Đền Mẫu Đầm Đa (Lạc Thủy, Hòa Bình) - Chốn Thiêng

Tên gọi và vị trí địa lý

Đền Mẫu Âu Cơ Đầm Đa thuộc khu du lịch Mẫu Đầm Đa tọa lạc tại địa phận xã Phú Lão, huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình. Ngôi đền nằm ẩn mình trên sườn núi So (hay còn gọi là núi Thờ), mặt quay hướng Đông Bắc, hướng ra lòng thung.

Khi tới chiêm bái ngôi đền thờ Mẫu Tổ của dân tộc, chúng ta có thể ghé thăm những di tích khác như: chùa Tiên, động Tiên, động Ông Hoàng Bảy, động Cô Chín, động Suối Vàng Suối Bạc, tiếp đó đến động Ông Hoàng Mười, động Cung Tiên, động Ông Hoàng Bơ,..

Lịch sử và nhân vật

Từ lâu, trong tâm thức của muôn dân đất Việt, Đền Mẫu Đầm Đa gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ đã trở thành một nét đẹp trong tinh hoa văn hóa của người Việt, là biểu tượng thiêng liêng về nguồn cội con Lạc, cháu Hồng của muôn dân đất Việt. Hình tượng này đã trở thành hình tượng bất hủ sống mãi trong tư tưởng, tình cảm và tâm trí của các thế hệ người Việt Nam.

Tương truyền, nàng Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai(1) phương Bắc. Lúc bấy giờ, Âu Cơ cùng vua cha đem quân đội tùy tùng tràn xuống phương Nam ngao du. 

Đế Lai chu lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình thể, trông thấy kỳ hoa dị thảo, trân cầm dị thú, lê tượng, đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn, các loại sơn-hào hải vị không thứ nào là không có; khí hậu bốn mùa lại không nóng không lạnh, Đế Lai ái mộ quá, quên cả ngày về.(2)

Nhân dân nước Nam khổ về sự phiền nhiễu, bắt phục dịch khổ sai, không yên ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Long Quân(3) về nên mới đem nhau kêu rằng :

– Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân dân.

Từ thủy phủ trở về, Lạc Long Quân gặp nàng Âu Cơ dung mạo xinh đẹp mới hóa ra một chàng nhi lang phong tư, mỹ lệ tả hữu, thị tùng đông đảo, tiếng đàn ca vang đến hành tại. Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo. Họ nên duyên vợ chồng, Long Quân rước nàng về núi Nghĩa Lĩnh.

Ít lâu sau, Long Quân lên nối ngôi, đổi hiệu là Hùng Hiền vương. Âu Cơ có mang, đẻ ra một cái bọc trăm trứng, mỗi trứng nở ra một người con trai. Tất cả đều lớn nhanh như thổi, trí dũng song toàn, dung mạo hơn người.

Đúng giờ Ngọ, 15 tháng Chạp Ất Sửu, bào thai nở thành 100 trứng nở thành 100 con trai, lúc ấy hào quang rực rỡ, hương thơm sực nức đầy nhà. Trong có một tháng không cần bú mà đã lớn khôn, tướng mạo khác thường, tinh thần lẫm liệt, cái thế anh hùng, cao to 3 thước, 7 tấc….(4)

Về sau do tương khắc Rồng Tiên, Lạc Long Quân và Âu Cơ không thể chung sống với nhau được nữa.

Ta là giống Rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống Tiên, người ở trên cạn. Tuy âm dương gặp nhau mà sinh hạ ra con cái, nhưng chốn ở khác nhau, thủy hỏa tương khắc, không thể ở với nhau lâu được. Nay nên chia nhau, ta dồn 50 con về thủy phủ cai trị các xứ, còn 50 con thì theo nàng ở trên cạn chia đất mà cai trị.(5)

Long Quân dẫn 50 người con trai xuống biển chia nhau trị vì các xứ. Âu Cơ dẫn 50 người con trai lên đất Phong Châu (bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu Văn Lang. Về bờ cõi, “bắt đầu chia trong nước làm mười lăm bộ là: bộ Giao Chỉ, bộ Chu Diên, bộ Vũ Ninh, bộ Phúc Lộc, bộ Việt Thường, bộ Ninh Hải, bộ Dương Tuyền, bộ Lục Hải, bộ Vũ Định, bộ Hoài Hoan, bộ Cửu Châu, bộ Bình Văn, bộ Tân Hưng, bộ Cửu Đức, còn bộ Văn Lang là chỗ nhà vua đóng đô. Địa giới nước Văn Lang bấy giờ phía đông giáp biển Nam, phía tây giáp Ba Thục, phía bắc giáp Động Đình Hồ, phía nam giáp Hồ Tôn”(6), sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn, tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, con trai vua gọi là Quang Lang, con gái gọi là Mỵ Nương, quan Hữu tu gọi là Bồ chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền cho nhau đều hiệu là Hùng Vương không đổi.

Mẹ Âu Cơ dạy dân cách sinh sống hòa thuận ấm no, chỉ bảo nghề nghiệp lâu dài, phải triển sinh hoạt cộng đồng văn hóa khiến cho ai nấy đều biết ơn và tôn kính. Khi tạo dựng cơ nghiệp bền lâu muôn đời, mẹ Âu Cơ mới quay về trời. Người được ban sắc phong Quốc Mẫu và phối thờ ở nhiều đền điện Tứ phủ, tiêu biểu là đền Mẫu Âu Cơ Đầm Đa. Đây là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu – một trong các hiện tượng văn hóa nguyên thủy, độc đáo và nổi trội trong hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt.

Kiến trúc cảnh quan 

Nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 100km, đền là điểm đến tâm linh thu hút đông đảo du khách và Phật tử thập phương không chỉ vì sự linh thiêng mà còn bởi cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, tuyệt đẹp gồm hệ thống chùa, hang động gắn liền với dấu ấn sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ như động Tiên, động thạch nhũ, hang Hồ,…

Theo những hình ảnh được lưu giữ qua các thế hệ, đền Mẫu Đầm Đa cổ là một ngôi nhà sàn với thiết kế chủ yếu bằng chất liệu tre, nứa, lá,… Trong đền đồ thờ tự duy nhất chỉ có một bát hương cổ được đặt chính giữa trên kệ thờ của đền. Sau nhiều năm tháng đi qua, ngôi đền chịu nhiều hư hỏng và bị xuống cấp.

Năm 1994, đền được tu sửa bằng gỗ mái lợp ngói ri. Năm 1999, đền được xây mới lại trên nền đất cũ.

Hiện nay, đền Mẫu Đầm Đa được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của người Việt, với kết cấu nhà sàn kiên cố bằng xi măng cốt thép. Ngôi đền có chiều dài 8m, rộng 5,50m, cao 5,60m, với hai lối lên xuống hai bên. Phía trước là khoảng sân rộng được láng xi măng, xung quanh bao lan can. Trần đổ cuốn vòm, phía trên mái được ốp ngói giả kiểu ngói ống.

Trong đền có 3 ban thờ, các ban thờ được ốp bằng gạch men màu nâu, dài 1,60m, rộng 2,15m.

+ Chính giữa là tượng Mẫu tổ Âu Cơ, được tạc cao 115cm. Đầu đội vương miện, khuôn mặt tròn, đôn hậu, môi đỏ, mắt nhìn thẳng, tai to, cổ đeo các vòng tràng hạt màu đỏ, trắng, tím, hai tay được đặt chồng lên nhau theo thế tam muội ấn. Tượng mặc áo dài màu đỏ, được đặt trong khám. Khảm cao: 185cm, dài 125cm, được sơn son thếp vàng. Khảm được chạm lộng hoa văn với đề tài lưỡng long chầu nguyệt và tứ linh, tứ quý.

+ Ban bên phải nhìn vào là ban thờ tượng các cô, các nàng.

+ Ban bên trái nhìn vào là ban thờ tượng vua cha Lạc Long Quân tượng được tạc ngồi cao, khuôn mặt cương nghị, môi đỏ, mắt nhìn thẳng, tai to, mặc áo triều phục màu vàng.

Các cấp dưới tượng bài trí các đồ thờ tự như mâm bồng, đèn nến… Đặc biệt ở giữa đặt bát hương đồng trang trí lưỡng long chầu nguyệt, cao 0,30m, đường kính miệng 0,31m.

Sự kiện và lễ hội 

Từ xưa đến nay Đền Mẫu là địa điểm thu hút khách khá đông trong quần thể di tích này, sự linh thiêng huyền diệu của Mẫu Tổ Âu Cơ vẫn được lan truyền. Du khách thập phương vẫn tìm về cầu xin Quốc Mẫu ban cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, dân chúng ấm no, hạnh phúc. Hàng năm nơi đây diễn ra nhiều lễ hội truyền thống, trong đó nổi bật nhất là:

  • Lễ hội Đền Mẫu Đầm Đa (10/10 âm lịch): Lễ hội chính của đền, thu hút đông đảo người dân và du khách thập phương tham gia.
  • Lễ hội Mẫu Âu Cơ (10/3 âm lịch): Lễ hội tưởng nhớ công ơn của Mẫu Âu Cơ, người mẹ của dân tộc Việt Nam.
  • Lễ hội Vía Bà Chúa Thượng Ngàn (12/10 âm lịch): Lễ hội thờ Bà Chúa Thượng Ngàn, vị thần cai quản rừng núi.

Chú thích

[1] Đế Lai là cháu nội của Đế Minh, được cha là Đế Nghi truyền ngôi cho cai trị phương Bắc.

[2] Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam Chích Quái Việt-Hán, Nxb Khai Trí, 1960, tr 44.

[3] Theo Lĩnh Nam Chích Quái: Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi. Sau đó, Đế Minh đi nam tuần đến Ngũ Lĩnh, gặp được nàng con gái Vụ Tiền, đem lòng yêu mến mà cưới về, sinh ra Lộc Tục. Đế Minh lập Đế Nghi làm tự quân cai trị phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ Quốc. Kinh Dương Vương xuống Thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm, tức là Lạc Long Quân. Là người có đức độ tài hoa, văn võ song toàn, giúp dân trừ tà giết quỷ, Lạc Long Quân thay cha đề trị nước, dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quân thần tôn ty, có luân thường về phủ tử phu phụ.

[4] Trích Ngọc ngả Đền Hùng.

[5] Vũ Ngọc Khánh (chủ biên), Đền miếu Việt Nam, Nxb Thanh niên, 2007, tr 20.

[6] Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Nxb Giáo Dục – Hà Nội, 1998, tr 4.

Tham khảo

  1. GS. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên), 2007, Đền miếu Việt Nam, Nxb Thanh niên.
  2. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (1998), Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Nxb Giáo Dục – Hà Nội.
  3. Trần Thế Pháp (1960), Lĩnh Nam Chích Quái Việt-Hán, Nxb Khai Trí.

________________________

Các ngôn ngữ khác

1. Tiếng Anh (English)

Name and Geographical Location

Mau Au Co Dam Da Shrine, part of the Mau Dam Da tourist complex, is located in Phu Lao commune, Lac Thuy district, Hoa Binh province. The shrine nestles on the slope of So Mountain (also called Mount Tho), facing northeast toward the valley.

When visiting this ancestral Mother Goddess shrine, one can also stop by nearby sites such as: Chua Tien (Fairy Pagoda), Dong Tien (Fairy Grotto), Dong Ong Hoang Bay, Dong Co Chin, Dong Suoi Vang – Suoi Bac, followed by Dong Ong Hoang Muoi, Dong Cung Tien, and Dong Ong Hoang Bo.

History and Figures

For generations in Vietnamese consciousness, Mau Dam Da Shrine—associated with the worship of Mother Au Co—has become a refined expression of Vietnamese culture and a sacred emblem of the common origin of the descendants of the Dragon and the Fairy. This image endures as an immortal symbol in the thought and sentiment of the Vietnamese people.

According to legend, Au Co was the daughter of the northern King De Lai.(1) At that time, Au Co and her royal father led their entourage southward on a grand expedition.

De Lai traveled widely, marveling at rare plants and flowers, exotic birds and beasts, elephants and turtles, gold and silver, pearls and gems, pepper, frankincense, agarwood, and all kinds of delicacies. With a temperate climate across the four seasons, he grew so enamored that he forgot to return.(2)

The southern people, oppressed by corvée labor, longed for the return of Long Quan.(3) They cried out together:

— “Father, wherever you are, please return swiftly to save the people.”

Returning from the aquatic realm, Lac Long Quan encountered the beautiful Au Co, transformed into a handsome youth, and courted her. They became husband and wife, and Long Quan brought her to Mount Nghia Linh.

Later, Au Co gave birth to a sac of one hundred eggs, hatching into one hundred sons, who grew strong and intelligent. Long Quan and Au Co eventually separated: he took 50 sons to the sea, and she led 50 sons to Phong Chau, where the eldest became Hung Vuong, founding the state of Van Lang.(4–6)

Mother Au Co taught the people ways of living in harmony, sustaining livelihoods, and building community life. After establishing a lasting legacy, she returned to Heaven. She was venerated as Quoc Mau (National Mother) and enshrined in many Four Palaces shrines, with Mau Dam Da Shrine as a representative site.

Architecture and Landscape

About 100 km from central Hanoi, the shrine is a major spiritual destination attracting pilgrims not only for its sanctity but also for its natural scenery—pagodas and caves tied to the legend of Lac Long Quan and Au Co, such as Dong Tien, stalactite grottos, and Ho Cave.

The ancient Mau Dam Da Shrine was a stilt-house of bamboo, cane, and leaves, with only one incense burner on the altar. Over time it deteriorated.

In 1994 it was repaired with timber and a tile roof; in 1999 it was rebuilt. Today, the shrine follows traditional Vietnamese architecture in reinforced concrete stilt-house style, 8 m long, 5.5 m wide, 5.6 m high, with two stairways. The courtyard is cemented and enclosed by railings, with a vaulted concrete ceiling and a tiled roof.

Inside are three altars:

  • The central altar enshrines the statue of Mother Au Co.
  • The right altar honors the maidens.
  • The left altar honors the Royal Father Lac Long Quan.

Events and Festivals

Mau Dam Da Shrine has long been a sacred destination, where pilgrims pray to the National Mother for peace and prosperity. Major annual festivals include:

  • Mau Dam Da Shrine Festival (10th day of the 10th lunar month)
  • Mau Au Co Festival (10th day of the 3rd lunar month)
  • Via Ba Chua Thuong Ngan (12th day of the 10th lunar month)

2. Tiếng Pháp (Français)

Nom et Situation Géographique

Le Sanctuaire Mau Au Co Dam Da, intégré au site touristique spirituel de Mau Dam Da, se situe dans la commune de Phu Lao, district de Lac Thuy, province de Hoa Binh. Le sanctuaire est blotti sur le versant du mont So (également appelé mont Tho), orienté au nord-est, face au vallon.

Lors du pèlerinage au sanctuaire de la Mère ancestrale, on peut aussi visiter : Chua Tien (pagode des Fées), Dong Tien (grotte des Fées), Dong Ong Hoang Bay, Dong Co Chin, Dong Suoi Vang – Suoi Bac, puis Dong Ong Hoang Muoi, Dong Cung Tien et Dong Ong Hoang Bo.

Histoire et Personnages

Dans la mémoire vietnamienne, le Sanctuaire Mau Dam Da — lié au culte de la Mère Au Co — est devenu un fleuron de la culture nationale et un symbole sacré de l’origine commune des descendants du Dragon et de la Fée.

Selon la légende, Au Co était la fille du roi septentrional De Lai.(1) Elle accompagna son père dans une expédition vers le Sud.

De Lai admira fleurs rares, animaux exotiques, or, argent, perles, bois d’agar, épices… Séduit par ce pays tempéré, il oublia de rentrer.(2)

Les habitants du Sud, accablés par les corvées, implorèrent le retour de Long Quan.(3) Celui-ci revint, rencontra Au Co, et l’épousa. Plus tard, elle enfanta cent œufs, donnant cent fils. Long Quan en emmena 50 vers la mer ; Au Co conduisit 50 à Phong Chau, où l’aîné fut proclamé Hung Vuong, fondateur du royaume de Van Lang.(4–6)

La Mère Au Co enseigna l’harmonie, la prospérité, la vie communautaire. Puis elle retourna au Ciel, honorée comme Quoc Mau (Mère de la Nation) et vénérée dans plusieurs sanctuaires des Quatre Palais, dont le Sanctuaire Mau Dam Da est représentatif.

Architecture et Paysage

À 100 km de Hanoi, le sanctuaire attire pèlerins et visiteurs par sa sacralité et ses paysages naturels liés aux légendes de Lac Long Quan et Au Co.

Anciennement, c’était une maison sur pilotis en bambou et feuilles, ne contenant qu’un brûle-parfum ancien. Détérioré avec le temps, il fut restauré en 1994, puis reconstruit en 1999. Aujourd’hui, c’est un sanctuaire en béton armé de style traditionnel vietnamien (8 m × 5,5 m × 5,6 m), avec deux escaliers et une cour cimentée.

À l’intérieur, trois autels :

  • Au centre : statue de la Mère Au Co.
  • À droite : statues des Jeunes filles.
  • À gauche : statue du Roi-père Lac Long Quan.

Événements et Fêtes

Le Sanctuaire Mau Dam Da reste un lieu sacré, où l’on prie la Mère de la Nation pour la paix et l’abondance. Fêtes principales :

  • Fête du Sanctuaire Mau Dam Da (10e jour du 10e mois lunaire)
  • Fête de la Mère Au Co (10e jour du 3e mois lunaire)
  • Via de Ba Chua Thuong Ngan (12e jour du 10e mois lunaire)

3. Tiếng Trung (中文)

名称与地理位置

淡多母庙(属淡多旅游区)位于和平省洛水县富老社。庙宇隐于苏山(亦称“祠山”)山坡,坐东北,面向山谷。

朝拜民族始祖母的庙宇时,还可游览周边遗迹:仙寺、仙洞、翁皇七洞、姑九洞、金银泉洞,继而到翁皇十洞、仙宫洞、翁皇波洞等。

历史与人物

在越南人的集体记忆中,淡多母庙与媼姑崇拜相连,是越南文化精华和“龙仙同祖”的神圣象征。

传说媼姑为帝來(1)之女。她随父王南游。帝來见奇花异兽、金银珠宝、沉香香料,因气候宜人而留恋不返。(2)

南国百姓受役役,盼龍君(3)归来。龍君归后,与媼姑成婚。后媼姑产囊百卵,孵出百子。龍君率五十子入海,媼姑率五十子至封州(今白鶴),长子为雄王,建国文郎。(4–6)

母媼姑教民安居乐业,建立文化。后升天,被尊为“国母”,合祀于四府庙宇,淡多母庙为代表。

建筑与景观

距河内约100公里,庙宇既因灵验,又因自然景观宏伟而著称。

古庙为竹藤茅材高脚屋,仅有一古香炉。后毁坏,1994年修缮,1999年重建。今为钢筋混凝土传统式庙宇(长8米,宽5.5米,高5.6米),两侧设阶,前有水泥广场,屋顶覆仿瓦。

殿内三坛:

  • 中坛:媼姑像。
  • 右坛:侍女像。
  • 左坛:雒龍君像。

活动与节庆

淡多母庙香火最盛,香客祈求国泰民安、五谷丰登。主要庙会:

  • 淡多母庙庙会(农历十月初十)
  • 媼姑庙会(农历三月初十)
  • 上源女神圣会(农历十月十二)
5/5 (3 bình chọn)

Từ khóa » đâm đa Hoa Binh