Đền An Dương Vương (Đông Anh, Hà Nội) - Chốn Thiêng

“Chết thì bỏ con bỏ cháu

Sống thì không bỏ mồng sáu tháng Giêng”.

Chắc hẳn những người dân huyện Đông Anh nói chung và người Cổ Loa nói riêng đều không xa lạ với câu ca dao nhắc nhở về lễ hội Cổ Loa mùng 6 tháng Giêng hằng năm, thu hút sự tham gia đông đảo của người dân khắp mọi miền Tổ Quốc. Trong quần thể khu di tích Cổ Loa, chúng ta không thể bỏ lỡ một điểm đến tâm linh có ý nghĩa văn hoá lịch sử vô cùng quan trọng đó chính là Đền thờ An Dương Vương. Nơi đây được mệnh danh là địa điểm tín ngưỡng tâm linh đáng đến nhất khi ghé thăm huyện Đông Anh – mảnh đất với trang sử dựng nước giữ nước hào hùng.

Tên gọi

Đền An Dương Vương còn có tên gọi khác là Đền Thượng.

Thờ tự

Vua An Dương Vương (安陽王), tên thật là Thục Phán, là người đầu tiên thành lập ra nhà nước Âu Lạc – nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam sau Văn Lang.

Lược sử

Tương truyền, đền được vua An Dương Vương (Thục Phán) cho xây dựng trong khuôn viên của kinh đô Âu Lạc xưa. Đến nay vẫn chưa biết mốc thời gian chính xác cho việc xây dựng đền, chỉ biết đền được tu sửa lại vào năm 1687, 1893 và gần đây lại tiếp tục được trùng tu. Căn cứ vào những kiến trúc và di tích còn giữ lại ngày nay, cũng có nguồn tài liệu cho rằng đền được bắt đầu xây dựng từ năm 1687.

Kiến trúc

Tổng quan

Đền An Dương Vương có diện tích khoảng 19138,6 m2, được xây trên gò đất cao mà theo dân gian quan niệm đó chính là phần đầu con rồng. Trong khuôn viên đền có hai hố được cho là “mắt rồng”, có đặc điểm rất lạ lùng. Một hố luôn đầy ắp nước dù là mùa cạn, trong khi hố còn lại luôn khô cạn dù là những ngày mưa như trút.

Cổng đền

Cổng đền được xây dựng theo dạng tam quan bề thế. Bậc tam cấp trước cổng có đôi rồng đá là di vật đời Trần hoặc Lê sơ. Đền Thượng có hai nghi môn là nghi môn thượng và nghi môn ngoại. 

Khu đền chính

Sau tam quan là khu đền chính nằm trên nền đất cao. Phía trước là tòa nhà tiền đường, hai bên có hai cổng nhỏ. Sau tiền đường là tòa thượng điện có kết cấu 5 gian. Hai bên thượng điện có hai dãy nhà phụ làm nơi tiếp khách và sinh hoạt của người đến trông coi đền. Trước thượng điện là khoảng sân rộng, hai bên sân là hai dãy hành lang.

Không gian bên trong thượng điện tôn nghiêm với các ban thờ được bố trí theo trục dọc. Trong cùng là hậu cung, nơi có một khám lớn bằng gỗ đặt ban thờ vua An Dương Vương. Trung tâm ban thờ chính là tượng vua An Dương Vương bằng đồng nặng 255kg, đúc năm 1897. Hai bên khám thờ vua An Dương Vương là ban thờ Hoàng hậu và ban thờ Mẫu.

Nhà bia

Nhà bia là một công trình kiến trúc nhỏ có dạng Phương đình, hai tầng tám mái – một kiến trúc gỗ mái lợp ngói mũi hài khá cân đối và đẹp mắt.

Di vật 

Chùa hiện còn lưu giữ được nhiều cổ vật có giá trị như những bức cốn tứ linh thế kỷ XIX, 134 pho tượng, 5 tấm bia đá từ thế kỷ XVII – XIX, hai đại hồng chung đúc vào năm 1803, một khánh đồng và nhiều pháp khí có giá trị khác.

Đặc trưng

Trước khu đền là một hồ nước khá lớn, có lối đi và cây trồng xung quanh, giữa hồ có giếng Ngọc. Theo truyền thuyết, trước khi cuộc chiến tranh với Triệu Đà xảy ra, Mỵ Châu và Trọng Thuỷ thường cùng nhau đi thưởng ngoạn quanh hồ. Sau chiến tranh, Trọng Thuỷ day dứt về cái chết của nương tử mình nên đã nhảy xuống giếng Ngọc tự vẫn.

Trong dân gian còn truyền tụng câu chuyện dòng máu nàng Mỵ Châu khi bị Vua cha chém đầu, chảy xuống biển, loài trai ăn phải thì hóa thành ngọc trai, nếu đem về rửa ở giếng này thì ngọc càng thêm sáng. Do đó, giếng nước giữa hồ còn có tên gọi khác là giếng Ngọc.

Bên trái đình Cổ Loa là am thờ công chúa Mỵ Châu, vị công chúa bị vua An Dương Vương chém đầu vì tội phản bội. Am có kiến trúc bố cục theo dạng “tiền Nhất, hậu Đinh”, gồm các tòa tiền tế, trung đường và hậu cung.

Sự kiện – Lễ hội

Hội đền An Dương vương bắt đầu từ ngày mùng 6 đến hết ngày 18 tháng Giêng. Tương truyền ngày mùng 6 tháng Giêng là ngày Thục Phán nhập cung và ngày mồng  9 tháng Giêng là ngày ông lên ngôi, cho ăn khao toàn bộ binh sĩ. Để tưởng nhớ ngày long trọng ấy, người dân Cổ Loa cùng tám xã hộ nhi rước kiệu mở hội đông vui cả một vùng. Hội đền An Dương Vương là một sự kiện lớn trong vùng với sự tham gia không chỉ riêng dân xã Cổ Loa mà của các làng kết nghĩa nữa.

Mùng 6 tháng Giêng là ngày hội chính nhưng dân làng đã tiến hành lễ nhập tịch từ ngày 14 tháng Chạp. Đường xá trong làng đều được sửa sang và quét dọn sạch sẽ. Các di tích được dọn dẹp, tu bổ, đồng thời trưng bày đồ tế khí và cờ quạt.

Ngày 18 tháng Chạp là ngày lễ gia quan. Áo mũ của thần được đem ra đặt lên kiệu rước về đền nơi thần ngự. Những người khiêng kiệu hôm đó phải chay tịnh từ trước. Những người hành lễ cũng phải giữ thanh khiết, bịt miệng bằng vải đỏ trong lúc phong bao áo mũ cho thần. Sau đó được tiến hành một tuần tế – tế gia quan. Trước lễ hội, phe tư văn lựa chọn người văn hay chữ tốt để viết chúc văn tế thần. Người này phải là người đỗ đạt cao, có tài văn chương và được mọi người tín nhiệm. Phe tư văn có văn chỉ và có ruộng tư văn ba mẫu để chi trả vào việc hội họp và nghi lễ trong năm.

Từ sớm ngày mùng 6, một đoàn người mang lễ phục cầm cờ quạt, tàn, lọng đình, dẫn đầu là chủ lễ mặc áo thụng xanh, đội mũ tế đến nhà ông diễn văn rước bản văn ra đền. Đám rước rất nghiêm trang và lộng lẫy. Một hồi tù và rúc lên, báo hiệu đám rước văn đã tới. Ông cai đám ở đền Thượng ra nghênh tiếp bản văn và rước vào, trịnh trọng đặt lên hương án. Đoàn người lần lượt lễ thần rồi lui ra.

Chấm điểm

Từ khóa » đền Thờ An Dương Vương được đặt ở đâu