị chia cắt. # 29

Tương dục thủ thiên hạ nhi vi chi, ngô kiến kỳ bất đắc dĩ. Thiên hạ thần khí bất khả vi dã. Vi giả bại chi; chấp giả thất chi. Cố, vật hoặc hành, hoặc tùy, hoặc hư, hoặc xuy hoặc cường, hoặc luy, hoặc tỏa, hoặc truy. Thị dĩ thánh nhân khử thậm, khử xa, khử thái. * 29

A. Muốn lấy thiên hạ mà làm (theo ý mình) ta thấy điều này không thể được. Thiên hạ là cái đồ vật thần không thể làm (theo ý mình) được. Người làm (theo ý mình) thì sẽ làm cho nó hỏng. Người cố chấp thì sẽ làm cho nó mất. B. Đối với sự vật thì có người làm trước; có người làm theo; có người nôn nóng; có người lạnh nhạt; có người cứng rắn; có người mềm yếu; có người bồi đắp; có người hủy hoại (/đây là những hành động của người đời/). C. Cho nên bậc thánh nhân bỏ cái quá mức, bỏ cái xa hoa, bỏ cái thái quá. # 30

Dĩ Đạo tá nhân chủ giả, bất dĩ binh cưỡng thiên hạ. Kỳ sự hảo hoàn. Sư chi sở xử, kinh cức sinh yên. Đại quân chi hậu, tất hữu hung niên. Cố thiện hữu quả nhi dĩ, bất cảm dĩ thủ cường. Quả nhi vật căng; quả nhi vật phạt; quả nhi bất đắc dĩ; quả nhi vật cưỡng. Vật tráng, tác lão thị vị bất Đạo. Bất Đạo, tảo dĩ. * 30

A. Muốn lấy cái Đạo để phò vua thì không dùng binh lực để ép thiên hạ. Việc này dễ dẫn tới đánh lại. Nơi nào đại quân đóng thì gai góc mọc. Sau chiến tranh ắt có mất mùa. B. Cho nên (khéo dùng binh) chỉ cần có kết quả tốt mà thôi, không dám tỏ mình mạnh hơn. Đạt được kết quả mà chớ kiêu căng; đạt được kết quả mà chớ khoe công; đạt được kết quả mà chớ kiêu ngạo; đạt được kết quả là vì bất đắc dĩ; đạt được kết quả mà chớ ép buộc. C. Sự vật tráng thì già đi, đó là chẳng theo Đạo. Chẳng theo Đạo thì mất sớm thôi. # 31

Phù binh giả bất tường chi khí, vật hoặc ố chi. Cố hữu Đạo giả bất sử. Quân tử cư tắc quý tả, dụng binh tắc quý hữu. Binh giả bất tường chi khí, phi quân tử chi khí. Bất đắc nhi dụng chi, điềm đạm vi thượng. Thắng nhi bất mỹ. Nhi mỹ chi giả thử lạc sát nhân. Phù lạc sát nhân giả, tắc bất khả đắc chí ư thiên hạ hĩ. Cát sự thượng tả, hung sự thượng hữu. Thiên tướng quân cư tả, thượng tướng quân cư hữu. Ngôn dĩ tang lễ xừ chi. Sát nhân chi chúng, dĩ ai bi khấp chi. Chiến thắng dĩ tang lễ xử chi. * 31

A. Binh khí là vật chẳng lành, súc vật còn ghét nó cho nên con người có Đạo không dùng. B. Người quân tử khi ở nhà thì coi trọng bên trái; khi dùng binh thì phải coi trọng bên phải. Việc binh là cái vật bất tường, bất đắc dĩ mà phải dùng. Điềm đạm, là tốt nhất. Chuyện chiến thắng là chuyện không hay, nếu cho nó là hay tức là thích giết người. Phàm kẻ thích giết người thì chẳng có thể được thiên hạ thích. C. Việc lành chuộng bên trái, việc dữ chuộng bên phải. (Khi dùng binh) thiên tướng quân (/vị tướng đương quyền/) ở bên trái, thượng tướng quân (/vị tướng dự khuyết/) ở bên phải. Như vậy là xem việc binh như tang lễ. Kẻ giết nhiều người, nên lấy lòng đau xót mà khóc với ông ta. Nên lấy tang lễ đối xử với kẻ chiến thắng. # 32

Đạo thường vô danh, phác. Tuy tiểu, thiên hạ mạc năng thần dã. Hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự tân. Thiên địa tương hợp, dĩ giáng cam lộ. Dân mạc chi lịnh nhi tự quân. Thủy chế hữu danh, danh diệc ký hữu, phù diệc tương tri chỉ. Tri chỉ khả dĩ bất đãi. Thí Đạo chi tại thiên hạ, do xuyên cốc chi ư giang hải. * 32

A. Cái Đạo vĩnh viễn không có tên gọi, nguyên mộc. Tuy nó nhỏ, nhưng trong thiên hạ không ai sai khiến được nó. Các vương hầu nếu nắm được nó thì muôn vật sẽ tự mình phục tùng. Trời và đất sẽ hòa hợp với nhau, móc ngọt rơi xuống, dân không ai ra lệnh văn tự đạt đến sự vừa đều. B. Khi cái Nguyên lý đầu tiên (/thủy chế/) đã có tên gọi, đã có tên gọi rồi thì ta phải biết ngăn lại. Biết ngăn lại thì mới không nguy hại. Cái Đạo ở trong thiên hạ cũng như suối hang đối với sông biển. # 33

Tri nhân giả trí; tự tri giả minh. Thắng nhân giả hữu lực; tự thắng giả cường. Tri túc giả phú. Cưỡng hành giả hữu chí. Bất thất kỳ sở giả cửu. Tử nhi bất vong giả thọ. * 33

Kẻ biết người là có trí; kẻ biết mình là sáng suốt. Kẻ thắng người ta là có sức; kẻ tự thắng mình là mạnh. Kẻ tri túc (/tự cảm thấy đủ/) thì giàu; kẻ cố gắng thực hiện (Đạo) là người có chí. Kẻ không bỏ mất cái gốc thì lâu dài. Kẻ chết mà không mất là thọ. # 34

Đại Đạo phiếm hể, kỳ khả tả hữu. Vạn vật thị chi nhi sinh nhi bất từ. Công thành bất danh hữu. Y dưỡng vạn vật nhi bất vi chủ. Thường vô dục, khả danh vư tiểu. Vạn vật quy yên nhi bất vi chủ. Khả danh vi đại. Dĩ kỳ chung bất tự vi đại, cố năng thành kỳ đại. * 34

Cái Đạo lớn tràn khắp chừ, có thể ở bên trái, bên phải. Muôn vật nhờ nó mà sinh ra, mà nó không nói. Công lao hoàn tất rồi mà không bảo mình có công, nuôi dưỡng muôn vật mà không làm chủ chúng. Bao giờ cũng không có ham muốn riêng, có thể gọi là Cái Nhỏ. Muôn vật theo về mà không làm chủ nên có thể gọi là Cái Lớn. Vì nó rút cục không tự cho mình là lớn cho nên hoàn thành được cái lớn của mình. # 35

Chấp đại tượng, thiên hạ vãng. Vãng nhi bất hại, an bình thái. Nhạc dữ nhĩ, quá khách chỉ. Đạo chi xuất khẩu, đạm hề kỳ vô vị. Thị chi bất túc kiến; thính chì bất túc văn; dụng chi bất túc ký. * 35

Nắm lấy cái Đạo lớn thì thiên hạ sẽ đến theo. Đến theo mà chẳng thiệt hại thì yên ổn thái bình. Âm nhạc bánh trái làm khách qua đường dừng chân. Còn cái đạo nói ra cửa miệng thì lạt lẽo không có mùi vị. Nhìn nó chẳng bõ thấy, lắng tai chẳng bõ nghe, nhưng dùng nó lại không thể hết. # 36

Tương dục nhược chi, tất cố cường chi. Tương dục phế chi tất cố hưng chi. Tương dục đoạt chi, tất cố dự chí. Thị vị vi minh. Nhu nhược thắng cương cường. Ngư bất khá thoát ư uyên. Quốc chi lợi khí bất khá dĩ thị nhân. * 36

(Cái Đạo) muốn rút ngắn một vật thì ắt phải cố kéo nó ra. Muốn làm nó yếu đi ắt phải cố làm cho nó mạnh lên. Muốn bỏ nó đi, ắt phải cố đề cao nó. Muốn cướp lấy nó ắt phải cố cho nó. Cái đó gọi là cái sáng rõ vi diệu. Mềm yếu thắng cứng mạnh. Con cá không thể ra khỏi vực sâu. Cái lợi khí (nguyên lí trị nước) không thể cho người ta thấy. # 37

Đạo thường vô vi, nhi vô bất vi. Hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự hóa. Hóa nhi dục tác, ngô tương trấn chi dĩ vô danh chi phác. Vô danh chi phác, phù diệc tương vô dục. Bất dục dĩ tĩnh, thiên hạ tương tự định. * 37

Cái Đạo bao giờ cũng Vô vi, nhưng không việc gì không làm. Các vương hầu nếu có thể giữ được nó thì muôn vật có thể tự mình thay đổi. Nếu vật thay đổi mà người ta muốn tác động vào thì ta phải lấy cái nguyên mộc không có tên cản lại. Muốn lấy cái nguyên mộc không có tên cản lại thì mình phải không có ham muốn (riêng). Ta không có ham muốn (riêng), dùng cái tĩnh để ứng phó thì thiên hạ tự nó sẽ ngay. # 38

Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức. Hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức. Thượng đức vô vi, nhi vô dĩ vi. Hạ đức vi chi nhi hữu dĩ vi. Thượng nhân vi chi nhi vô dĩ vi; thượng nghĩa vi chi nhi hữu dĩ vi. Thượng lễ vi chi nhi mạc chi ứng, tắc nhương tý nhi nhưng nhi. Cố thất Đạo nhi hậu đức; thất Đức nhi hậu Nhân; thất Nhân nhi hậu Nghĩa; thất Nghĩa nhi hậu Lễ. Phù Lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ. Tiền thức giả Đạo chi hoa nhi ngu chi thủy. Thị dĩ đại trượng phu xử kỳ hậu bất cư kỳ bạc; xử kỳ thực bất cư kỳ hoa. Cố khử bỉ thủ thử. * 38

A. Cái Đức cao nhất không (chăm chú) lo Đức cho nên có Đức. Cái Đức kém (chỉ lo) không thất Đức cho nên không có Đức. Cái Đức cao nhất vô vi mà không có gì để làm, cái Nhân cao nhất có làm nhưng không có cái gì để làm. Cái Nghĩa cao nhất có làm nhưng có cái để làm. Cái Lễ cao nhất có làm nhưng không có ai hưởng ứng, nên giơ cánh tay lôi kéo người ta. B. Cho nên cái Đạo có mất đi thì sau đó mới có cái Đức; cái Đức có mất đi thì sau đó mới có chữ Nhân; chữ Nhân có mất đi thì sau đó mới có chữ Nghĩa; chữ Nghĩa có mất đi thì sau đó mới có chữ Lễ. Phàm chữ Lễ xuất hiện là do chữ trung, chữ tín đã mỏng yếu rồi, và là đầu mối của loạn. Kẻ biết trước (/trí giả/) là mối họa của Đạo, là nguồn gốc của cái ngu. Vì vậy cho nên các bậc đại trượng phu ở nơi dày không ở nơi mỏng, chuộng cái chất phác, không chuộng cái hoa mỹ. Cho nên ông ta bỏ cái thứ hai theo cái thứ nhất. # 39

Tích nhi đắc Nhất giả: thiên đắc dĩ thanh; địa đắc Nhất dĩ ninh; thần đắc Nhất dĩ linh; cốc đắc nhất dĩ doanh; vạn vật đắc Nhất dĩ sinh. Hầu vương đắc nhất dĩ vi thiên hạ trinh. Kỳ trí chi Nhất dã. Thiên vô dĩ thanh tương khủng liệt; địa vô dĩ ninh tương khủng phế; thần vô dĩ linh tương khủng yết, cốc vô dĩ doanh tương khủng kiệt; vạn vật vô dĩ sinh tương khủng diệt; hầu vương vô quý cao tương khủng quyết. Cố quý dĩ tiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ. Thị dĩ hầu vương tự vị cô quả, bất cốc. Thử kỳ dĩ tiện vi bản da? Phi hồ? Cố trí sổ dự vô dự. Bất dục lục lục như ngọc. Lạc lạc như thạch. * 39

A. Người xưa lo có được “Cái Một” là vì: Trời mà có được “Cái Một” thì trong; đất mà có được “Cái Một” thì yên; thần mà có được “Cái Một” thì thiêng; hang có được “Cái Một” thì đầy. Muôn vật có được “cái Một” thì sinh ra, các vương hầu có được “Cái Một” thì thành chuẩn mực cho thiên hạ. Tất cả đều lo đạt đến “Cái Một” hết. B. Nếu trời không có cách đạt đến cái trong thì sợ sẽ vỡ; đất không có cách đạt đến cái yên thì sợ sẽ hỏng; thần không có cách đạt đến cái thiêng thì sợ sẽ tan; các hang không có gì đạt đến cái đầy sợ sẽ kiệt; muôn vật không có gì để sống sợ sẽ diệt vong; các vương hầu không có cách đạt đến cái cao quý sợ sẽ mất ngôi. C. Cho nên cái sang lấy cái hèn làm gốc; cái cao lấy cái thấp làm nền. Cho nên các vương hầu tự xưng mình là “cô” (/con mồ côi/), là “quả” (/ít đức/), là “bất cốc” (/bất thiện/). Đó chẳng phải họ lấy cái hèn làm gốc đó sao? Chằng phải thế sao? D. Cho nên ca ngợi cao nhất là không ca ngợi. Không muốn được người ta quý trọng như viên ngọc đẹp, mà chỉ muốn bị coi thường như sỏi đá. # 40

Phản giả, Đạo chi động; nhược giả, Đạo chi dụng. Thiên hạ vạn vật sinh ư Hữu; Hữu sinh ư Vô. * 40

Trở về, đó là cách vận động của Đạo; yếu mềm đó là cái tác dụng của Đạo. Muôn vật trong thiên hạ đều do cái Hữu mà sinh ra. Cái Hữu là do cái “Vô” mà sinh ra. # 41

Thượng sĩ văn Đạo, cần nhi hành chi. Trung sĩ văn Đạo, nhược tồn nhược vong, hạ sĩ văn Đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vi đạo. Cố kiến ngôn hữu chi: Minh Đạo nhược muội; tiến Đạo nhược thoái; di Đạo nhược loại; thượng Đức nhược cốc, đại bạch nhược nhục; quảng Đức nhược bất túc; kiến Đức nhược thu; chất chân nhược du. Đại phương vô ngung; đại khí vãn thành; đại Đạo hi thanh; đại tượng vô hình; đạo ẩn vô danh. Phù duy Đạo, thiện thải khả thành. * 41

A. Kẻ sĩ cao nhất nghe Đạo thì chăm chỉ thực hiện. Kẻ sĩ bậc trung nghe Đạo thì vừa nhớ vừa quên. Kẻ sĩ kém nghe Đạo thì cười chê Đạo. Nếu anh ta không cả cười thì không đáng gọi là Đạo (/vì Đạo đâu phải dễ hiểu/). Cho nên người xưa có nói: “Kẻ sáng về Đạo có vẻ như ngu muội; kẻ tiến về Đạo có vẻ như là bước lùi; cái Đạo bằng phẳng có vẻ như là khúc khuỷu. B. Bậc đức cao nhất có vẻ như cái hang; cái trắng cao nhất có vẻ như là nhơ bẩn; cái đức rộng có vẻ như là không đủ; cái đức vững chắc có vẻ như là mềm yếu; cái đức chân thực có vẻ như là trống không. C. Cái vuông cực lớn thì không có góc; cái đồ dùng cực lớn làm xong muộn; cái âm cực lớn thì ít có tiếng; cái hình tượng cực lớn thì không có hình thù; cái Đạo cực lớn thì không có tên. Chỉ có cái Đạo là khéo sinh ra và tạo thành muôn vật. # 42

Đạo sinh Nhất; Nhất sinh Nhị; Nhị sinh Tam, Tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung khí dĩ vi hợp. Nhân chi sở ố, duy cô, quả, bất cốc, nhi vương công dĩ vi xưng. Cố vật hoặc tổn chi nhi ích; hoặc ích chi nhi tổn. Nhân chi sở giảo, ngã diệc giáo chi: “Cường lương giả bất đắc kỳ tử”. Ngô tương dĩ vi giáo phụ. * 42

A. Đạo sinh ra “cái Một”(/Thái cực/); Cái Một sinh ra Cái Hai (/âm dương/); cái Hai sinh ra cái Ba (/âm dương và giao hợp của chúng/); Cái Ba sinh ra muôn vật. Muôn vật đều cõng âm, ôm dương do khí xung khắc nhau mà hợp với nhau. B. Điều người ta ghét là cô (/mồ côi/), quả (ít đức/), bất cốc (/ít thiện/), nhưng các vương công lại gọi mình là thế. Các sự vật có khi bớt nó mà lại là thêm, thêm cho nó mà lại là bớt. Điều (này) người ta đây, ta cũng đem ra dạy: “Kẻ cương cường thì bất đắc kỳ tử”. Ta nay cũng lấy câu ấy làm cái gốc của điều dạy. # 43

Thiên hạ chi chí nhu, trì sính thiên hạ chi chí kiên, vô hữu nhập vô gián. Ngô thị dĩ tri vố vi chi hữu ích. Bất ngôn chi giáo, vô vi chi ích, thiên hạ hy cập chi. * 43

A. Cái cực mềm trong thiên hạ chi phối cái cực cứng trong thiên hạ, cái không “hữu” (/như ánh sáng/) xuyên cái cái không có chỗ hở (/như tấm kính/). Ta qua đó biết cái có ích của vô vi. B. Cách dạy không dùng lời, điều ích lợi của vô vi, thiên hạ ít người đạt được. # 44

Danh dữ thân, thục thân? Thân dữ hóa, thục đa? Đắc dữ vong thục bệnh? Thị cố thậm ái tất thậm phí; đa tàng tất hậu vong. Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi, khả dĩ trường cửu. * 44

Cái danh và thân mình cái nào thân thiết hơn? Thân mình và của cải cái nào quan trọng hơn? Được và mất cái nào nguy hại hơn? Vì vậy cho nên yêu thích lắm thì tổn thất nhiều; chứa chất lắm thì bỏ mất nhiều. Biết tri túc thì không bị nhục; biết dừng thì không nguy, có thể lâu dài. # 45

Đại thành nhược khuyết; kỳ dụng bất tệ. Đại doanh nhược xung, kỳ dụng bất cùng. Đại trực nhược khuất. Đại xảo nhược chuyết; đại biện nhược nột. Tĩnh thắng táo; hàn thắng nhiệt; thanh tĩnh dĩ vi thiên hạ chính. * 45

A. Cái đầy đủ nhất có vẻ như thiếu sót; nhưng công dụng của nó không hết. Cái đầy lớn có vẻ như trống rỗng nhưng công dụng của nó không bao giờ cùng. Người thẳng lớn có vẻ như cong; người khéo lớn có vẻ như vụng; người biện luận lớn có vẻ như ấp úng. B. Tĩnh thắng động; hàn thắng nhiệt, lấy thanh tĩnh để làm cho thiên hạ thành ngay. # 46

Thiên hạ hữu đạo, khước tấu mã dĩ phẩn; thiên hạ vô đạo, nhung mã sinh ư giao. Họa mạc đại ư bất tri túc; cửu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ. * 46

A. Khi thiên hạ có đạo thì dùng ngựa cưỡi để cày. Khi thiên hạ không có đạo thì ngựa chiến đẻ con ở ngoại ô. B. Không cái họa nào lớn hơn là không biết tri túc; không sai lầm nào lớn hơn là tham lam. Cho nên kẻ biết cái đủ là đủ thì không bị nhục và bao giờ cũng thấy đủ. # 47

Bất xuất hộ, tri thiên hạ; bất khuy dũ, kiến thiên đạo. Kỳ xuất di viễn, kỳ tri di thiểu. Thị dĩ thánh nhân bất hành nhi trí; bất kiến nhi danh; bất vi nhi thành.

* 47

Không ra khỏi cửa lớn mà biết thiên hạ, không nhìn cửa sổ mà biết đạo trời. Người đi càng xa thì cái biết của anh ta càng ít. Vì vậy nên bậc thánh nhân không đi mà biết; không nhìn mà thấy; không làm mà nên công. # 48

Vi học nhật ích, vi Đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi. Vô vi nhi vô bất vi. Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự. Cập kỳ hữu sụ bất túc dĩ thủ thiên hạ. * 48

A. Theo cái học thì ngày một tăng thêm; theo cái Đạo thì ngày một bớt đi. Bớt đi lại bớt đi cho đến vô vi. B. Vô vi mà không việc gì không làm. Lấy thiên hạ bao giờ cũng bằng vô vi. Còn nếu gây việc thì không đủ để lấy thiên hạ. # 49

Thánh nhân vô thường tâm, dĩ bách tính tâm vi tâm. Thiện giả, ngô thiện chi; bất thiện giả, ngô diệc thiện chi, đắc thiện hĩ. Tín giả, ngô tín chi; bất tín giả, ngô diệc tín chi, đắc tín hĩ. Thánh nhân tại thiên hạ, hấp hấp vị thiên hạ hồn kỳ tâm. Bách tính giai chú kỳ nhĩ mục, thánh nhân giai hài chi. * 49

Bậc thánh nhân không có cái lòng bất biến, lấy lòng thiên hạ làm cái lòng của mình. Người tốt ta tốt với họ; người không tốt ta cũng tốt với họ thì sẽ được cái tốt. Người đáng tin ta tin họ; người không đáng tin ta cũng tin họ, thì sẽ được chữ tín. Bậc thánh nhân ở trong thiên hạ, tấm lòng lo cho thiên hạ mà không bộc lộ. Trăm họ đều dồn mắt lắng tai, thánh nhân coi họ đều như trẻ thơ. # 50

Xuất sinh nhập tử. Sinh chi đồ thập hữu tam, tử chi đồ thập hữu tam. Nhân chi sinh, động chi tử đạo diệc thập hữu tam. Phù hà cố? Dĩ kỳ sinh sinh chi hậu. Cái văn thiện nhiếp sinh giả, lăng hành bất ngộ tỳ hổ, nhập quân bất bị giáp binh. Tỳ vô sở đầu kỳ giác, hổ vô sở thố kỳ trảo; binh vô sở dung kỳ nhẫn. Phù hà cố? Dĩ kỳ vô tử địa. * 50

A. Vào chết ra sinh. Con đường sống có mười ba đường (/cửu khiếu và bốn chân tay/). Con đường chết mười ba đường. Con người sinh ra đi tới cái chết cũng có mười ba đường. Tại sao lại thế? Đó là vì lo đến cái sống quá hậu hĩ. B. Cho nên nghe nói: Kẻ khéo nhiếp sinh, đi đường bộ không gặp tê ngưu, hổ. Vào quân đội không bị đao thương. Tê ngưu, không có nơi để húc sừng, hổ không có chỗ để trổ móng, binh khí không có chỗ để đâm mũi nhọn. Tại sao thế? Vì không có chỗ để chết (/họ không đến những nơi này/). # 51

Đạo sinh chi, Đức súc chi, vật hình chi, thế thành chi. Thị dĩ vạn vật mạc bất tôn Đạo nhi quý Đức. Đạo chi tôn, Đức chi quý, phù mạc chi mệnh nhi thường tự nhiên. Cố Đạo sinh chi, Đức súc chi, trưởng chi, dục chi, dưỡng chi, đình chi độc chi, dưỡng nhi phúc chi. Sinh nhi bất hữu; vi nhi bất thị; dưỡng nhi bất tể. Thị vị Huyền Đức. * 51

A. Cái Đạo sinh muôn vật, cái Đức nuôi chúng, vật cấp cho chúng hình hài, hoàn cảnh làm cho chúng trưởng thành. Vì thế cho nên muôn vật không vật nào không trọng cái Đạo và quý cái Đức. B. Cái đáng trọng của Đạo, cái đáng quý của Đức, chẳng do cái gì ra lệnh cả mà là theo tự nhiên. Cho nên cái Đạo sinh ra muôn vật, cái Đức nuôi chúng, làm cho chúng lớn lên, đùm bọc chúng, làm cho chúng hoàn tất (/đình/), trọn vẹn (/độc/), nuôi nấng chúng, che chở chúng. Cái Đức sinh ra mà không chiếm lấy; làm mà không cậy công; giúp chúng lớn lên mà không làm chủ. Cho nên gọi là cái Đức huyền diệu (/huyền đức). # 52

Thiện hạ hữu thủy, dĩ vi thiên hạ mẫu. Ký đắc kỳ mẫu, dĩ tri kỳ tử. Ký tri kỳ tử, phục thủ kỳ mẫu. Một thân bất đãi. Tắc kỳ đoài bế kỳ môn, chung thân bất cần. Khai kỳ đoài, tế kỳ sự, chung thân bất cứu. Kiến tiểu viết minh; thủ nhu viết cường. Dụng kỳ quang, phục quy kỳ minh. Vô dĩ thân ương, thú vị tập thường. * 52

A. Thiên hạ có cái khởi thủy để làm bà mẹ thiên hạ. Một khi đã biết được bà mẹ của muôn vật thì biết được đứa con. Một khi đã biết được đứa con lại giữ được mẹ thì suốt đời không nguy. B. Nếu bịt các lối, đóng các cửa thì suốt đời không vất vả; nếu mở các lối, bao biện công việc thì suốt đời không cứu được. C. Thấy được cái nhỏ kín gọi là sáng, giữ lấy cái mềm gọi là mạnh. Nếu dùng cái ánh sáng (của Đạo) để quay trờ về cái sáng (của mình) thì không có cái gì có thể khiến thân mình bị tai ương. Cái đó là theo cái bất biến (/tập thường/). # 53

Sử ngã giới nhiên hữu tri, hành ư đại đạo, duy thi thị úy. Đại đạo thậm di, nhi dân hiếu kính. Triều thậm trừ, điền thậm vu, thương thậm hư, phục văn thái, đái lợi kiếm, yếm ẩm thực, tài hóa hữu dư. Thị vị đạo khoa. Phi Đạo dã tai? * 53

A. Nếu như ta có một chút khôn ngoan, thì khi theo con đường lớn chỉ sợ đi sai mà thôi. Con đường lớn (/đại Đạo/) rất bằng phẳng nhưng dân lại thích đi đường tắt. B. Triều đình rất hỗn loạn (/trừ/), ruộng vườn rất hoang vu, kho lương rất trống rỗng. Nhưng lại mặc áo gấm thêu, mang kiếm sắc, lo ăn uống chê chán, có của cải thừa thãi. Đó là bọn trộm cướp đâu phải là Đạo? # 54

Thiện kiến giả bất bạt; thiện bảo giả bất thoát. Tử tôn dĩ tế tự bất chuyết. Tu chi ư thân, kỳ đức nãi chân. Tu chi ư gia, kỳ đức nãi dư. Tu chì ư hương, kỳ đức nãi trường. Tu chi ư quốc, kỳ đức nãi phong. Tu chi ư thiên hạ, kỳ đức nãi phổ. Cố dĩ thân quan thân, dĩ gia quan gia, dĩ hương quan hương, dĩ quốc quan quốc, dĩ thiên hạ quan thiên hạ. Ngô hà dĩ trĩ thiên hạ nhiên tai? Dĩ thử. * 54

A. Kẻ khéo dựng thì không thể nhổ, kẻ khéo ôm thì không thể thoát, con cháu sẽ tế tự không dứt. B. Trau dồi (Đạo) ở thân mình thì cái đức của mình sẽ chân thực; trau dồì Đạo ở nhà mình thì cái đức sẽ có thừa; trau dồi nó ở làng thì cái đức sẽ lâu dài; trau dồi nó ở nước thì cái đức sẽ thịnh; trau dồi nó ở thiên hạ thì cái đức sẽ lan khắp. C. Cho nên hãy lấy thân mình mà xét thân mình; hãy lấy nhà mà xét nhà; hãy lấy làng mà xét làng; hãy lấy nước mà xét nước; hãy lấy thiên hạ (ngày xưa) mà xét thiên hạ (ngày nay). Ta làm sao mà biết thiên hạ ra sao? Lấy điều đã nói trên đây. # 55

Hàm đức chi hậu, tỷ ư xích tử. Độc trùng bất thích, mãnh thú bất cứ; quắc điểu bất bác. Cốt nhược, cân nhu nhi ác cố, vị tri tẫn mẫu chi hợp nhi thuyên tác tinh chi chí dã. Chung nhật hào nhi bất sá, hòa chi chí dã. Tri hòa viết thường, tri thường viết minh; ích sinh viết tường; tâm sử khí viết cường. Vật tráng tắc lão, vị chi bất Đạo. Bất đạo tảo dĩ. * 55

A. Kẻ nào giữ được cái Đức dồi dào thì có thể sánh với đứa con đỏ. Độc trùng không chích nó; mãnh thú không vồ; chim ác không mổ. Xương nó yếu, gân nó mềm mà nắm chắc; chưa biết giao hợp mà “chim” tự cứng (/vì sinh khí đầy đủ/) vì tinh khí có dư; kêu gào suốt ngày mà giọng không khản là hòa hợp hết sức. Biết hòa hợp gọi là bất biến (/thường/); biết cái bất biến là sáng. Lo lắng quá nhiều (/ích/) đến sự sống là có hại (/tường/). Khi cái tâm bị sinh khí sai khiến thì gọi là cường. Vật mà cường tráng thì sẽ già. Ta gọi nó là không theo cái Đạo. Không theo cái Đạo thì chết sớm. # 56

Trí giả bất ngôn; ngôn giả bất trí. Tắc kỳ đoài, bế kỳ môn. Tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần. Thị vị huyền đồng. Cố bất khả đắc nhi thân; khả đắc nhi sơ, bất khả đắc nhi lợi; bất khả đắc nhi hại; bất khả đắc nhi quý; bất khả đắc nhi tiện. Cố vi thiên hạ quý. * 56

Kẻ có trí thì không nói; kẻ nói thì không có trí. Hãy bịt các lối đi; đóng các cửa của mình; làm cùn cái sắc của mình; gỡ cái rối; làm cho ánh sáng dịu đi; hòa đồng với bụi bặm. Cái đó gọi là sự hòa đồng huyền diệu (/huyền đồng/). Cho nên (con người có Đạo) người ta không thể có cách để thân với ông ta; không có cách để xa lánh với ông ta; không có cách để làm lợi; không có cách để gây hại; không có cách để tôn quý, không có cách để coi khinh. Cho nên làm thành cái quý giá trong thiên hạ. # 57

Dĩ chính trị quốc; dĩ kỳ dụng binh; dĩ vô sự thủ thiên hạ. Ngô hà dĩ tri kỳ nhiên tai? Dĩ thử: Thiên hạ đa kị húy, nhi dân di bần; dân đa lợi khí, quốc gia tư hôn; nhân đa kỹ xảo; kỳ vật tư khởi; pháp lệnh tư chương, đạo tặc đa hữu, Cố thánh nhân vân: Ngã vô vi nhi dân tự hóa; ngã hiếu tĩnh nhi dân tự chính; ngã vô sự nhi dân tự phú; ngã vô dục nhi dân tự phác. * 57

Dùng ngay thẳng để trị nước; dùng mưu mô để chiến đấu; nhưng dùng vô vi để lấy thiên hạ. Ta làm sao biết là thế? Vì những điều dưới đây: Khi thiên hạ lắm chuyện kiêng cấm thì dân càng nghèo; khi dân có nhiều mánh khóe mưu lợi (/lợi khí/) thì nước nhà sẽ tối tăm; khi dân có nhiều kỹ xảo thì những vật lạ càng nẩy sinh; khi pháp lệnh càng rạch ròi (/chương/) thì giặc cướp càng nhiều. Cho nên bậc thánh nhân nói: “Ta vô vi mà dân tự họ cải hóa; ta thích yên tĩnh mà dân tự sửa mình theo cái đúng, ta vô sự mà dân tự họ giàu có. Ta không có ham muốn riêng mà dân tự họ trở nên chất phác”. # 58

Kỳ chính muộn muộn, kỳ dân thuần thuần. Kỳ chính sát sát, kỳ dân khuyết khuyết. Họa hề phúc chi sở ỷ; phúc hề họa chi sở phục. Thục tri kỳ cực? Kỳ vô chính. Chính phục vi kỷ; thiện phục vi yêu. Nhân chi mê, kỳ nhật cố cửu. Thi dĩ thánh nhân, phương nhi bất cát; liêm nhi bất quệ; trực nhi bất tứ, quang nhi bất diệu.

* 58

A. Khi chính sự một nước mờ mờ thì dân của nó thuần hậu; khi chính sự một nước rạch ròi thì dân của nó rối ren. Cái họa là nơi cái phúc nương náu; cái phúc là nơi cái họa ẩn nấp. Ai biết được kết quả của nó ra sao? Chẳng ai xác định được. Cái ngay lại biến thành cái mánh khóe; cái thiện lại biến thành cái gian dối. Cái mê muội của người đời đã lâu ngày lắm rồi. B. Cho nên bậc thánh nhân để mình vuông vắn mà không cất nó, mình liêm khiết mà không làm thương tổn người khác; mình trực mà không ngang ngược, mình sáng mà không chói lòa. # 59

Trị nhân, sự thiên mạc nhược sắc. Phù duy sắc thị vi tảo phục tảo phục, vị chi trọng tích đức; trọng tích đức tác vô bất khắc. Vô bất khắc tắc mạc tri kỳ cực. Mạc tri kỳ cực, khả dĩ hữu quốc. Hữu quốc chi mẫu, khả dĩ trường cửu. Thị vị thâm căn cố đế, trường sinh cửu thị chi đạo. * 59

Trị người, thờ trời không gì bằng tiết kiệm. Bởi vì chỉ có tiết kiệm thì mới sớm trở về với Đạo (/tảo phục/); sớm trở về với Đạo gọi là coi trọng việc tích đức. Nếu coi trọng việc tích đức thì không có điều gì không khắc phục được. Một khi không có điều gì không khắc phục được thì không ai biết được cái cùng cực; khi không ai biết được cái cùng cực thì có thể giữ được nước, có thể có được bà Mẹ của nước, có thể trường cửu. Cái đó gọi là “rễ sâu gốc vững”, cái đạo trường sinh nhờ cậy lâu. # 60

Trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên. Dĩ đạo lị thiên hạ, kỳ quỷ bất thần. Phi quỷ bất thần, kỳ thần bất thương nhân. Phi kỳ thần bất thương nhân, thánh nhân diệc bất thương nhân. Phù lưỡng bất tương thương, cố đức giao quy yên. * 60

Cai tri một nước lớn có vẻ như nấu con cá nhỏ. Dùng đạo để cai trị thiên hạ thì quỷ không thiêng. Không phải là quỷ không thiêng mà cái thiêng của quỷ không làm người bị thương tổn. Không phải cái thiêng của quỷ không làm người bị thương tổn mà bậc thánh nhân cũng không làm người bị thương tổn. Vì hai bên không làm nhau bị thương tổn, cho nên cái đức của cả hai giao tiếp với nhau về cùng một nơi. # 61

Đại quốc giả hạ lưu, thiên hạ chi giao, thiên hạ chi tẫn. Tẫn thường dĩ tĩnh thắng mẫu dĩ kỳ tĩnh vi hạ. Cố đại quốc dĩ hạ tiểu quốc tắc thủ tiểu quốc; tiểu quốc dĩ hạ đại quốc tắc thủ đại quốc. Cố hoặc hạ dĩ thủ; hoặc hạ nhi thủ. Đại quốc bất quá dục kiêm súc nhân; tiểu quốc bất quá dục nhập sự nhân. Phù lưỡng giả các đắc kỳ sở dục. Đại giả, nghi vi hạ. * 61

Nếu như cái nước lớn chịu ở chỗ thấp thì sẽ là nơi quy tụ (/giao/) của thiên hạ. Con cái thường lấy cái tĩnh để thắng con đực, (vì) lấy cái tĩnh làm chỗ thấp. Cho nên nếu như nước lớn biết hạ mình trước nước nhỏ thì sẽ lấy được nước nhỏ. Nước nhỏ biết hạ mình trước nước lớn thì sẽ lấy được nước lớn. Cho nên hoặc là chịu lún (/hạ/) để lấy; hoặc là chịu lún để được che chở. Nước lớn chẳng qua muốn kiêm tính để nuôi người; nước nhỏ chẳng qua muốn nhập vào để thờ người. Cả hai bên đều đạt được điều mình muốn, cho nên kẻ lớn nên chịu lún. # 62

Đạo giả, vạn vật chi áo, thiện nhân chi bửu, bất thiện nhân chi sở bảo. Thiện ngôn khả dĩ thị tôn; mỹ hành khả dĩ gia nhân. Nhân chi bất thiện hà khí chi hữu? Cố lập thiên tử, trí tam công, tuy hữu củng bích, dĩ tiên tứ mã, bất như tọa tiến thử đạo. Cổ chi sở dĩ quý thử đạo giả hà? Bất viết cầu dĩ đắc, hữu tội dĩ miễn da? Cố vi thiên hạ quý dã. * 62

A. Cái Đạo là nơi sâu kín của muôn vật, cái quý báu của người thiện, cái người bất thiện nhờ đó được nương tựa. Lời nói tốt đẹp có thể làm cho thêm tôn quý (/thị tôn/). Hành động tốt đẹp có thể đề cao con người. Sao lại vứt bỏ những người bất thiện? B. Cho nên tuy được lập làm thiên tử, được ở địa vị tam công, tuy tay cầm ngọc bích ngồi xe bốn ngựa kéo, nhưng vẫn không bằng quỳ dâng cái đạo này. Tại sao người xưa lại quý cái đạo này? Chẳng phải nói (/viết/) do cầu gì được nấy, có tội được miễn tội đó sao? Vì vậy nó là cái quý trong thiên hạ. # 63

Vi vô vi; sự vô sự; vị vô vị. Đại tiểu, đa thiểu. Báo oán dĩ đức. Đồ nan ư kỳ di; vi đại ư kỳ tế. Thiên hạ nan sự, tất tác ư dị; thiên hạ đại sự, tất tác ư tế. Thị dĩ thánh nhân, chung bất vi đại, cố năng thành kỳ đại. Phù khinh nặc, tất quả tín; đa dị tất đa nan. Thị dĩ thánh nhân do nan chi, cố chung vô nan hĩ. * 63

A. Làm cái vô vi; theo cái vô sự; nếm cái không có mùi vị. Xem cái lớn như cái nhỏ, cái nhiều như cái ít là như nhau. Lấy đức để báo oán. Lo liệu việc khó từ khi nó còn dễ; làm việc lớn từ khi nó còn nhỏ. Việc khó trong thiên hạ nhất định phải làm từ chỗ dễ; việc lớn trong thiên hạ, nhất định phải làm từ chỗ nhỏ bé. B. Cho nên bậc thánh nhân suốt đời không làm việc gì lớn cho nên có thể làm nên việc lớn. Phàm ai hứa dễ dàng thì chắc chắn là ít giữ chữ tín. Xem việc quá dễ sẽ gặp nhiều cái khó. Bậc thánh nhân cho nó khó nên suốt đời không gặp việc khó. # 64

Kỳ an dị trì; kỳ vi triệu dị mưu; kỳ thủy dị phán; kỳ vi dị tán. Vi chi ư vị hữu; trị chi ư vị loạn. Hợp bao chi mộc, sinh ư hào mạt. Cửu tằng chi dài khởi ư lủy thổ, thiên lý chi hành, thủy ư túc hạ. Vi giả bại chi; chấp giả thất chi. Thị dĩ thánh nhân vô vi cố vô bại; vô chấp cố vô thất. Dân chi tòng sự thường ư cơ thành nhi bại chi. Thận chung như thủy, tức vô bại sự. Thị dĩ thánh nhân dục bất dục, bất quý nan đắc chi hóa; học bất học, phục chúng nhân chi sở quá. Dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên, nhi bất cảm vi. * 64

A. Khi tình hình đang yên thì dễ nắm giữ; khi cái mầm chưa lộ ra thì dễ lo liệu; khi vật đang mềm thì dễ chia cắt; khi vật còn nhỏ thì dễ phân tán. Phải làm từ khi nó chưa xuất hiện; phải trị từ khi chưa loạn. Cây gỗ đầy một ôm sinh ra từ cái mầm con; cái đài chín từng bắt đầu từ một sọt đất; chuyến đi xa ngàn dặm bất đầu ở dưới chân. B. Kẻ nào làm (theo ý mình) thì làm cho việc hỏng; kẻ nào cố chấp thì thất bại. Cho nên bậc thánh nhân vô vi cho nên không thất bại; không cố chấp cho nên không mất. C. Người ta lo công việc thường làm cho công việc hỏng khi sắp hoàn thành. Phải cẩn thận khi kết thúc như lúc đầu tiên thì sẽ không bị thất bại. Cho nên bậc thánh nhân muốn mình không muốn, không quý những của cải khó kiếm, học cái không học (/ không phải do học vấn có được/), làm cho mọi người trở về cái họ đã trải qua (/thời đứa trẻ sơ sinh/). Giúp theo cái tự nhiên của muôn vật mà không dám làm (theo ý mình). # 65

Cổ chi thiện vi đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi. Dân chi nan trị dĩ kỳ trí đa. Cố dĩ trí trị quốc, quốc chi tặc, bất dĩ trí trị quốc, quốc chi phúc. Trì thử lưỡng giả diệc kê thức. Thường tri kê thức thị vị huyền đức. Huyền đức thâm hĩ, viễn hĩ; dữ vật phản hĩ, nhiên hậu nãi chí đại thuận. * 65

A. Cho nên người xưa khéo thi hành cái Đạo thì không phải làm cho dân chúng khôn ra, mà làm cho dân chúng ngu đi. Sở dĩ dân chúng khó trị là vì trí khôn của họ lắm. Cho nên ai muốn lấy trí khôn để cai trị nước thì đó là giặc của nước; không lấy trí khôn để trị nước đó là cái phúc của nước. B. Nắm lấy hai cái trên chính là các quy tắc (để trị nước). Việc luôn luôn biết cái quy tắc này, đó là cái Đức huyền diệu (/huyền đức/). Cái đức huyền diệu sâu thẳm, xa vời. Nó trở về với vật rồi sau đó đạt đến cái thuận to lớn (/đại thuận/). # 66

Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ kỳ thiện hạ chi, cố năng vi bách cốc vương. Thị dĩ dục thượng dân, tất dĩ ngôn hạ chi; dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi. Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân bất trọng; xử tiền nhi dân bất hại. Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm. Dĩ kỳ bất tranh cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. * 66

Sở dĩ sông biển có thể làm vị vua của trăm hang là vì nó khéo ở dưới thấp (so với hang) cho nên có thể làm vua của trăm hang. Cho nên muốn ở trên dân chúng thì phải dùng lời nói để nhún mình, muốn ở trước dân chúng thì phải đặt thân mình sau dân chúng. Chính vì vậy cho nên thánh nhân ở trên mà dân không cho là nặng, mình ở trước mà dân không cho là có hại cho họ. Cho nên thiên hạ vui lòng ủng hộ mà không chán. Vì thánh nhân không tranh giành cho nên thiên hạ không có ai tranh giành được với ông ta. # 67

Thiên hạ giai vị ngã đạo đại, tự bất tiếu. Phù duy đại, cố tự bất tiếu. Nhược tiếu, cửu hỹ kỳ tế dã phù! Ngã hữu tam bửu, trì nhi bảo chi: nhất viết từ; nhị viết kiệm, tam viết bất cảm vi thiên hạ tiên. Từ cố năng dũng; kiệm cố năng quảng; bất cảm vi thiên hạ tiên, cố năng thành khí trưởng. Kim xá từ thả dũng, xả kiệm thả quảng, xá hậu thả tiên, tử hỹ. Phù từ dĩ chiến tắc thắng, dĩ thủ tắc cố, thiên tương cửu chi, dĩ từ vệ chi. * 67

A. Thiên hạ đều bảo cái Đạo của ta lớn, có vẻ như không giống cái gì hết. Vì nó lớn cho nên nó không giống cái gì hết. Ví thử nó giống một vật nào đấy thì từ lâu nó đã nhỏ mất rồi! B. Ta có ba cái quý: Cái thứ nhất là “Nhân từ”; cái thứ hai là “Tiết kiệm”; cái thứ ba là “Không dám xem mình trước thiên hạ”. Vì nhân từ cho nên có thể dũng cảm. Vì tiết kiệm cho nên có thể mở rộng. Vì không dám xem mình trước thiên hạ cho nên có thể thành chúa tể mọi vật (/khí trưởng/). C. Nay nếu như bỏ nhân từ mà lo dũng cảm; bỏ tiết kiệm mà muốn mở rộng; bỏ việc ở sau mà lo đứng trước thì chết. Phàm lấy nhân từ để chiến đấu thì thắng, để giữ thì vững chắc. Nếu trời muốn cứu ai thì do người ấy đã lấy nhân từ để tự bảo vệ mình. # 68

Thiện vi sĩ giả, bất vũ; thiện chiến giả, bất nộ; thiện thắng dịch giả, bất dữ. Thiện dụng nhân giả vi chi hạ. Thị vị bất tranh chi đức; thị vị dụng nhân chi lực; thị vị phối thiên cổ chi cực. * 68

Kẻ làm tướng (/sĩ/) giỏi không dùng vũ lực; người chiến đấu giỏi không nổi giận; người khéo chiến thắng địch không giao chiến. Người khéo dùng người thì đặt mình dưới người ta. Cái đó gọi là cái đức của việc không tranh giành. Cái đó gọi là cái đức của việc dùng người. Cái đó gọi là chỗ cùng cực của đạo trời từ xưa. # 69

Dụng binh hữu ngôn. “Ngô bất cảm vi chủ nhi vi khách; bất cảm tiến thốn nhi thối xích”: Thị vị hành vô hành, nhượng vô tý, nhưng vô địch, chấp vô binh. Họa mạc đại ư khinh địch; khinh địch cơ táng ngô bảo. Cố kháng binh tương gia, ai giả thắng hĩ. * 69

Cách dùng binh có câu: “Ta không dám làm người chủ (để đánh) mà làm người khách (để đối phó), không dám tiến lên một tấc mà rút lui một thước.” Cái đó gọi là đi mà không dàn binh; đuổi mà không giơ tay; nắm mà không dùng binh khí, bắt giữ mà không giao chiến với địch. Không có tai họa nào lớn hơn khinh địch. Khinh địch, thì sẽ bỏ mất cái quý của ta. Cho nên khi quân đội giao chiến, bên nào nhân từ thì bên ấy thắng. # 70

Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành, thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành. Ngôn hữu tông; sự hữu quân. Phù duy vô tri, thi dĩ bất ngã tri. Tri ngã giả hy, tắc ngã quý hĩ, thị dĩ thánh nhân bị hạt, hoài ngọc. * 70

Lời nói của ta biết rất dễ; làm rất dễ. Thiên hạ chẳng ai biết; chẳng ai làm. Lời của ta có gốc; việc làm của ta có căn cứ. Vì thiên hạ không hiểu được (điều này) cho nên họ chẳng hiểu ta. Ai hiểu ta, thì ta quý. Vì vậy bậc thánh nhân mặc áo vải thô mà lòng ôm ngọc. # 71

Tri bất tri thượng; bất tri, tri, bệnh. Phù duy bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh. Thánh nhân bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh. * 71

Biết mà làm như không biết là cao nhất. Không biết mà làm ra vẻ biết là bệnh. Vì mình biết đó là bệnh cho nên chẳng có bệnh. Bậc thánh nhân biết đó là bệnh cho nên không có bệnh. # 72

Dân bất uý uy, tắc dại uy chi. Vô hiệp kỳ sở cư, vô yếm kỳ sở sinh. Phù duy bất yếm, thị dĩ bất yếm. Thị dĩ thánh nhân tự tri bất tự hiện; tự ái bất tự quý. Cố khử bỉ, thủ thử. * 72

Dân không sợ uy hiếp thì cái uy hiếp lớn sẽ đến. Chớ chê nơi ở của mình bị chật chội, chớ chán cách sống của mình. Vì mình không chê cho nên không chán. Cho nên bậc thánh nhân tuy biết mình nhưng không nêu cao mình, tuy tự yêu mình, nhưng không tự quý trọng mình. Cho nên bỏ cái thứ hai mà theo cái thứ nhất. # 73

Dũng vu cảm tắc sát; dũng vu bất cảm tắc hoạt. Thử lưỡng giả hoặc lợi, hoặc hại. Thiên chi sở ố, thục tri kỳ cổ? Thị dĩ thánh nhân do nan chi. Thiên chi đạo bất tranh nhi thiện thắng; bất ngôn nhi thiện ứng; bất triệu nhi tự lai; thiền nhiên nhi thiện mưu. Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu. * 73

Kẻ dũng ở chỗ dám làm thì sẽ bị giết; kẻ dũng ở chỗ không không dám làm thì sẽ sống. Hai cái trên đây một cái có lợi, một cái có hại. Có điều mà trời ghét có ai biết lý do không? Cho nên bậc thánh nhân còn cho điều ấy là khó. Cái đạo của trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo ứng; không gọi mà tự đến, thản nhiên mà khéo mưu tính. Lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng lại chẳng để lọt. # 74

Dân bất uý tử, nãi hà dĩ tử cụ chi? Nhược sử dân thường uý tử nhi vi kỳ giả, ngô đắc chấp nhi sát chi, thục cảm? Thường hữu tư sát giả sát. Phù đại tư sát giả sát thị vi đại đại tượng trác. Phù đại đại trác giả, hy hữu bất thương kỳ thủ hĩ.

* 74

Dân chúng không sợ chết, cớ gì lại lấy cái chết đe doạ họ? Nếu ta khiến cho dân chúng bao giờ cũng sợ chết, rồi có kẻ làm chuyện xằng bậy ta bắt và giết đi, thì ai dám (làm bậy)? Đạo có cái lo việc giết để giết. Nếu ta thay thế cái lo việc giết này mà giết thì cũng như thợ mộc mà đẽo, ít có người khỏi đứt tay vậy. # 75

Dân chi cơ, dĩ kỳ thượng thực thuế chi da, thị dĩ cơ. Dân chi nan trị, dĩ kỳ thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị. Dân chi khinh tử dĩ kỳ cầu sinh chi hậu, thị dĩ khinh tử. Phù duy vô dĩ sinh vi giả, thị hiền ư quý sinh. * 75

Dân mà đói là do người trên đánh thuế nhiều cho nên đói. Dân mà khó trị là vì người trên thi hành lối “hữu vi (/chính sự phiền hà/), cho nên khó trị. Dân mà coi thường cái chết là vì người trên lo cái sống của họ quá nặng, cho nên dân khinh cái chết. Phàm người quan tâm tới việc không coi trọng chuyện mưu sinh là giỏi hơn kẻ quý trọng việc mưu sinh. # 76

Nhân chi sinh dã nhu nhược, kỳ tử dã kiên cường. Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thuỷ, kỳ tử dã khô cảo. Cố kiên cường giả, tử chi đồ; nhu nhược giả, sinh chi đồ. Thị dĩ binh cường tắc bất thắng; mộc cường tắc chiết. Cố kiên cường xử hạ; nhu nhược xử thượng. * 76

Con người khi sống thì mềm yếu mà khi chết thì cứng nhắc. Muôn vật, cây cỏ khi sống đều mềm yếu, mà khi chết đều khô cứng. Cho nên cứng rắn là con đường chết; mềm yếu là con đường sống. Cho nên binh mạnh thì chẳng thắng, cây cứng thì bị chặt. Cho nên cứng và lớn ở bực dưới; mềm yếu ở bực trên. # 77

Thiên chi đạo kỳ do trương cung dư? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi; hữu dư giả tổn chi; bất túc giả bổ chi. Thiên chi đạo tổn hữu dư nhi bổ bất túc. Nhân chi đạo tắc bất nhiên: tổn bất túc dĩ phụng hữu dư. Thục năng hữu dư dĩ phụng thiên hạ? Duy hữu đạo giả. Thị dĩ thánh nhân, vi nhi bất thị; công thành nhi bất xử, kỳ bất dục hiện hiển. * 77

Cái đạo của trời giống như trương cây cung chăng? Cây cung khi cao thì hạ thấp nó xuống, khi thấp thì đưa nó lên. Thừa thì bớt, thiếu thì bù. Đạo trời bớt chỗ thừa mà bù vào chỗ còn thiếu. Đạo người thì lại không thế. Nó bớt chỗ thiếu để phụng sự chỗ thừa. Ai có thể lấy cái chỗ thừa để phục vụ thiên hạ? Chỉ có người có đạo. Cho nên bậc thánh nhân làm mà không cậy công, công đã thành mà không cho là của mình. Ông ta không muốn trổ cái tài giỏi của mình. # 78

Thiên hạ nhu nhược mạc quá ư thuỷ. Nhi công kiên cương giả, mạc nhi năng thắng, kỳ vô dĩ dịch chi. Nhu thắng cương; nhược thắng cường, thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành. Thị dĩ thánh nhân vân: “Thụ quốc chi cấu thị vi xã tắc chủ, thụ quốc bất thường, thị vi thiên hạ vương. Chính ngôn nhược phản.” * 78

Trong thiên hạ không có cái gì mềm yếu hơn nước, nhưng việc công phá cái cứng rắn thì không có cái gì hơn nước, không có cái gì thay thế được nó. Yếu thắng mạnh, mềm thắng cứng, thiên hạ không ai không biết điều này, cũng không không ai thi hành được. Vì vậy cho nên bậc thánh nhân nói: “Kẻ chịu cái nhơ bẩn của thiên hạ thì làm chủ xã tắc; chịu cái không may của nước thì làm vương thiên hạ. Lời ngay nghe như trái ngược.” # 79

Hòa đại oán, tất hữu dư oán. An khả dĩ vi thiện? Thị dĩ thánh nhân, chấp tả khế nhi bất trách ư nhân. Hữu đức tư khế, vô đức tư triệt. Thiên đạo vô thân, thượng dữ thiện nhân. * 79

Nếu giải hòa được cái oán lớn thế nào cũng còn cái oán sót lại, làm sao có thể làm điều thiện được? Vì vậy cho nên bậc thánh nhân cầm nửa tờ giao kèo bên trái mà không trách cứ người ta. Người có đức trao tờ giao kèo cho người ta, người không có đức lo thu thuế (/triệt là tên loại thuế/). Đạo trời không thân ai, thường giúp người thiện. #  80

Tiểu quốc, quả dân. Sử hữu thập bách chi khí nhi bất dụng. Sử dân trọng tử nhi bất viễn tỉ. Tuy hữu chu, dư, vô sở thừa chi; tuy hữu giáp binh, vô sở thừa chi. Sử dân phục kiết thằng nhi dụng chi. Cam kỳ thực; mỹ kỳ phục; an kỳ cư; lạc kỳ tục. Lân quốc tương vọng; kê khuyến chi thanh tương văn. Dân chí lão tử bất tương vãng lai. * 80

Nước nhỏ, dân ít. Tuy có dụng cụ gấp mười, gấp trăm (sức người) cũng không dùng. Khiến dân coi trọng cái chết mà không đi xa. Tuy có thuyền, xe cũng không ai lên; tuy có binh khí cũng không trưng bày. Khiến dân trở lại dùng tục thắt nút. Cho thức ăn của mình là ngon; cho quần áo mình là đẹp; bằng lòng với nơi ở của mình; vui với tục lệ của mình. Các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe tiếng gà, tiếng chó của nhan. Dân đến già, chết không qua lại với nhau. # 81

Tín ngôn bất mỹ; mỹ ngôn bất tín. Thiện giả bất biện; biện giả bất thiện. Trí giả bất bác; bác giả bất trí. Thánh nhân bất tích. Ký dĩ vi nhân kỷ dũ hữu, ký dĩ dữ nhân kỷ dụ đa. Thiên chi đạo, lợi nhi bất hại. Thánh nhân chi đạo, vi nhi bất tranh. * 81

Lời nói đáng tin không đẹp; lời nói đẹp không đáng tin. Người thiện không tranh biện; người tranh biện không thiện. Người có trí không biết rộng; người biết rộng không có trí. Bậc thánh nhân không tích luỹ, càng giúp cho người ta thì lại càng có thừa; càng cho người ta thì mình lại càng có nhiều. Đạo trời làm lợi (cho muôn vật) mà không làm hại. Cái đạo của bậc thánh nhân làm mà không tranh giành. Chịu trách nhiệm xuất bản: Dương Thu Hồng Chịu trách nhiệm bản thảo: Nguyễn Văn Lưu Biên tập: Ban VHNN NXB Văn học, Trung tâm văn hoá Đông Tây Vẽ bìa: Văn Sáng Sửa bản in: Dịch giả

V. ĐẠO ĐỨC KINH Phan Ngọc

上經 – 道經 Thượng Kinh – Đạo Kinh

第一章: 道可道, 非常道; 名可名, 非常名. 無, 名天地之始; 有, 名萬物之母. 故常無, 欲以觀其妙; 常有, 欲以觀其故常無, 欲以觀其妙; 常有, 欲以觀其徼. 此兩者, 同出而異名. 同謂之玄. 玄之又玄. 衆妙之門.

Chương 1: Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh. Vô, danh thiên địa chi thuỷ; Hữu, danh vạn vật chi mẫu. Cố thường vô, dục dĩ quan kì diệu; cố thường hữu, dục dĩ quan kì khiếu. Thử lưỡng giả đồng xuất, nhi dị danh. Đồng, vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn.

第二章: 天下皆知美之爲美, 斯惡已; 皆知善之爲善, 斯不善已. 故有無相生, 難易相成, 長短相形, 高下相傾, 音聲相和, 前後相隨. 是以聖人處無爲之事, 行不言之教; 萬物作焉而不辭, 生而不有, 爲而不侍, 功成而不居. 夫唯不居, 是以不去.

Chương 2: Thiên hạ giai tri mĩ chi vi mĩ, tư ác dĩ. Giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố Hữu Vô tương sinh, nan dị tương thành; trường đoản tương hình; cao hạ tương khuynh; âm thanh tương hoá; tiền hậu tương qùy. Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo. Vạn vật tác yên nhi bất từ; sinh nhi bất hữu; vi nhi bất thị; công thành nhi phất cư. Phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ.

第三章: 不尚賢, 使民不爭; 不貴難得之貨, 使民不爲盜; 不見可欲, 使 民心不亂. 是以聖人之治, 虛其心, 實其腹; 弱其志, 强其骨. 常使民無知無欲, 使夫智者不敢爲也, 爲無爲, 則無不治.

Chương 3: Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quý nan đắc chi hoá, sử dân bất vi đạo. Bất hiện khả dục, sử dân tâm bất lọan. Thị dĩ thánh nhân chi trị: thực kì phúc, nhược kì chí, cường kì cốt. Thường sử dân vô tri, vô dục. Sử phù trí giả bất cảm vi dã. Vi vô vi tắc vô bất trị.

第四章: 道沖, 而用之或不盈, 淵兮, 似萬物之宗.  挫其銳, 解其紛, 和其光, 同其塵; 湛兮似或存. 吾不知誰之子, 象帝之先.

Chương 4: Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh. Uyên hề tự vạn vật chi tông. Toả kì nhuệ; giải kì phân; hồ kì quang; đồng kì trần. Trạm hề, tự hoặc tồn! Ngô bất tri thuỳ chi tử, Thượng đế chi tiên.

第五章: 天地不仁, 以萬物爲芻狗; 聖人不仁, 以百姓爲芻狗. 天地之間, 其猶橐籥乎! 虛而不屈, 動而愈出. 多言數窮, 不如守中.

Chương 5: Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu. Thiên địa chi gian, kì do thác nhược hồ? Hư nhi bất khuất; động nhi dũ xuất. Đa ngôn sổ cùng, bất như thủ trung.

第六章: 谷神不死, 是謂玄牝, 玄牝之門, 是謂天地根. 綿綿若存, 用之不勤.

Chương 6: Cốc thần bất tử, thị vị huyền tẫn. Huyền tẫn chi môn, thị vị thiên địa căn. Miên miên nhược tồn. Dụng chi bất cần.

第七章: 天長地久. 天地所以能長且久者, 以其不自生, 故能長生. 是以聖人後其身而身先, 外其身而身存. 非以其無私耶? 故能成其私.

Chương 7: Thiên trường địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kì bất tự sinh cố năng trường sinh. Thị dĩ thánh nhân hậu kì thân nhi thân tiên, ngoại kì thân nhi thân tồn. Phi dĩ kì vô tư da? Cố năng thành kì tư.

第八章: 上善若水. 水善利萬物而不爭, 處眾人之所惡, 故幾於道. 居善地, 心善淵, 與善仁, 言善信, 正善治, 事善能, 動善時. 夫唯不爭, 故無尤.

Chương 8: Thượng thiện nhược thuỷ. Thuỷ thiện lợi vạn vật nhi bất tranh. Xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư Đạo. Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời. Phù duy bất tranh cố vô vưu.

第九章: 持而盈之, 不如其已; 揣而銳之, 不可長保. 金玉滿堂, 莫之能守; 富貴而驕, 自遺其咎. 功成身退, 天之道.

Chương 9: Trì nhi doanh chi, bất như kì dĩ. Suỷ nhi duệ chi, bất khả trường bảo. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ. Phú quý nhi kiêu tự di kì cữu. Công toại thân thối, thiên chi đạo.

第十章: 載營魄抱一, 能無離乎? 專氣致柔, 能嬰兒乎? 滌除玄覽, 能無疵乎? 愛國治民, 能無爲乎? 天門開闔, 能爲雌乎? 明白四達, 能無知乎? 生之畜之, 生而不有, 爲而不恃, 長而不宰, 是謂玄德.

Chương 10: Tải doanh phách, bão nhất, năng vô ly hồ? Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ? Địch trừ huyền lãm, năng vô tỳ hồ? Ái dân trị quốc, năng vô tri hồ? Thiên môn khai hợp, năng vi tỳ hồ? Minh bạch tứ đạt, năng vô vi hồ? Sinh nhi súc chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị; trưởng nhi bất tể, thị vị huyền đức.

第十一章: 三十輻, 共一轂, 當其無, 有車之用. 埏埴以爲器, 當其無, 有器之用. 鑿戶牖以爲室, 當其無, 有室之用. 故有之以爲利, 無之以爲用.

Chương 11: Tam thập phức cộng nhật cốc, đương kì vô hữu xa chi dụng. Duyên thực dĩ vi khí, đương kì vô hữu khí chi dụng; tạc hộ dũ dĩ vi thất, đương kì vô hữu thất chi dụng. Cố hữu chi dĩ vi lợi; vô chi dĩ vi dụng.

第十二章: 五色令人目盲; 五音令人耳聾; 五味令人口爽; 馳騁畋獵令人心發狂; 難得之貨令人行妨. 是以聖人爲腹不爲目, 故去彼取此.

Chương 12: Ngũ sắc lịnh nhân mục manh. Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng. Trì sính điền liệp, lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hoá lịnh nhân hành phương. Thị dĩ thánh nhân vị phúc, bất vị mục. Cố khử bỉ thủ thử.

第十三章: 寵辱若驚, 貴大患若身. 何謂寵辱若驚? 寵爲上, 辱爲下, 得之若驚, 失之若驚, 是謂寵辱若驚. 何謂貴大患若身? 吾所以有大患者, 爲吾有身, 及吾無身, 吾有何患? 故貴以身爲天下, 若可寄天下; 愛以身爲天下, 若可託天下.

Chương 13: Sủng nhục nhược kinh. Quý đại hoạn nhược thân. Hà vị sủng nhục nhược kinh? Sủng vi thượng, nhược vi hạ. Đắc chi nhược kinh; thất chi nhược kinh. Thị vị sủng nhục nhược kinh. Hà vị quý đại hoạn nhược thân? Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn? Cố quý dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả kí thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả thác thiên hạ.

第 十四章: 視之不見名曰夷; 聽之不聞名曰希; 搏之不得名曰微. 此三者不可致詰, 故混而爲一. 其上不皎, 其下不昧, 繩繩不可名, 復歸於無物. 是謂無狀之狀, 無物之象, 是謂惚恍. 迎之不見其首, 隨之不見其後. 執古之道, 以御今之有; 能知古始, 是謂道紀.

Chương 14: Thị chi bất kiến, danh viết “Dĩ”; thính chi bất văn, danh viết “Hi”; bác chi bất đắc, danh viết “Vi” . Thử tam giả bất khả trí cật. Cố hỗn nhi vi nhất. Kì thượng bất kiểu, kì hạ bất muội. Thằng thằng bất khả danh. Phục quy ư vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng. Thị vị hốt hoảng. Nghinh chi bất kiến kì thủ, tuỳ chi bất kiến kì hậu. Chấp cổ chi đạo, dĩ ngự kim chi hữu. Năng chi cổ thuỷ, thị vị đạo kỉ.

第 十五章: 古之善爲道者, 微妙玄通, 深不可識. 夫唯不可識, 故强爲之容. 豫兮, 若冬涉川; 猶兮, 若畏四鄰; 儼兮, 其若客; 渙兮, 若冰之將釋; 敦兮, 其若樸; 曠兮, 其若谷; 混兮; 其若濁. 孰能濁以靜之徐清? 孰能安以動之徐生? 保此道者, 不欲盈. 夫唯不盈, 故能蔽而新成.

Chương 15: Cổ chi thiện vi sĩ giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức, cố cưỡng vi chi dung. Dự hề, nhược đông thiệp xuyên; do hề, nhược uý tứ lân; nghiễm hề, kì nhược khách; hoán hề, nhược băng chi tương thích. Đôn hề, kì nhược phác; khoáng hề, kì nhược cốc; hỗn hề, kì nhược trọc. Thục năng trọc dĩ chỉ, tĩnh chi từ thanh; thục dĩ an dĩ cửu, động chi từ sinh? Bảo thử Đạo giả bất dục doanh. Phù duy bất doanh, cố năng tế nhi bất thành.

第十六章: 致虛極, 守靜篤, 萬物並作, 吾以觀復. 夫物芸芸, 各復歸其根. 歸根曰靜, 是謂復命. 復命曰常. 知常曰明, 不知常, 妄作凶. 知常容, 容乃公, 公乃全, 全乃天, 天乃道, 道乃久, 没身不殆.

Chương 16: Trí hư cực, thủ tĩnh đốc. Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các phục quy kì căn. Quy căn viết tĩnh. Thị vị viết “phục mạng” . Phục mạng viết thường. Tri thường viết minh. Bất chi thường vọng tác, hung. Tri thường dung. Dung nãi công. Công nãi toàn. Toàn nãi thiên. Thiên nãi Đạo. Đạo nãi cửu. Một thân bất đãi.

第十七章: 太上, 下知有之; 其次, 親而譽之; 其次, 畏之; 其次, 侮之. 信不足焉, 有不信焉. 悠兮, 其貴言. 功成事遂, 百姓皆謂: 我自然.

Chương 17: Thái thượng, hạ tri hữu chi. Kì thứ, thân nhi dự chi. Kì thứ, uý chi. Kì thứ, vũ chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên. Du hề, kì quý ngôn. Công thành sự toại, bách tính giai vị “Ngã tự nhiên”.

第十八章: 大道廢, 有仁義; 智慧出, 有大僞; 六親不和, 有孝慈; 國家昏亂, 有忠臣.

Chương 18: Đại Đạo phế, hữu nhân nghĩa. Trí tuệ xuất, hữu đại ngụy; lục thân bất hoà, hữu hiếu từ. Quốc gia hôn loạn hữu trung thần.

第十九章: 絕聖棄智, 民利百倍; 絕仁棄義, 民復孝慈; 絕巧棄利, 盜賊無有. 此三者以爲文不足, 故令有所屬: 見素抱樸, 少思寡欲.

Chương 19: Tuyệt thánh, khí trí, dân lợi bách bội. Tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ. Tuyết xảo khí lợi, đao tặc vô hữu. Thử tam giả, dĩ vi văn, bất túc. Cố lịnh hữu sở thuộc: kiến tố, bão phác, thiểu tư, quả dục.

第 二十章: 絕學無憂. 唯之與阿, 相去幾何? 善之與惡, 相去若何? 人之所畏, 不可不畏. 荒兮其未央哉! 眾人熙熙, 如享太牢, 如春登臺; 我獨泊兮其未兆, 如嬰兒之未孩, 儽儽兮若無所歸. 眾人皆有餘, 而我獨若遺; 我愚人之心也哉, 沌沌兮! 俗人昭昭, 我獨昏昏; 俗人察察, 我獨悶悶, 澹兮其若海, 飂兮若無止. 眾人皆有以, 而我獨頑且鄙. 我獨異於人, 而貴食母.

Chương 20: Tuyệt học vô ưu. Duy chi dự a, tương khứ kỉ hà? Thiện chi dự ác, tương khứ nhược hà? Nhân chi sở uý, bất khả bất uý. Hoang hề kì vị ương tai! Chúng nhân hi hi, như hưởng thái lao, như xuân đăng đài. Ngã độc bạc hề kì vị triệu, như anh nhi chi vị hài. Luy luy hề nhược vô sở quy. Chúng nhân giai hữu dư, nhi ngã độc dược dư. Ngã ngu nhân chi tâm dã tai! Độn độn hề, tục nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn; tục nhân sát sát, ngã độc muộn muộn. Đạm hề, kì nhược hải; liêu hề, nhược vô chỉ. Chúng nhân giai hữu dĩ, nhi ngã độc ngoan tự bỉ. Ngã độc dị ư nhân, nhi quy thực mẫu.

第二十一章: 孔德之容, 惟道是從. 道之爲物, 惟恍惟惚; 惚兮恍兮, 其中有象; 恍兮惚兮, 其中有物. 窈兮冥兮, 其中有精; 其精甚眞, 其中有信. 自古及今, 其名不去, 以閱眾甫. 吾何以知眾甫之狀哉? 以此.

Chương 21: Khổng đức chi dung. Duy Đạo thị tùng. Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt. Hốt hề, hoảng hề, kì trung hữu tượng; hoảng hề hốt hề, kì trung hữu vật; yểu hề, minh hề, kì trung hữu tinh. Kì tinh thậm chân, kì trung hữu tín. Tự cổ cập kim, kì danh bất khứ, dĩ duyệt chúng phủ. Ngô hà dĩ chi chúng phủ chi trạng tai? Dĩ thử.

第二十二章: 曲則全, 枉則直, 窪則盈, 敝則新, 少則得, 多則惑. 是以聖人抱一爲天下式. 不自見故明不自是故彰; 不自伐, 故有功; 不自矜故長. 夫唯不爭故天下莫能與之爭. 古之所謂曲則全者, 豈虛言哉! 誠全而歸之.

Chương 22: Khúc tắc toàn; uổng tắc trực; oa tắc doanh; tệ tắc tân; thiểu tắc đắc; đa tắc hoặc. Thị dĩ thánh nhân bão nhất, vi thiên hạ thức. Bất tự kiến, cố minh; bất tự thị. cố chương; bất tự phạt, cố hữu công; bất tự căng, cố trưởng. Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. Cổ chi sở vị khúc tắc toàn giả, khởi hư ngôn tai? Thành, toàn nhi quy chi.

第 二十三章: 希言自然. 故飄風不終朝, 驟雨不終日. 孰爲此者? 天地. 天地尚不能久, 而況於人乎? 故從事於道者, 同於道; 德者, 同於德; 失者, 同於失. 同於道者, 道亦樂得之; 同於德者, 德亦樂得之; 同於失者, 失亦樂得之. 信不足焉, 有不信焉.

Chương 23: Hi ngôn tự nhiên, cố phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật. Thục vi thử giả? Thiên địa. Thiên địa thượng bất năng cửu, nhi huống ử nhân hồ? Cố tòng sự ư Đạo giả, Đạo giả đồng ư Đạo. Đức giả đồng ư Đức. Thất giả đồng ư thất. Đồng ư Đạo giả, Đạo diệc lạc đắc chi. Đồng ư Đức giả, Đức diệc lạc đắc chi. Đồng ư thất giả, thất diệc lạc đắc chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên.

第二十四章: 企者不立, 跨者不行. 自見者不明, 自是者不彰, 自伐者不功, 自誇者不長. 其於道也曰: 餘食贅行, 物或惡之, 故有道者不處.

Chương 24: Xí giả bất lập; khoá giả bất hành. Tự kiến giả bất minh; tự thị giả bất chương; tự phát giả vô công; tự căng giả bất trường. Kì tại Đạo dã, viết: “Dư thực chuế hành, vật hoặc ố chi”. Cố hữu Đạo giả bất xử.

第 二十五章: 有物混成, 先天地生. 寂兮, 寥兮, 獨立而不改, 周行而不殆, 可以爲天地母. 吾不知其名, 字之曰道, 强爲之名曰大. 大曰逝, 逝曰遠, 遠曰反. 故道大, 天大, 地大, 人亦大. 域中有四大, 而人居其一焉. 人法地, 地法天, 天法道, 道法自然.

Chương 25: Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập bất cải. Chu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi thiên hạ mẫu. Ngô bất tri kì danh. Tự chi viết Đạo; cưỡng vi chi danh viết Đại. Đại viết thệ; thệ viết viễn; viễn viết phản. Cố Đạo đại; Thiên đại; Địa đại; Nhân diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kì nhất yên. Nhân pháp địa; địa pháp thiên; thiên pháp Đạo; Đạo pháp tự nhiên.

第二十六章: 重爲輕根, 靜爲躁君. 是以聖人終日行不離輜重. 雖有榮觀, 燕處超然. 奈何萬乘之主, 而以身輕天下? 輕則失根, 躁則失君.

Chương 26: Trọng vi khinh căn; tĩnh vi táo quân. Thị dĩ thánh nhân chung nhật hành bất ly tri trọng; tuy hữu vinh quan, yến xử siêu nhiên. Nại hà vạn thặng chi chủ nhi dĩ thân khinh thiên hạ? Khinh tắc thất bản; táo tắc thất quân.

第 二十七章: 善行無轍跡, 善言無瑕謫, 善數不用籌策, 善閉無關楗而不可開, 善結無繩約而不可解. 是以聖人常善救人, 故無棄人; 常善救物, 故無棄物. 是謂襲明. 故善人者, 不善人之師; 不善人者, 善人之資. 不貴其師, 不愛其資, 雖智大迷. 是謂要妙.

Chương 27: Thiện hành, vô triệt tích; thiện ngôn, vô hà trích; thiện số, bất dụng trù sách; thiện bế, vô quan kiện nhi bất khả khai; thiện kết, vô thằng ước nhi bất khả giải. Thị dĩ thánh nhân thường thiện cứu nhân, cố vô khí nhân; thường thiện cứu vật, cố vô khí vật. Thị vị tập minh. Cố thiện nhân giả, bất thiện nhân chi sư; bất thiện nhân giả, thiện nhân chi tư. Bất quý kì sư, bất ái kì tư, tuy trí đại mê. Thị vi yếu diệu.

第 二十八章: 知其雄, 守其雌, 爲天下谿; 爲天下谿, 常德不離, 復歸於嬰兒. 知其白, 守其黑, 爲天下式; 爲天下式, 常德不忒, 復歸於無極. 知其榮, 守其辱, 爲天下谷; 爲天下谷, 常德乃足, 復歸於樸. 樸散則爲器, 聖人用之, 則爲官長, 故大制不割.

Chương 28: Tri kì hùng, thủ kì thư, vi thiên hạ khê. Vi thiên hạ khê, thường đức bất li, phục quy ư anh nhi. Tri kì bạch, thủ kì hắc, vi thiên hạ thức. Vi thiên hạ thức, thường Đức bất thắc, phục quy ư vô cực. Tri kì vinh, thủ kì nhục, vi thiên hạ cốc. Vi thiên hạ cốc, thường Đức nãi túc, phục quy ư phác. Phác tán tăc vi khí. Thánh nhân dụng chi tắc vi quan trưởng. Cố đại chế bất cát.

第二十九章: 將欲取天下而爲之, 吾見其不得已. 天下神器, 不可爲也, 不可執也. 爲者敗之, 執者 失之. 故物或行或隨, 或歔或吹,或强或羸, 或挫或隳. 是以聖人去甚, 去奢, 去泰.

Chương 29: Tương dục thủ thiên hạ nhi vi chi, ngô kiến kì bất đắc dĩ. Thiên hạ thần khí bất khả vi dã. Vi giả bại chi; chấp giả thất chi. Cố, vật hoặc hành, hoặc tuỳ, hoặc hư, hoặc xuy, hoặc cường, hoặc luy, hoặc toả, hoặc truy. Thị dĩ thánh nhân khử thậm, khử xa, khử thái.

第三十章: 以道佐人主者, 不以兵强天下. 其事好還. 師之所處, 荊棘生焉. 大軍之後, 必有凶年. 善者果而已, 不敢以取强. 果而勿矜, 果而勿伐, 果而勿驕, 果而不得已, 果而勿强. 物壯則老, 是謂不道, 不道早已.

Chương 30: Dĩ Đạo tá nhân chủ giả, bất dĩ binh cưỡng thiên hạ. Kì sự hảo hoàn. Sư chi sở xử, kinh cức sinh yên. Đại quân chi hậu, tất hữu hung niên. Cố thiện hữu quả nhi dĩ, bất cảm dĩ thủ cường. Quả nhi vật căng; quả nhi vật phạt; quả nhi vật kiêu; quả nhi bất đắc dĩ; quả nhi vật cưỡng. Vật tráng, tắc lão thị vị bất Đạo. Bất Đạo, tảo dĩ.

第 三十一章: 夫佳兵者, 不祥之器. 物或惡之, 故有道者不處. 君子居則貴左, 用兵則貴右. 兵者不祥之器, 非君子之器, 不得已而用之, 恬淡爲上. 勝而不美, 而美之者, 是樂殺人. 夫樂殺人者, 則得志於天下矣. 吉事尚左, 凶事尚右. 偏將軍居左, 上將軍居右, 言以喪禮處之. 殺人之眾, 以悲哀泣之, 戰勝以喪禮處之.

Chương 31: Phù giai binh giả, bất tường chi khí, vật hoặc ố chi. Cố hữu Đạo giả bất xử. Quân tử cư tắc quý tả, dụng binh tắc quý hữu. Binh giả bất tường chi khí, phi quân tử chi khí. Bất đắc nhi dụng chi, điềm đạm vi thượng. Thắng nhi bất mĩ. Nhi mĩ chi giả thị lạc sát nhân. Phù lạc sát nhân giả, tắc bất khả đắc chí ư thiên hạ hĩ. Cát sự thượng tả, hung sự thượng hữu. Thiên tướng quân cư tả, thượng tướng quân cư hữu. Ngôn dĩ tang lễ xử chi. Sát nhân chi chúng, dĩ ai bi khấp chi. Chiến thắng dĩ tang lễ xử chi.

第三十二章: 道常無名, 樸, 雖小, 天下莫能臣也. 王侯若能守之, 萬物將自賓. 天地相合, 以降甘露, 民莫之令而自均. 始制有名, 名亦既有, 夫亦將知止. 知所止所以不殆. 譬道之在天下, 猶川谷之與江海.

Chương 32: Đạo thường vô danh, phác. Tuy tiểu, thiên hạ mạc năng thần dã. Hầu vương nhuợc năng thủ chi, vạn vật tương tự tân. Thiên địa tương hợp, dĩ giáng cam lộ. Dân mạc chi lịnh nhi tự quân. Thuỷ chế hữu danh, danh diệc kí hữu, phù diệc tương chi kỉ. Tri kỉ khả dĩ bất đãi. Thí Đạo chi tại thiên hạ, do xuyến cốc chi ư giang hải.

第三十三章: 知人者智, 自知者明. 勝人者力, 自勝者强. 知足者富, 强行者有志. 不失其所者久, 死而不亡者壽.

Chương 33: Tri nhân giả trí; tự tri giả minh. Thắng nhân giả hữu lực; tự thắng giả cường. Tri túc giả phú, cưỡng hành giả hữu chí. Bất thất kì sở giả cửu. Tử nhi bất vong giả thọ.

第三十四章: 大道氾兮, 其可左右. 萬物恃之而生而不辭, 功成而不有. 衣養萬物而不主. 常無欲, 可名於小; 萬物歸焉而不主, 可名爲大. 以其終不自爲大, 故能成其大.

Chương 34: Đại Đạo phiếm hề, kì khả tả hữu. Vạn vật thị chi nhi sinh nhi bất từ. Công thành bất danh hữu. Y dưỡng vạn vật nhi bất vi chủ. Thường vô dục, khả danh vu tiểu. Vạn vật quy yên nhi bất vi chủ. Khả danh vi đại. Dĩ kì chung bất tự vi đại cố năng thành kì đại.

第三十五章: 執大象, 天下往. 往而不害, 安平太. 樂與餌, 過客止. 道之出口, 淡乎其無味, 視之不足見, 聽之不足聞, 用之不足既.

Chương 35: Chấp đại tượng, thiên hạ vãng. Vãng nhi bất hại, an bình thái. Nhạc dữ nhĩ, quá khách chỉ. Đạo chi xuất khẩu, đạm hồ kì vô vị. Thị chi bất túc kiến; thính chi bất túc văn; dụng chi bất túc kí.

第三十六章: 將欲歙之, 必固張之. 將欲弱之. 必固强之. 將欲廢之, 必固舉之. 將欲奪之, 必固與之. 是謂微明. 柔弱勝剛强. 魚不可脫於淵, 國之利器不可以示人.

Chương 36: Tương dục hấp chi, tất cố trương chi. Tương dục nhược chi, tất cố cường chi. Tương dục phế chi, tất cố hưng chi. Tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi. Thị vị vi minh. Nhu nhược thắng cương cường. Ngư bất khả thoát ư uyên. Quốc chi lợi khí bất khả dĩ thị nhân.

第三十七章: 道常無爲而無不爲, 侯王若能守之, 萬物將自化. 化而欲作, 吾將鎭之以無名之樸. 無名之樸, 夫亦將無欲. 不欲以靜, 天下將自定.

Chương 37: Đạo thường vô vi, nhi vô bất vi. Hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự hoá. Hoá nhi dục tác, ngô tương trấn chi dĩ vô danh chi phác. Vô danh chi phác, phù diệc tương vô dục. Bất dục dĩ tĩnh, thiên hạ tương tự định.

下經 – 德經 Hạ Kinh – Đức Kinh

第 三十八章: 上德不德, 是以有德; 下德不失德, 是以無德. 上德無爲而無以爲; 下德無爲而有以爲. 上仁爲之而無以爲; 上義爲之而有以爲. 上禮爲之而莫之應, 則攘臂而扔之. 故失道而後德, 失德而後仁, 失仁而後義, 失義而後禮. 夫禮者, 忠信之薄, 而亂之首. 前識者道之華, 而愚之始. 是以大丈夫處其厚, 不居其薄, 處其實, 不居其華. 故去彼取此.

Chương 38: Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức. Hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức. Thượng đức vô vi, nhi vô dĩ vi. Hạ đức vi chi nhi hữu dĩ vi. Thượng nhân vi chi nhi vô dĩ vi. ; thượng nghĩa vi chi nhi hữu dĩ vi. Thượng lễ vi chi nhi mạc chi ứng, tắc nhương tý nhi nhưng chi. Cố thất Đạo nhi hậu đức, thất Đức nhi hậu Nhân; thất Nhân nhi hậu Nghĩa; thất Nghĩa nhi hậu Lễ. Phù Lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ. Tiền thức giả Đạo chi hoa nhi ngu chi thuỷ. Thị dĩ đại trượng phu xử kì hậu bất cư kì bạc; xử kì thực bất cư kì hoa. Cố khứ bỉ thủ thử.

第 三十九章: 昔之得一者: 天得一以清, 地得一以寧, 神得一以靈, 谷得一以盈, 萬物得一以生, 侯王得一以爲天下貞. 其致之. 天無以清將恐裂, 地無以寧將恐廢, 神無以靈將恐歇, 谷無以盈將恐竭, 萬物無以生將恐滅, 侯王無以貴高將恐蹶. 故貴以賤爲本, 高以下爲基. 是以侯王自謂孤, 寡, 不穀. 此非以賤爲本邪? 非歟? 故至譽無譽, 不欲琭琭如玉, 珞珞如石.

Chương 39: Tích chi đắc Nhất giả: thiên đắc Nhất dĩ thanh; địa đắc Nhất dĩ ninh; thần đắc Nhất dĩ linh; cốc đắc Nhất dĩ doanh; vạn vật đắc Nhất dĩ sinh. Hầu vương đắc Nhất dĩ vi thên hạ trinh. Kì trí chi Nhất dã. Thiên vô dĩ thanh tương khủng liệt; địa vô dĩ ninh tương khủng phế; thần vô dĩ linh tương khủng yết; cốc vô dĩ doanh tương khủng kiệt; vạn vật vô dĩ sinh tương khủng diệt; hầu vương vô quý cao tương khủng quyết. Cố quý dĩ tiện vi bản; cao dĩ hạ vi cơ. Thị dĩ hầu vương tự vị cô quả, bất cốc. Thử kì dĩ tiện vi bản da? Phi hồ? Cố trí sổ dự vô dự. Bất dục lục dục như ngọc. Lạc lạc như thạch.

第四十章: 反者道之動, 弱者道之用. 天下萬物生於有, 有生於無.

Chương 40: Phản giả, Đạo chi động; nhược giả, Đạo chi dụng. Thiên hạ vạn vật sinh ư Hữu; Hữu sinh ư Vô.

第 四十一章: 上士聞道, 勤而行之; 中士聞道, 若存若亡; 下士聞道, 大笑之. 不笑, 不足以爲道. 故建言有之: 明道若昧, 進道若退, 夷道若纇; 上德若谷, 大白若辱, 廣德若不足, 建德若偷, 質德若渝. 大方無隅, 大器晚成, 大音希聲; 大象無形, 道隱無名. 夫唯道, 善貸且成.

Chương 41: Thượng sĩ văn Đạo, cần nhi hành chi. Trung sĩ văn Đạo, nhược tồn nhược vong; hạ sĩ văn Đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vi đạo. Cố kiến ngôn hữu chi: Minh Đạo nhược muội; tiến Đạo nhược thoái; di Đạo nhược loại; thượng Đức nhược cốc; đại bạch nhược nhục; quảng Đức nhược bất túc; kiến Đức nhược nhu; chất chân nhược du. Đại phương vô ngung; đại khí vãn thành; đại âm hi thanh; đại tượng vô hình; đạo ẩn vô danh. Phù duy Đạo, thiện thải khả thành.

第四十二章: 道生一, 一生二, 二生三, 三生萬物. 萬物負陰而抱陽, 中氣以爲和. 人之所惡, 唯孤, 寡, 不穀. 而王公以爲稱. 故, 物或損之而益, 或益之而損. 人之所敎, 我亦敎之, 梁强者不得其死, 吾將以爲敎父.

Chương 42: Đạo sinh Nhất; Nhất sinh Nhị; Nhị sinh Tam; Tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung khí dĩ vi hợp. Nhân chi sở ố, duy cô, quả, bất cốc, nhi vương công dĩ vi xưng. Cố vật hoặc tổn chi nhi ích; hoặc ích chi nhi tổn. Nhân chi sở giáo, nhã diệc giáo chi: “Cường lương giả bất đắc kì tử.” Ngô tương dĩ vi giáo phụ.

第四十三章: 天下之至柔馳騁天下之至堅. 無有入無間. 吾是以知無爲之有益. 不言之敎, 無爲之益, 天下希及之.

Chương 43: Thiên hạ chi chí nhu, trì sính thiên hạ chi chí kiên, vô hữu nhập vô gián. Ngô thị dĩ tri vô vi chi hữu ích. Bât ngôn chi giáo, vô vi chi ích, thiên hạ hi cập chi.

第四十四章: 名與身孰親? 身與貨孰多? 得與亡孰病? 是故甚愛必大費, 多藏必厚亡. 知足不辱, 知止不殆, 可以長久.

Chương 44: Danh dữ thân, thục thân? Thân dữ hoá, thục đa? Đắc dữ vong thục bệnh? Thị cố thậm ái tất thậm phí; đa tàng tất hậu vong. Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi, khả dĩ trường cửu.

第四十五章: 大成若缺, 其用不弊; 大盈若沖, 其用不窮; 大直若屈, 大巧若拙, 大辯若訥. 靜勝躁, 寒勝熱, 清靜爲天下正.

Chương 45: Đại thành nhược khuyết; kì dụng bất tệ. Đại doanh nhược xung, kì dụng bất cùng. Đại trực nhược khuất; đại xảo nhược chuyết; đại biện nhược nột. Tĩnh thắng táo; hàn thắng nhiệt; thanh tĩnh dĩ vi thiên hạ chính.

第四十六章: 天下有道, 卻走馬以糞; 天下無道, 戎馬生於郊. 禍莫大於不知足, 咎莫大於欲得. 故知足之足, 常足矣.

Chương 46: Thiên hạ hữu đạo, khước tẩu mã dĩ phẩn ; thiên hạ vô đạo, nhung mã sinh ư giao. Hoạ mạc đại ư bất tri túc; cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ.

第四十七章: 不出戶, 知天下, 不窺牖, 見天道. 其出彌遠, 其知彌少. 是以聖人不行而知, 不見而名, 不爲而成.

Chương 47: Bất xuất hộ, tri thiên hạ; bất khuy dũ, kiến thiên đạo. Kì xuất di viễn, kì tri di thiểu. Thị dĩ thánh nhân bất hành nhi tri; bất kiến nhi danh; bất vi nhi thành.

第四十八章: 爲學日益, 爲道日損. 損之又損, 以至於無爲. 無爲而無不爲. 取天下常以無事, 及其有事, 不足以取天下.

Chương 48: Vi học nhật ích; vi Đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi. Vô vi nhi vô bất vi. Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự. Cập kì hữu sự bất túc dĩ thủ thiên hạ.

第四十九章: 聖人無常心, 以百姓心爲心. 善者吾善之, 不善者吾亦善之, 德善. 信者吾信之, 不信者吾亦信之, 德信. 聖人在天下, 歙歙焉, 爲天下, 渾其心. 百姓皆注其耳目, 聖人皆孩之.

Chương 49: Thánh nhân vô thường tâm, dĩ bách tính tâm vi tâm. Thiện giả, ngô thiện chi; bất thiện giả, ngô diệc thiện chi, đắc thiện hĩ. Tín giả, ngô tín chi; bất tín giả, ngô diệc tín chi, đắc tín hĩ. Thánh nhân tại thiên hạ, hấp hấp vị thiên hạ hồn kì tâm. Bách tính giai chú kì nhĩ mục, thánh nhân giai hài chi.

第五十章: 出生入死, 生之徒十有三, 死之徒十有三, 人之生, 動之死地, 亦十有三. 夫何故? 以其生生之厚. 蓋聞善攝生者, 陸行不遇兕虎, 入軍不被兵甲. 兕無所投其角, 虎無所措其爪, 兵無所容其刃. 夫何故? 以其無死地.

Chương 50: Xuất sinh nhập tử. Sinh chi đồ thập hữu tam; tử chi đồ thập hữu tam. Nhân chi sinh, động chi tử địa diệc thập hữu tam. Phù hà cố? Dĩ kì sinh sinh chi hậu. Cái văn thiện nhiếp sinh giả, lăng hành bất ngộ tỳ hổ; nhập quân bất bị giáp binh. Tỳ vô sở đầu kì giác; hổ vô sở thấu kì trảo; binh vô sở dung kì nhẫn. Phù hà cố? Dĩ kì vô tử địa.

第五十一章: 道生之, 德畜之, 物形之, 勢成之. 是以萬物莫不尊道而貴德. 道之尊, 德之貴, 夫莫之命而常自然. 故道生之, 德畜之, 長之, 育之, 亭之, 毒之, 養之, 覆之. 生而不有, 爲而不恃, 長而不宰. 是謂玄德.

Chương 51: Đạo sinh chi, Đức súc chi, vật hình chi, thế thành chi. Thị dĩ vạn vật mạc bất tôn Đạo nhi quý Đức. Đạo chi tôn, Đức chi quý, phù mạc chi mệnh nhi thường tự nhiên. Cố Đạo sinh chi, Đức súc chi, truởng chi, dục chi, dưỡng chi, đình chi, độc chi, dưỡng nhi phúc chi. Sinh nhi bất hữu; vi nhi bất thị; trưởng nhi bất tể. Thị vị Huyền Đức.

第五十二章: 天下有始, 以爲天下母. 既得其母. 以知其子, 既知其子, 復守其母, 沒身不殆. 塞其兌, 閉其門, 終身不勤. 開其兌, 濟其事, 終身不救. 見小曰明, 守柔曰强. 用其光, 復歸其明, 無遺身殃. 是爲習常.

Chương 52: Thiên hạ hữu thuỷ, dĩ vi thiên hạ mẫu. Kí đắc kì mẫu, dĩ tri kì tử. Kí tri kì tử, phục thủ kì mẫu. Một thân bất đãi. Tắc kì đoài, bế kì môn, chung thân bất cần. Khai kì đoài, tế kì sự, chung thân bất cứu. Kiến tiểu viết minh; thủ nhu viết cường. Dụng kì quang, phục quy kì minh. Vô dĩ thân ương, thị vị tập thường.

第五十三章: 使我介然有知, 行於大道, 惟施是畏. 大道甚夷而民好徑. 朝甚除, 田甚蕪, 倉甚虚; 服文綵, 帶利劍, 厭飮食, 財貨有餘, 是謂盗夸, 非道也哉!

Chương 53: Sử ngã giới nhiên hữu tri, hành ư đại đạo, duy thuỷ thị uý. Đại đạo thậm di, nhi dân hiếu kính. Triều thậm trừ, điền thậm vu, thương thậm hư, phục văn thái, đái lợi kiếm, yếm ẩm thực, tài hoá hữu dư. Thị vị đạo khoa. Phi Đạo dã tai?

第 五十四章: 善建者不抜, 善抱者不脫. 子孫以祭祀不輟. 修之於身, 其德乃眞; 修之於家, 其德乃餘; 修之於鄕, 其德乃長; 修之於邦, 其德乃豊; 修之於天下, 其德乃普. 故以身觀身, 以家觀家, 以鄕觀鄕, 以邦觀邦, 以天下觀天下. 吾何以知天下然哉? 以此.

Chương 54: Thiện kiến giả bất bạt; thiện bảo giả bất thoát. Tử tôn dĩ tế tự bất chuyết. Tu chi ư thân, kì đức nãi chân. Tu chi ư gia, kì đức nãi dư. Tu chi ư hương, kì đức nãi trường. Tu chi ư quốc, kì đức nãi phong. Tu chi ư thiên hạ, kì đức nãi phổ. Cố dĩ thân quan thân, dĩ gia quan gia, dĩ hương quan hương, dĩ quốc quan quốc, dĩ thiên hạ quan thiên hạ. Ngô hà dĩ tri thiên hạ nhiên tai? Dĩ thử.

第五十五章: 含德之厚, 比於赤子. 毒蟲不螫, 猛獸不據, 攫鳥不搏. 骨弱, 筋柔而握固,  未知牝牡之合而朘作, 精之至也. 終日號而不嗄, 和之至也. 知和曰常, 知常曰明. 益生曰祥. 心使氣曰强. 物壯則老, 是謂不道, 不道早已.

Chương 55: Hàm đức chi hậu, tỷ ư xích tử. Độc trùng bất thích, mãnh thú bất cứ; quắc điểu bất bác. Cốt nhược, cân nhu nhi ác cố; vị tri tẫn mẫu chi hợp nhi thuyên tác tinh chi chí dã. Chung nhật hào nhi bất sá, hoà chi chí dã. Tri hoà viết thường, tri thường viết minh; ích sinh viết tường; tâm sử khí viết cường. Vật tráng tắc lão, vị chi bất Đạo. Bất Đạo tảo dĩ.

第五十六章: 知者不言, 言者不知. 塞其兌, 閉其門, 挫其銳, 解其紛, 和其光,同其塵. 是謂玄同. 故不可得而親; 不可得而疏; 不可得而利; 不可得而害; 不可得而貴; 不可得而賤. 故爲天下貴.

Chương 56: Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất tri. Tắc kì đoài, bế kì môn, toả kì nhuệ, giải kì phân, hoà kì quang, đồng kì trần. Thị vị huyền đồng. Cố bất khả đắc nhi thân; bất khả đắc nhi sơ; bất khả đắc nhi lợi; bất khả đắc nhi hại; bất khả đắc nhi quý; bất khả đắc nhi tiện. Cố vi thiên hạ quý.

第五十七章: 以正治國, 以奇用兵, 以無事取天下. 吾何以知其然哉? 以此: 天下多忌諱而民彌貧; 朝多利器, 國家滋昏; 人多伎巧, 奇物滋起; 法令滋彰, 盜賊多有. 故聖人云: 我無爲而民自化, 我好靜而民自正, 我無事而民自富, 我無欲而民自樸.

Chương 57: Dĩ chính trị quốc; dĩ kì dụng binh; dĩ vô sự thủ thiên hạ. Ngô hà dĩ tri kì nhiên tai? Dĩ thử: Thiên hạ đa kị huý, nhi dân di bần; dân đa lợi khí, quốc gia tư hôn; nhân đa kỹ xảo; kì vật tự khởi; pháp lệnh tư chương, đạo tặc đa hữu. Cố thánh nhân vân: Ngã vô vi nhi dân tự hoá; ngã hiếu tĩnh nhi dân tự chính; ngã vô sự nhi dân tự phú; ngã vô dục nhi dân tự phác.

第五十八章: 其政悶悶, 其民醇醇; 其政察察, 其民缺缺. 禍兮福之所倚, 福兮禍之所伏. 孰知其極? 其無正. 正復爲奇, 善復爲妖. 人之迷, 其日故久. 是以聖人方而不割, 廉而不劌, 直而不肆, 光而不耀.

Chương 58: Kì chính muộn muộn, kì dân thuần thuần. Kì chính sát sát, kì dân khuyết khuyết. Hoạ hề phúc chi sở ỷ; phúc hề hoạ chi sở phục. Thục tri kì cực? Kì vô chính. Chính phục vi kì; thiện phục vi yêu. Nhân chi mê, kì nhật cố cửu. Thị dĩ thánh nhân, phương nhi bất cát; liêm nhi bất quế; trực nhi bất tứ; quang nhi bất diệu.

第五十九章: 治人, 事天莫若嗇. 夫唯嗇, 是以 早服, 早服, 謂之重積德; 重積德則無不克, 無 不克則莫知其極; 莫知其極, 可以有國; 有國之母, 可以長久, 是謂深根固柢, 長生久視之道.

Chương 59: Trị nhân, sự thiên mạc nhược sắc. Phù duy sắc thị vị tảo phục tảo phục, vị chi trọng tích đức; trọng tích đức tắc vô bất khắc. Vô bất khắc, tắc mạc tri kì cực. Mạc chi kì cực, khả dĩ hữu quốc. Hữu quốc chi mẫu, khả dĩ trường cửu. Thị vị thâm căn cố đế, trường sinh cửu thị chi đạo.

第六十章: 治大國若烹小鮮. 以道蒞天下, 其鬼不神. 非其鬼不神, 其神不傷人. 非其神不傷人, 聖人亦不傷人. 夫兩不相傷, 故德交歸焉.

Chương 60: Trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên. Dĩ đạo lị thiên hạ, kì quỷ bất thần. Phi kì quỷ bất thần, kì thần bất thương nhân. Phi kì thần bất thương nhân, thánh nhân diệc bất thương nhân. Phù lưỡng bất tương thương, cố đức giao quy yên.

第六十一章: 大國者下流, 天下之交, 天下之牝. 牝常以靜勝牡, 以靜爲下. 故大國以下小國則取小國; 小國以下大國則取大國. 故或下以取; 或下而取. 大國不過欲兼畜人, 小國不過欲入事人. 夫兩者各得所欲, 大者宜爲下.

Chương 61: Đại quốc giả hạ lưu, thiên hạ chi giao, thiên hạ chi tẫn. Tẫn thường dĩ tĩnh thắng mẫu dĩ kì tĩnh vi hạ. Cố đại quốc dĩ hạ tiểu quốc tắc thủ tiểu quốc; tiểu quốc dĩ hạ đại quốc tắc thủ đại quốc. Cố hoặc hạ dĩ thủ; hoặc hạ nhi thủ. Đại quốc bất quá dục kiêm súc nhân; tiểu quốc bất quá dục nhập sự nhân. Phù lưỡng giả các đăc kì sở dục. Đại giả, nghi vi hạ.

第六十二章: 道者萬物之奧, 善人之寶, 不善人之所保. 美言可以示尊, 美行可以加人. 人之不善, 何棄之有? 故立天子, 置三公,  雖有拱璧, 以先駟馬, 不如坐進此道. 古之所以貴此道者何? 不曰: 求以得, 有罪以免邪? 故爲天下貴.

Chương 62: Đạo giả, vạn vật chi áo, thiện nhân chi bửu, bất thiện nhân chi sở bảo. Thiện ngôn khả dĩ thị tôn; mĩ hành khả dĩ gia nhân. Nhân chi bất thiện hà khí chi hữu? Cố lập thiên tử, trí tam công, tuy hữu củng bích, dĩ tiên tứ mã, bất như toạ tiến thử đạo. Cổ chi sở dĩ quý thử đạo giả hà? Bất viết cầu dĩ đắc, hữu tội dĩ miễn da? Cố vi thiên hạ quý dã.

第六十三章: 爲無爲, 事無事, 味無味. 大小多少, 報怨以徳. 圖難於其易, 爲大於其細. 天下難事必作於易, 天下大事必作於細. 是以聖人終不爲大, 故能成其大. 夫輕諾必寡信, 多易必多難. 是以聖人猶難之, 故終無難矣.

Chương 63: Vi vô vi; sự vô sự; vị vô vị. Đại tiểu, đa thiểu. Báo oán dĩ đức. Đồ nan ư kì di; vi đại ư kì tế. Thiên hạ nan sự, tất tác ư dị; thiên hạ đại sự, tất tác ư tế. Thị dĩ thánh nhân, chung bất vi đại, cố năng thành kì đại. Phù khinh nặc, tất quả tín; đa dị tất đa nan. Thị dĩ thánh nhân do nân chi, cố chung vô nan dĩ.

第 六十四章: 其安易持, 其未兆易謀, 其脆易泮, 其微易散. 爲之於未有, 治之於未亂. 合抱之木, 生於毫末. 九層之臺, 起於累土; 千里之行, 始於足下. 爲者敗之, 執者失之. 是以聖人無爲故無敗, 無執故無失. 民之從事, 常於幾成而敗之. 愼終如始, 則無敗事. 是以聖人欲不欲, 不貴難得之貨, 學不學, 復眾人之所過, 以輔萬物之自然而不敢爲.

Chương 64: Kì an dị trì; kì vị triệu dị mưu; kì thuý dị phán; kì vi dị tán. Vi chi ư vị hữu; trị chi ư vị loạn. Hợp bao chi mộc, sinh ư hào mạt. Cửu tằng chi đài khởi ư luỹ thổ; thiên lí chi hành, thuỷ ư túc hạ. Vi giả bại chi; chấp giả thất chi. Thị dĩ thánh nhân vô vi cấp vô bại; vô chấp cố vô thất. Dân chi tòng sự thường ư cơ thành nhi bại chi. Thận chung như thuỷ, tức vô bại sự. Thị dĩ thánh nhân dục bất dục; bất quý nan đắc chi hoá; học bất học; phục chúng nhân chi sở quá. Dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên, nhi bất cảm vi.

第六十五章: 古之善爲道者, 非以明民, 將以愚之. 民之難治, 以其智多. 故以智治國, 國之賊, 不以智治國, 國之福. 知此兩者, 亦稽式. 常知稽式, 是謂玄徳. 玄徳深矣, 遠矣, 與物反矣! 然後乃至大順.

Chương 65: Cổ chi thiện vi Đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi. Dân chi nan trị dĩ kì trí đa. Cố dĩ trí trị quốc, quốc chi tặc; bât dĩ trí trị quốc, quốc chi phúc. Trì thử lưỡng giả diệc kê thức. Thường tri kê thức thị vị huyền đức. Huyền đức thâm hĩ, viễn hĩ; dữ vật phản hĩ, nhiên hậu nãi chí đại thuận.

第六十六章: 江海所以能爲百谷王者, 以其善下之, 故能爲百谷王. 是以聖人欲上民, 必以言下之; 欲先民, 必以身後之. 是以聖人處上而民不重; 處前而民不害. 是以天下樂推而不厭. 以其不爭, 故天下莫能與之爭.

Chương 66: Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ kì thiện hạ chi, cố năng vi bách cốc vương. Thị dĩ dục thượng dân, tất dĩ ngôn hạ chi; dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi. Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân bất trọng; xử tiền nhi dân bất hại. Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm. Dĩ kì bất tranh cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh.

第 六十七章: 天下皆謂我道大, 似不肖. 夫惟大, 故似不肖. 若肖, 久矣其細也夫. 我有三寶, 持而保之: 一日慈, 二日儉, 三日不敢爲天下先. 慈故能勇, 儉故能廣, 不敢爲天下先, 故能成器長. 今舎慈且勇, 舎儉且廣, 舎後且先, 死矣! 夫慈, 以戰則勝, 以守則固. 天將救之, 以慈衛之.

Chương 67: Thiên hạ giai vị ngã đạo đại, tự bất tiếu. Phù duy đại, cố tự bất tiếu. Nhược tiếu, cửu hỹ kì tế dã phù! Ngã hữu tam bửu, trì nhi bảo chi: nhất viết từ; nhị viết kiệm; tam viết bất cảm vi thiên hạ tiên. Từ cố năng dũng; kiệm cố năng quảng; bất cảm vi thiên hạ tiên, cố năng thành khí trưởng. Kim xá từ thả dũng, xá kiệm thả quảng, xá hậu thả tiên, tử hỹ. Phù từ dĩ chiến tắc thắng, dĩ thủ tắc cố; thiên tương cứu chi, dĩ từ vệ chi.

第六十八章: 善爲士者不武, 善戰者不怒, 善勝敵者不與, 善用人者爲之下. 是謂不爭之徳, 是謂用人之力, 是謂配天古之極.

Chương 68: Thiện vi sĩ giả, bất vũ; thiện chiến giả, bất nộ; thiện thắng địch giả, bất dữ. Thiện dụng nhân giả vi chi hạ. Thị vị bất tranh chi đức; thị vị dụng nhân chi lực; thị vị phối thiên cổ chi cực.

第六十九章: 用兵有言: 吾不敢爲主而爲客, 不敢進寸而退尺. 是謂行無行, 攘無臂, 扔無敵, 執無兵. 禍莫大於輕敵, 輕敵幾喪吾寶. 故抗兵相加, 哀者勝矣.

Chương 69: Dụng binh hữu ngôn: “Ngô bất cảm vi chủ nhi vi khách; bất cảm tiến thốn nhi thối xích.” Thị vị hành vô hành, nhương vô tý, nhung vô địch, chấp vô binh. Hoạ mạc đai ư khinh địch; khinh địch cơ táng ngô bảo. Cố kháng binh tương gia, ai giả thắng hĩ.

第七十章: 吾言甚易知, 甚易行. 天下莫能知, 莫能行. 言有宗, 事有君. 夫唯無知, 是以不知我. 知我者希, 則我者貴. 是以聖人被褐懐玉.

Chương 70: Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành, thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành. Ngôn hữu tông, sự hữu quân. Phù duy vô tri, thị dĩ bất ngã tri. Tri ngã giả hi, tắc ngã quý hĩ. Thị dĩ thánh nhân bị hạt, hoài ngọc.

第七十一章: 知不知上; 不知知病. 聖人不病, 以其病病. 夫唯病病, 是以不病.

Chương 71: Tri bất tri thượng; bất tri, tri, bệnh. Phù duy bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh. Thánh nhân bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh.

第七十二章: 民之不畏威則大威至. 無狎其所居, 無厭其所生. 夫唯不厭, 是以不厭. 是以聖人自知不自見: 自愛不自貴. 故去彼取此.

Chương 72: Dân bất uý uy, tắc đại uy chí. Vô hiệp kì sở cư; vô yếm kì sở sinh. Phù duy bất yếm, thị dĩ bất yếm. Thị dĩ thánh nhân tự tri bất tự hiện; tự ái bất tự quý. Cố khử bỉ, thủ thử.

第七十三章: 勇於敢則殺, 勇於不敢則活. 此兩者或利, 或害, 天之所惡, 孰知其故? 是以聖人猶難之. 天之道不爭而善勝, 不言而善應, 不召而自來, 繟然而善謀. 天網恢恢, 疏而不失.

Chương 73: Dũng vu cảm tắc sát; dũng vu bất cảm tắc hoạt. Thử lưỡng giả hoặc lợi, hoặc hại. Thiên chi sở ố, thục tri kì cố? Thị dĩ thánh nhân do nan chi. Thiên chi đạo bất tranh nhi thiện thắng; bất ngôn nhi thiện ứng; bất triệu nhi tự lai; thiền nhiên nhi thiện mưu. Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu.

第七十四章: 民不畏死, 奈何以死懼之? 若使民常畏死而爲奇者, 吾得執而殺之, 執敢? 常有司殺者殺. 夫代司殺者殺, 是謂代大匠斵. 夫代大匠斵者, 希有不傷其手矣.

Chương 74: Dân bất uý tử, nãi hà dĩ tử cụ chi? Nhược sử dân thường uý tử nhi vi kì giả, ngô đắc chấp nhi sát chi, thục cảm? Thường hữu tư sát giả sát. Phù đại tư sát giả sát thị vị đại đại tượng trác. Phù đại đại tượng trác giả, hi hữu bất thương kì thủ hĩ.

第七十五章: 民之饑, 以其上食稅之多, 是以饑. 民之難治, 以其上之有爲, 是以難治. 民之輕死, 以其上求生之厚, 是以輕死. 夫唯無以生爲者, 是賢於貴生.

Chương 75: Dân chi cơ, dĩ kì thượng thực thuế chi đa, hữu chi cơ. Dân chi nan trị, dĩ kì thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị. Dân chi khinh tử dĩ kì cầu sinh chi hậu, thị dĩ khinh tử. Phù duy vô dĩ sinh vi giả, thị hiền ư quý sinh.

第七十六章: 人之生也柔弱, 其死也堅强. 萬物草木之生也柔脆, 其死也枯稿. 故堅强者, 死之徒; 柔弱者, 生之徒. 是以兵强則不勝, 木强則兵. 故堅强處下, 柔弱處上.

Chương 76: Nhân chi sinh dã nhu nhược, kì tử dã kiên cường. Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thuý, kì tử dã khô cảo. Cố kiên cường giả, tử chi đồ; nhu nhược giả, sinh chi đồ. Thị dĩ binh cường tắc bất thắng; mộc cường tắc chiết. Cố kiên cường xử hạ; nhu nhược xử thượng.

第七十七章: 天之道其猶張弓與? 高者抑之, 下者擧之. 有餘者損之, 不足者補之. 天之道損有餘而補不足; 人之道則不然, 損不足以奉有餘. 孰能有餘以奉天下? 唯有道者. 是以聖人爲而不侍, 功成而不處. 其不欲見賢.

Chương 77: Thiên chi đạo kì do trương cung dư? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi; hữu dư giả tổn chi; bất túc giả bổ chi. Thiên chi đạo tổn hữu dư nhi bổ bất túc. Nhân chi đạo tắc bất nhiên: tổn bất túc dĩ phụng hữu dư. Thục năng hữu dư dĩ phụng thiên hạ? Duy hữu đạo giả. Thị dĩ thánh nhân, vi nhi bất thị; công thành nhi bất xử, kì bất dục hiện hiền.

第七十八章: 天下莫柔弱於水, 而攻堅强者莫之能勝, 以其無以易之. 弱之勝强, 柔之勝剛, 天下莫不知, 莫能行. 是以聖人云: 受國之垢, 是謂社稜主, 受國不祥, 是謂天下王. 正言若反.

Chương 78: Thiên hạ nhu nhược mạc quá ư thuỷ. Nhi công kiên cường giả, mạc chi năng thắng, kì vô dĩ dịch chi. Nhu thắng cương; nhược thắng cường, thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành. Thị dĩ thánh nhân vân: “Thụ quốc chi cấu thị vi xã tắc chủ, thụ quốc bất tường, thị vi thiên hạ vương. Chính ngôn nhược phản.”

第七十九章: 和大怨, 必有餘怨, 安可以爲善? 是以聖人執左契, 而不責於人. 有徳司契, 無徳司徹. 天道無親,常與善人.

Chương 79: Hoà đại oán, tất hữu dư oán. An khả dĩ vi thiện? Thị dĩ thánh nhân, chấp tả khế nhi bất trách ư nhân. Hữu đức tư khế; vô đức tư triệt. Thiên đạo vô thân, thượng dữ thiện thân.

第八十章: 小國寡民, 使有什伯之器而不用, 使民重死而不遠徒. 雖有舟輿, 無所乘之; 雖有甲兵, 無所陳之. 使人復結繩而用之. 甘其食, 美其服, 安其居, 樂其俗. 鄰國相望, 雞犬之聲相聞, 民至老死不相往來.

Chương 80: Tiểu quốc, quả dân. Sử hữu thập bách chi khí nhi bất dụng. Sử dân trọng tử nhi bất viễn tỉ. Tuy hữu chu, dư, vô sở thừa chi; tuy hữu giáp binh, vô sở trần chi. Sử dân phục kiết thằng nhi dụng chi. Cam kì thực, mĩ kì phục; an kì cư; lạc kì tục. Lân quốc tương vọng; kê khuyển chi thanh tương văn. Dân chí lão tử bất tương vãng lai.

第八十一章: 信言不美, 美言不信. 善者不辯, 辯者不善. 知者不博, 博者不知. 聖人不積, 既以爲人已餘有, 既以與人已愈多. 天之道, 利而不害. 聖人之道, 爲而不爭.

Chương 81: Tín ngôn bất mĩ; mĩ ngôn bất tín. Thiện giả bất biện; biện giả bất thiện. Trí giả bất bác; bác giả bất trí. Thánh nhân bất tích. Kí dĩ vi nhân kỉ dũ hữu, kí dĩ dữ nhân kỉ dụ đa. Thiên chi đạo, lợi nhi bất hại. Thánh nhân chi đạo, vi nhi bất tranh.

Chia sẻ:

  • X
  • Facebook
Thích Đang tải...

Từ khóa » đại đạo Chi Hành Dã Thiên Hạ Vi Công