Đào Tam Lang – Wikipedia Tiếng Việt

Bước tới nội dung

Nội dung

chuyển sang thanh bên ẩn
  • Đầu
  • 1 Tham khảo
  • Bài viết
  • Thảo luận
Tiếng Việt
  • Đọc
  • Sửa đổi
  • Sửa mã nguồn
  • Xem lịch sử
Công cụ Công cụ chuyển sang thanh bên ẩn Tác vụ
  • Đọc
  • Sửa đổi
  • Sửa mã nguồn
  • Xem lịch sử
Chung
  • Các liên kết đến đây
  • Thay đổi liên quan
  • Trang đặc biệt
  • Thông tin trang
  • Trích dẫn trang này
  • Lấy URL ngắn gọn
  • Tải mã QR
In và xuất
  • Tạo một quyển sách
  • Tải dưới dạng PDF
  • Bản để in ra
Tại dự án khác
  • Khoản mục Wikidata
Giao diện chuyển sang thanh bên ẩn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài viết này cần thêm liên kết tới các bài bách khoa khác để trở thành một phần của bách khoa toàn thư trực tuyến Wikipedia. Xin hãy giúp cải thiện bài viết này bằng cách thêm các liên kết có liên quan đến ngữ cảnh trong văn bản hiện tại. (tháng 7 năm 2018)
Bài này không có nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện bài bằng cách bổ sung các nguồn tham khảo đáng tin cậy. Các nội dung không nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì bạn có thể chép nguồn tham khảo bên đó sang đây.

Đào Tam Lang (17-43) tên thật là Đào Kỳ. Ông sinh vào niên hiệu Thiên Phụng thứ 4 đời Vương Mãng, nhằm năm Đinh Sửu, tháng 6, ngày 24, giờ Tý, Cửu Chân nay là Thanh Hoá. Cha ông là Đào Thế Kiệt một lạc hầu yêu nước tại Cửu Chân.

Ông là người văn võ song toàn, mưu lược anh minh. Năm 15 tuổi Đào Kỳ mồ côi cả cha lẫn mẹ. Ông lấy vợ là Nguyễn Phương Dung quê ở trang Vĩnh Tế, huyện Lang Tài, dung mạo như hoa lại đoan trang ngoan nết, giỏi võ giỏi văn.

Do chính sách đồng hóa gắt gao và bóc lột hà khắc của nhà Đông Hán đối với người Việt tại Giao Chỉ đương thời, các Lạc tướng người Việt liên kết với nhau để chống lại nhà Hán. Nghe tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, hai vợ chồng đem hơn 100 người nhà đến yết kiến và gia nhập nghĩa quân. Hai vợ chồng cùng xông pha giết giặc, đánh đuổi Tô Định và được cử trông nom dải đất Đông Ngàn - Bắc Đuống. Ba năm sau, Mã Viện phát xâm lược, vợ chồng Đào Kỳ cùng nhiều tướng khác đã lên Lạng Sơn chống giặc, sau về Cấm Khê ứng cứu vua Trưng. Hai vợ chồng bị hãm giữa chiến trường và lạc nhau. Ngày 15 tháng 8 năm Quý Mão (43), Đào Tam Lang cùng 2 người anh trai là Đào Chiêu Hiển và Đào Đô Thống đã hi sinh trong trận Bồ Lăng, đánh với quân Hán tại khu vực nay là ngã ba sông Trường Giang và Ô Giang, thuộc địa phận thành phố Trùng Khánh, Trung Quốc.

Hiện ở đây có miếu thờ. Để tưởng nhớ công ơn của ba anh em họ Đào, nhân dân Đa Tốn đã lập miếu thờ (Đào Đô Thống thờ ở miếu Sén Tóc, thôn Ngọc Động, Đào Chiêu Hiển thờ ở Nghè Ông Hai, thôn Lê Xá và Đào Tam Lang thờ ở nghè cũ sau chuyển về nghè Lê Xá). Về sau, từ thế kỷ XVII trở đi, dân làng Ngọc Động và Lê Xá đã thờ ba ông làm thành hoàng làng.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
  • x
  • t
  • s
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Đào_Tam_Lang&oldid=69069369” Thể loại:
  • Khởi nghĩa Hai Bà Trưng
Thể loại ẩn:
  • Bài viết có quá ít liên kết wiki
  • Tất cả bài viết cần được wiki hóa
  • Hoàn toàn không có nguồn tham khảo
  • Tất cả bài viết sơ khai
  • Sơ khai

Từ khóa » Cha Chồng Tướng Quân