Đây Thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) - Củng Cố Kiến Thức
Có thể bạn quan tâm
I. Tiểu dẫn
- Hàn Mạc Tử (1912 - 1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mĩ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là tỉnh Quảng Bình).
- Hàn Mạc Tử còn có rất nhiều bút danh như Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh…
- Những tác phẩm tiêu biểu: Gái quê, Thơ điên, Duyên kì ngộ, Chơi giữa mùa trăng… bài Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ điên.
II. Văn bản (SGK)
1. Phong cảnh và tâm trạng tác giả trong khổ thơ đầu.
- Câu thơ mở đầu "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" là câu hỏi mà thực ra là lời trách móc nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ (cũng là lời tự trách, tự hỏi, là ao ước thầm kín của tác giả đang mắc căn bệnh khiến mọi người xa lánh tìm về với cuộc đời).
+ Câu hỏi vọng lên từ phương xa là duyên cớ khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ những kỉ niệm sâu sắc, hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu về xứ Huế, về Vĩ Dạ, nơi có người mà nhà thơ thương mến. + Đẹp nhất trong những hồi tưởng của nhà thơ là cảnh thôn Vĩ Dạ trong ánh bình minh.
- Tác giả chỉ gợi những gì ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc nhất còn lưu lại trong tâm trí. Do đó, câu thơ "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên" phác qua cái nhìn từ xa tới, chưa đến Vĩ Dạ nhưng đã thấy hàng cau thẳng tắp, cao vút, vượt lên trên những tán cây khác, những tàu lá cau lấp lánh ánh mặt trời buổi sớm mai.
+ Đây là quan sát rất tinh tế, cái đẹp của thôn Vĩ không chỉ do "nắng" hay do "hàng cau" mà là do "nắng hàng cau", do sự hài hòa của ánh nắng vàng rực rỡ trên hàng cau tươi xanh.
+ Câu thơ bảy chữ nhưng có hai chữ "nắng" đã gợi đúng cái đặc trưng của nắng miền trung: Nắng nhiều và rực rỡ ngay từ lúc bình minh.
+ Cụm từ "nắng mới lên" gợi vẻ đẹp trong trẻo, tinh khiết, làm bừng sáng cả khoảng trời hồi tưởng của nhà thơ.
- Câu thơ "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" là cái nhìn gần của người như đang đi trong những khu vườn tươi đẹp của thôn Vĩ.
+ Thần thái của thôn Vĩ là vườn cây, vườn bao bọc quanh nhà, gắn với ngôi nhà thành một cấu trúc thẩm mĩ xinh xắn.
+ Vườn được chăm sóc chu đáo, những khóm hoa, cây cảnh xanh tươi được bàn tay khéo léo chăm sóc nên càng thêm đẹp hơn.
+ Câu thơ tả cảnh đẹp, từ ngữ có hồn và sống động. Từ "mướt" gợi sự tươi non, sạch sẽ, láng bóng của từng chiếc lá dưới ánh mặt trời. Còn hình ảnh "xanh như ngọc" gợi hình dung về những tán cây xanh mướt, mượt mà.
+ Phải là người có tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với cuộc sống, có ân tình sâu sắc, đậm đà với thôn Vĩ mới lưu giữ được trong tâm trí những hình ảnh sống động và đẹp đẽ như thế.
- Trong ba câu thơ đầu, con người chưa xuất hiện. Đến câu thơ thứ tư, sự xuất hiện ấy cũng không trọn vẹn mà ngượng ngùng, e ấp "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Một sự xuất hiện kín đáo, đúng với bản tính của người Huế, bởi chỉ có thể thấy thấp thoáng sau những chiếc lá trúc. + Bài thơ ra đời khi Hàn Mặc Tử đang phải chiến đấu với bệnh tật (căn bệnh quái ác mà lúc đó con người còn bó tay), ở trong trại phong Quy Hòa, thi sĩ rất cô đơn và luôn khát khao được trở về cuộc sống đầy hương sắc ngoài kia.
+ Cuộc trở về bằng tâm tưởng nằm trong cái mạch cảm xúc ấy, trong câu thơ thứ tư, thi sĩ trở về nhưng chỉ ngại ngùng núp sau tán trúc mà khao khát nhìn vào cuộc sống ngọt ngào, đầy hương sắc kia (khu vườn).
2. Hình ảnh gió, mây, sống, trăng trong khổ thơ thứ hai.
- Hàn Mặc Tử chuyển mạch thơ sang khổ thứ hai khá đột ngột bằng những hình ảnh ấn tượng:
“Gió theo lối gió, mây đường mây.
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai dậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”.
Ở khổ thơ này, tâm trí Hàn Mặc Tử hướng về sông Hương mang nét tiêu biểu của Huế là êm đềm và thơ mộng nhưng câu thơ còn ẩn sâu trong đó là biết bao cảm xúc, suy tư của nhà thơ.
- Trong hai câu đầu, sông Hương hiện lên êm đềm, hợp với nhịp điệu khoan thai của xứ Huế: Gió mây nhè nhẹ, dòng nước chảy lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa. Tuy nhiên, có vẻ như sự êm đềm chỉ ở cái hình thức bên ngoài, bởi câu thơ tàng ẩn một sự chia xa, tan tác.
+ Sự chia lìa diễn ra ngay trong cả những thứ vốn không thể chia lìa được. Gió mây vốn luôn đi liền với nhau, gió thổi mây bay và nhờ gió mà dòng sông mới có sóng, nhưng ở đây "gió theo lối gió, mây đường mây".
+ Động từ lay gợi buồn đến hiu hắt, là nét buồn phụ họa với gió, mây, dòng nước, hay nỗi buồn nước - mây như đã xâm chiếm vào lòng hoa bắp.
- Hai câu thơ sau là hai chiều cảm xúc: Tâm hồn nhà thơ có buồn, có cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu với con người và thiên nhiên xứ Huế.
+ Cảnh thực mà như ảo, vì dòng sông trở thành dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng. Cũng vì thế, con thuyền vốn có thể có thực trên sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng. Nó đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một nơi nào đó trong mơ.
+ Câu thơ rất chơi vơi gợi hình dung rất rõ về một sự thất vọng nhói đau. Sự thất vọng ấy, bi kịch ấy được gợi ra từ chữ "kịp" (Có chở trăng về kịp tối nay?).
3. Tâm sự của nhà thơ ở khổ thơ thứ ba.
- Ở hai khổ thơ trên, Hàn Mặc Tử hướng đến thiên nhiên xứ Huế để tâm sự. Trong khổ thơ cuối, nhà thơ trực tiếp tâm sự với người xứ Huế.
+ Câu thơ mở đầu nhấn mạnh thêm nỗi xót xa (Mơ khách đường xa, khách đường xa), như lời tâm sự của nhà thơ với chính mình trước lời mời của cô gái thôn Vĩ (Sao anh không về chơi thôn Vĩ!), có lẽ nhà thơ mãi chỉ là người khách quá xa xôi, là người khách trong mơ mà thôi.
+ Có nhiều nguyên nhân dẫn tới suy tư ấy, nhưng chủ yếu là mặc cảm về tình người.
- Câu thơ có thể hiểu theo nghĩa thực, xứ Huế nắng nhiều, mưa nhiều nên cũng nhiều sương khói, sương khói làm tăng thêm vẻ hư ảo, mộng mơ của Huế, nhưng sương và khói đều màu trắng, "áo em" cũng màu trắng thì chỉ có thể thấy bóng người thấp thoáng, mờ ảo.
Về nghĩa bóng, cái sương khói làm mờ cả bóng người ấy phải chăng tượng trưng cho bao cái huyền hoặc của cuộc đời đang làm cho tình người trở nên khó hiểu và xa vời?
- Câu thơ cuối mang chút hoài nghi mà chan chứa niềm thiết tha với cuộc đời "Ai biết tình ai có đậm đà?".
+ Nhà thơ không biết tình người xứ Huế có đậm đà không, hay cũng mờ ảo, dễ tan như sương khói; tuy vậy người Huế có biết tình cảm nhà thơ với cảnh Huế, với người Huế hết sức thắm thiết, đậm đà.
+ Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chỉ làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.
4. Tứ thơ và bút pháp của bài thơ.
- Tứ thơ là ý chính bao quát bài thơ, là điểm tựa cho sự vận động của cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng toàn bài thơ. Ở bài thơ, tứ thơ bắt đầu với cảnh đẹp thôn Vĩ bên dòng sông Hương, từ đó khơi gợi liên tưởng thực - ảo và mở ra bao nhiêu nỗi niềm cảm xúc, suy tư về cảnh và người xứ Huế với phấp phỏng những mặc cảm, uẩn khúc, niềm hi vọng, niềm tin yêu.
- Bút pháp của nhà thơ kếp hợp hài hòa giữa tả thực, tượng trưng, lãng mạn và trữ tình. Cảnh đẹp xứ Huế mơ mộng làm tăng thêm sắc thái lãng mạn. Nét chân thực của cảm xúc làm đậm thêm chất trữ tình.
Từ khóa » đậy Thôn Vĩ Dạ
-
Bài Thơ: Đây Thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử - Nguyễn Trọng Trí) - Thi Viện
-
Đây Thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử - Ngữ Văn 11
-
Đây Thôn Vĩ Dạ - Tác Giả: Hàn Mặc Tử
-
Hướng Dẫn Soạn Bài Đây Thôn Vĩ Dạ-Phân Tích Chi Tiết Từng Khổ ...
-
Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử - THPT Sóc Trăng
-
Top 10 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm "Đây Thôn Vĩ Dạ" Của Hàn Mặc ...
-
Top 11 Bài Phân Tích Đây Thôn Vĩ Dạ Hay Chọn Lọc
-
Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử - Thủ Thuật
-
ĐÂY THÔN VĨ DẠ - Nhạc Võ Tá Hân - Thơ Hàn Mặc Tử - Ca Sĩ Vân ...
-
Ngâm Thơ Hàn Mặc Tử - Đây Thôn Vĩ Dạ Rơi Nước Mắt Nhớ Về Cố ...
-
ĐÂY THÔN VĨ DẠ (Thơ: Hàn Mặc Tử) | Diễn Đọc: Hồ Phong - YouTube
-
Phân Tích Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử
-
Mở Bài đây Thôn Vĩ Dạ - .vn - HỌC TỐT
-
Soạn Bài Đây Thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử) | Soạn Văn 11 Hay Nhất
-
Lời Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) - Vườn Thơ - TKaraoke