Dazai Osamu – Wikipedia Tiếng Việt

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.
Đây là một tên người Nhật; trong tiếng Nhật họ và tên được viết theo thứ tự Á Đông (họ trước tên sau): họ là Dazai.
Dazai Osamu
Dazai OsamuDazai Osamu
SinhTsushima Shūji (津島 修治, Tsushima Shūji?)(1909-06-19)19 tháng 6 năm 1909Kanagi, Aomori, Nhật Bản
Mất13 tháng 6 năm 1948(1948-06-13) (38 tuổi)Tokyo, Nhật Bản
Nghề nghiệpNhà văn
Thể loạiTruyện ngắn, Tiểu thuyết
Ảnh hưởng bởi
  • Akutagawa Ryūnosuke, Ibuse Masuji

Dazai Osamu (太宰 (だざい) 治 (おさむ) (Thái Tể - Trị), sinh 19 tháng 6 năm 1909 – mất 13 tháng 6 năm 1948?) là một nhà văn Nhật Bản tiêu biểu cho thời kỳ vừa chấm dứt Thế chiến thứ Hai ở Nhật. Dazai sống và viết cùng một nghĩa như nhau, thành thực mà bi đát.

Ông thường được nhắc tới như một thành viên tiêu biểu trong văn phái Buraiha (Vô Lại Phái) của Nhật Bản.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Hai năm trước đây. tôi bị đuổi khỏi nhà, chỉ một đêm mà thành ra túng quẫn, lang thang đầu đường xó chợ, khóc kể cầu khẩn nơi này nơi nọ, kiếm sống qua ngày, rồi ngay lúc thấy có thể viết văn kiếm sống được thì lại đổ bệnh. Nhờ lòng thương xót của người này người khác mà đến mùa hè thì thuê được một căn nhà nhỏ ở gần bãi biển bùn lầy ở Funabashi thuộc huyện Chiba, tự mình nấu nướng bồi dưỡng được, đêm đêm phải đánh vật với giấc ngủ đầy mồ hôi đến vắt ra ròng ròng từ áo ngủ, dù vậy vẫn phải làm việc để sống, mỗi buổi sáng chỉ uống một cốc sữa, mà kỳ lạ thay, cũng cảm nhận được niềm vui mình đang sống, tuy đầu óc tôi đã đau đớn mệt mỏi quá đến nỗi nhìn đám trúc đào nở ở góc vườn chỉ thấy những ngọn lửa phừng phực cháy đỏ.
— Phong cảnh hoàng kim (Ogon Fukei) (1939), Osamu Dazai

Tuổi thiếu niên

[sửa | sửa mã nguồn]

Dazai tên thật là Tsushima Shūji (津島 修治 (Tân-Đảo Tu-Trị), Tsushima Shūji?), là đứa con thứ 8 trong một gia đình đại địa chủ có mười một người con, có cha là một chính trị gia, địa chủ ở Tsugaru, tỉnh Aomori. Vì cha làm chính trị, thường xuyên xa nhà và mẹ bị bệnh kinh niên sau khi sinh đến 11 người con nên ông được những người hầu trong gia đình và dì Kiye nuôi nấng.

Tsushima trong một hình ảnh của trường Trung học.

Thời trung học, ông là một học sinh giỏi, những năm cấp ba đã cùng bạn bè viết văn làm báo. Cuộc đời của ông chỉ thay đổi khi thần tượng văn học của ông lúc đó là nhà văn Akutagawa Ryūnosuke tự tử năm 1927. Ông bắt đầu lơ là việc học, phung phí chi tiêu của mình vào áo quần, rượu chè và gái mại dâm. Ông còn tiếp cận với phe cánh tả đang bị chính quyền đàn áp lúc đó. Năm 1929, đêm trước kỳ thi tốt nghiệp mà ông không hi vọng qua được, ông tự tử bằng cách uống thuốc ngủ quá liều nhưng được cứu sống và tốt nghiệp năm sau đó.

Năm 1930, ông ghi danh vào Đại học Đế quốc Tokyo, chuyên ngành Văn chương Pháp, bắt đầu tham gia hoạt động chính trị cánh tả. Tháng Mười ông chạy trốn cùng geisha Oyama Hatsuyo (小山 初代, Oyama Hatsuyo?) và bị gia đình từ. Không mấy ngày sau khi bị từ, ông tự tử với một cô gái khác là Tanabe Shimeko (田辺 シメ子, Tanabe Shimeko?). Shimeko chết, nhưng Shuji đã sống, đã được cứu bởi một chiếc thuyền đánh cá, để lại anh với một ý thức mạnh mẽ của tội lỗi. Gia đình ông hoảng sợ và đồng ý để ông kết hôn với Hatsuyo.

Không lâu sau đó, ông bị bắt vì có hoạt động chính trị liên quan đến Đảng bị cấm lúc đó là Đảng Cộng sản Nhật Bản. Anh ông đã can thiệp với điều kiện phải chuyên chú vào học tập và tốt nghiệp. Ông đã nhận lời.

Sự nghiệp văn học ban đầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Một điều bất ngờ với mọi người lúc đó, Dazai đã giữ lời hứa của mình. Nhờ sự giúp đỡ của một người cộng sự Ibuse Masuji, các tác phẩm của ông được xuất bản và ông bắt đầu gây dựng được danh tiếng.

Vài năm sau, ông bắt đầu sáng tác mạnh mẽ với bút danh Dazai Osamu kể từ truyện ngắn Ressha (列車 Đoàn tàu, 1933) với phong cách lần đầu thử nghiệm là lối viết tự thuật, sau này là sở trường và đặc tài của ông. Tuy nhiên năm 1935, ông không tốt nghiệp được và thi rớt trong kỳ thi vào một tòa báo ở Tokyo. Ông treo cổ và lại được cứu. Ba tuần sau, ông bị sưng ruột thừa phải vào bệnh viện cấp cứu, và sau đó lại bị nghiện thuốc giảm đau có ma túy đến nỗi phải vào bệnh viện tâm thần điều trị một tháng. Trở về, ông phát giác vợ ông ngoại tình nên nhanh chóng li dị và lấy một giáo viên trung học tên là Ishihara Michiko (石原 美知子 (Thạch-Nguyên Mĩ-Tri-Tử), Ishihara Michiko?). Đứa con gái đầu tiên của họ là Sonoko (園子), sinh tháng 6 năm 1941.

Những năm chiến tranh

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhật Bản tham gia Chiến tranh Thái Bình Dương tháng 12 năm 1941, nhưng Dazai được miễn đi lính do đau phổi (ông được chẩn đoán là mắc bệnh Lao). Việc kiểm duyệt thời đó rất gắt gao song ông vẫn tìm cách xuất bản được nhiều tác phẩm của mình.[cần dẫn nguồn]. Nhà của ông bị dội bom 2 lần trong cuộc không kích Mỹ vào Tokyo nhưng gia đình ông may mắn thoát chết với con trai cả Masaki (正樹, sinh năm 1944) và con gái thứ ba Satoko (里子, sinh năm 1947), sau này trở thành nhà văn nổi tiếng với bút danh Tsushima Yūko (津島 佑子).

Sau chiến tranh

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau chiến tranh, Dazai đã đạt tới đỉnh cao trong sự nghiệp viết văn của mình. Tháng 7 năm 1947, ông xuất bản tác phẩm Shayo (Tà dương), tác phẩm đưa ông lên hàng tác gia danh tiếng nhất đương thời. Tác phẩm dựa trên nhật ký của Ōta Shizuko (太田静子). Ông gặp cô lần đâu năm 1941 và cô ta sinh cho ông một cô con gái tên là Haruko (治子) vào năm 1947. Vốn ưa uống rượu, ông trở nên nghiện và sức khỏe giảm sút dần. Gặp Yamazaki Tomie (山崎富栄) góa chồng sau 10 ngày kết hôn, ông bỏ vợ con theo Tomie và viết tiểu thuyết tự thuật Nhân gian thất cách (人間失格 - Ningen Shikkaku, ở nơi nghỉ mát có suối nước nóng Atami. Nhân gian thất cách của ông nói về một nhân vật lao vào cuộc sống tự hủy bởi vì tuyệt vọng không thể thay đổi được đời mình, cuối cùng trở thành người tàn phế cô lập trong túp lều ở ngoại ô Tokyo. Giọng văn thành thực đến tàn nhẫn, không có chỗ trống cho tình cảm, tiểu thuyết này trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của Văn học Nhật Bản và được dịch ra nhiều thứ tiếng.

Thi thể của Dazai và Tomie được tìm thấy năm 1948

Mùa xuân năm 1948, ông đang làm việc cho Asahi Simbun trong một truyện ngắn có tên Guddo bai (Giã biệt). Ngày 13 tháng 6 năm 1948, ông cùng Tomie tự tử ở hồ nước ngọt của sông Tamagawa. Các cơ quan chức năng không hề tìm thấy thi thể cho đến ngày 19 tháng 6, điều trùng hợp là đúng sinh nhật lần thứ 39 của ông. Mộ của ông được đặt tại chùa Zenrin, Mitaka, Tokyo.

Phong cách

[sửa | sửa mã nguồn]

Dazai dùng lối viết giản dị như câu nói thường ngày. Những tác phẩm nổi tiếng của ông đều dựa vào những sự việc xảy ra trong cuộc đời mình nên ông được xếp vào "Tự truyện, Tiểu thuyết tự thuật (私小説, Shishōsetsu?)". Tác phẩm của Dazai hàm chứa nỗi bi quan sâu đậm, điều không có gì lạ ở một người nhiều lần thực hiện hành vi tự tử. Các nhân vật tiểu thuyết của ông cũng quan niệm chuyện tự tử như cách duy nhất để thay thế cho đời sống địa ngục của họ, nhưng thường thất bại trong việc tự tử chính vì thái độ khinh bạc đối với sự sống hay chết.

Các tác phẩm chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số tác phẩm chính của ông:

Năm Tên tiếng Nhật Tên tiếng Việt (tạm dịch)
1933 思い出 Omoide Ký ức
1935 道化の華 Dōke no Hana Hoa của thằng hề
1936 晩年 Bannen Vãn niên
1937 二十世紀旗手 Nijusseiki Kishu Tiên phong thế kỉ XX
1939 富嶽百景 Fugaku Hyakkei Một trăm cảnh núi Phú Sĩ
女生徒 Joseito Nữ sinh
1940 女の決闘 Onna no Kettō Đàn bà quyết đấu
駈込み訴え Kakekomi Uttae Yêu cầu khẩn thiết
走れメロス Hashire Merosu Melos, hãy chạy đi (Quỳnh Chi dịch)Melos ơi, chạy nhanh lên (Văn-Lang Tôn-thất Phương dịch)
1941 新ハムレット Shin-Hamuretto Tân Hamlet
1942 正義と微笑 Seigi to Bishō Chính nghĩa và Nụ cười
1943 右大臣実朝 Udaijin Sanetomo Hữu đại thần Sanetomo
1944 津軽 Tsugaru Tsugaru
1945 パンドラの匣 Pandora no Hako Chiếc hộp Pandora
新釈諸国噺 Shinshaku Shokoku Banashi Câu chuyện mới về các quốc gia
惜別 Sekibetsu Tích biệt
お伽草紙 Otogizōshi Chuyện kể dân gian
1946 冬の花火 Fuyu no Hanabi Pháo hoa mùa đông
1947 ヴィヨンの妻 Viyon No Tsuma Người vợ của Villion
斜陽 Shayō Tà dương
1948 如是我聞 Nyozegamon Chính tai tôi nghe
桜桃 Ōtō Anh đào
人間失格 Ningen Shikkaku Thất lạc cõi người
グッド・バイ Guddo-bai Good-Bye*

* chỉ tác phẩm chưa được viết xong.

Tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt

[sửa | sửa mã nguồn]

1. Thất lạc cõi người (dịch từ nguyên tác Nhật ngữ Ningenshikkaku (人間失格 (Nhân gian thất cách), Ningenshikkaku?)), Hoàng Long dịch, Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ty Phương Nam, 2011. Ấn bản này in kèm ba truyện ngắn: "Đêm tuyết", "Một trăm cảnh núi Phú Sĩ" và "Tám cảnh sắc Tokyo".

2. Tà dương (Dịch từ nguyên tác Nhật ngữ Shayo (斜陽 (Tà dương), Shayo?)), Hoàng Long dịch, Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ty Phương Nam, 2012.

3. Một trăm cảnh núi Phú Sĩ (dịch từ nguyên tác Nhật ngữ 富嶽百景 ( (Phú Nhạc bách cảnh), 富嶽百景?)), Hoàng Long dịch[1].

4. Tám cảnh sắc Tokyo (dịch từ nguyên tác Nhật ngữ 東京八景 ( (Đông Kinh bát cảnh), 東京八景?)), Hoàng Long dịch[2][3]

5. Một ngày trọng đại (dịch từ nguyên tác Nhật ngữ 十二月八日 ( (Ngày tám tháng mười hai), 十二月八日?)), Hoàng Long dịch.

6. Nữ sinh (dịch từ nguyên tác 女生徒), Hoàng Long dịch, Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ty Phương Nam, tái bản lần 1, 2015.

7. Vợ gã hoang đàng (dịch từ nguyên tác ヴィヨンの妻), Hoàng Long dịch[4].

8. Tiếng dế nỉ non (dịch từ nguyên tác きりぎりす), Hoàng Long dịch[5].

9. Chiếc hộp Pandora, Đỗ Hương Giang dịch, Hà Nội: NXB Hội Nhà Văn và Công ty CP Sách Tao Đàn, 2019

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Một trăm cảnh núi Phú Sĩ”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2012.
  2. ^ “Tám cảnh sắc Tokyo (dịch) (phần 1)”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2012.
  3. ^ “Tám cảnh sắc Tokyo (dịch) (phần 2)”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2016.
  4. ^ “Vợ gã hoang đàng (dịch)”.
  5. ^ “Tiếng dế nỉ non (dịch)”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2020.
  • Lyons, Phyllis. The Saga of Dazai Osamu: A Critical Study With Translations. Stanford University Press (1985). ISBN 0-8047-1197-6
  • O'Brien, James A. Dazai Osamu. New York: Twayne Publishers, 1975.
  • O'Brien, James A., ed. Akutagawa and Dazai: Instances of Literary Adaptation. Cornell University Press, 1983.
  • Ueda, Makoto. Modern Japanese Writers and the Nature of Literature. Stanford University Press, 1976.
  • Wolf, Allan Stephen. Suicidal Narrative in Modern Japan: The Case of Dazai Osamu. Princeton University Press (1990). ISBN 0-691-06774-0
  • "Nation and Region in the Work of Dazai Osamu," in Roy Starrs Japanese Cultural Nationalism: At Home and in the Asia Pacific. London: Global Oriental. 2004. ISBN 1901903117.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Dazai Osamu.
  • e-texts of Osamu's works tại Aozora bunko
  • Osamu's Short Story Waiting Lưu trữ 2007-12-11 tại Wayback Machine
  • Osamu Dazai's grave Lưu trữ 2008-05-30 tại Wayback Machine

Từ khóa » Hình ảnh Dazai Osamu