Di Tích Quốc Gia Lam Kinh Thanh Hóa - Khách Sạn Hero

Hôm nay Khách sạn hero Thanh Hóa sẽ chia sẽ cho các quý khách biết về khu du lịch lam kinh Thanh Hóa, để trải quý khách trải nghiệm một cách thưc tế nhất

Vườn quốc gia bến en

Mục lục

  • DU LỊCH  THANH HÓA
    • Di tích lịch sử Lam Kinh nằm ở đâu?
    • Những kiến trúc độc đáo của Khu di tích lịch sử Lam Kinh
    •  Một số kiến trúc nổi bật:
    • Những câu chuyện truyền thuyết hấp dẫn
    • Lễ hội Lam Kinh diễn ra khi nào?

DU LỊCH  THANH HÓA

                                      Di tích quốc gia LAM KINH: Trường tồn cùng thời gian và lịch sử đất nước

Di tích lịch sử Lam Kinh được biết đến là vùng đất thiêng, địa linh nhân kiệt, quê hương của người Anh hùng dân tộc Lê Lợi – nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đây cũng chính là nơi an nghỉ vĩnh hằng của gia tộc, các vua, thái hoàng, thái hậu triều Lê Sơ. Những công trình kiến trúc kỳ vỹ của 600 năm trước được phỏng dựng lại đưa vào phục vụ người dân và du khách.

Đây trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng, hấp dẫn để chúng ta khám phá lịch sử Việt Nam thời Hậu Lê.

Di tích lịch sử Lam Kinh nằm ở đâu?

Khu di tích lịch sử Lam Kinh cách thành phố Thanh Hóa 50 km về phía Tây Bắc, nằm trên địa bàn thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Thành điện Lam Kinh phía bắc dựa vào núi Dầu, mặt Nam nhìn ra sông Chu – có núi Chúa làm tiền án, bên tả là rừng Phú Lâm, bên hữu là núi Hương và núi Hàm Rồng chắn phía tây. Khu Hoàng thành, cung điện và Thái miếu ở Lam Kinh được bố trí xây dựng theo trục Nam – Bắc trên một khoảng đồi gò có hình dáng chữ Vương (王). Bốn mặt xây thành có chiều dài 314m, bề ngang 254m, tường thành phía Bắc hình cánh cung có bán kính 164m, thành dày 1m.

Qua khảo cổ và dấu tích còn lại cho thấy xưa kia ở đây đã từng tồn tại Ngọ môn, sân rồng, chính điện, khu Thái miếu… nguy nga tráng lệ.Khu di tích lịch sử Lam Kinh rộng khoảng 30 ha, gồm những lăng phần, đền miếu và một hành cung của các vua nhà Hậu Lê mỗi lần về bái yết tổ tiên.Với diện tích trải dài trên 140 ha, Khu di tích Quốc gia đặc biệt Lam Kinh (huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá) đã không chỉ giữ được nguyên vẹn những công trình của triều đại Nhà Hậu Lê, mà còn lưu giữ cả những câu chuyện truyền thuyết mang đầy màu sắc huyền bí của một triều đại phong kiến được coi là hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử Việt Nam.    “Điện Lam Kinh đằng sau gối vào núi, trước mặt trông ra sông, bốn bên non xanh nước biết, rừng rậm um tùm.

Vĩnh Lăng của Lê Thái Tổ, Thiệu Lăng của Lê Thái Tông và các lăng của vua nhà Lê đều ở đây cả. Lăng nào cũng có bia. Sau điện lấy Tây hồ làm não, giống như hồ Kim Ngưu. Hồ rất rộng lớn, nước các ngả đều chảy cả vào đó. Có con sông phát nguyên từ hồ ấy, chạy vòng trước mặt, lòng sông có những viên đá nhỏ, tròn và nhẵn trông rất thích mắt nhưng không ai dám lấy trộm. lại có lạch nước nhỏ, chảy từ bên tay phải qua trước điện, ôm vòng lại như cánh cung.

Trên lạch có cầu giống như Bạch Kiều ở giảng đình điện Vạn Thọ Đông Kinh, đi qua cầu mới tới điện. Nền điện rất cao, hai bên mở rộng, dưới chân điện có làn nước phẳng, giống như trước điện nhà vua coi chầu. Ngoài cửa Nghi Môn có hai con chó ngao bằng đá, tục truyền là rất thiêng.

Điện làm ba ngôi liền nhau, kiểu chữ Công, mẫu mực theo đúng kiểu các miếu ở kinh sư. Theo từng bậc mà lên, rồi từ đó trông xuống thì thấy núi khe hai bên Tả, Hữu, cái nọ, cái kia vòng quanh thật là một chỗ để xây dựng cơ nghiệp”. ( Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú).

Những kiến trúc độc đáo của Khu di tích lịch sử Lam Kinh

Khi đến với di tích lịch sử Lam Kinh, chúng sẽ vô cùng thích thú khi chiêm ngưỡng những kiến trúc độc đáo của nơi đây. Thành điện Lam Kinh xưa được xây dựng theo địa thế “tọa sơn hướng thủy”, một tiêu chuẩn vàng trong phong thủy của người Á Đông. Khu hoàng thành, cung điện và thái miếu của kinh thành Lam Kinh vẫn được giữ nguyên vẹn cho đến ngày nay, với cách bố trí hình bàn cờ gồm khu ngọ môn, sân rồng, chính điện, thái miếu…

Cây cầu Bạch (tên gọi xưa là cầu Tiên Loan Kiều) bắc trên sông Ngọc là lối đi chính dẫn du khách vào thăm Kinh thành cổ Lam Kinh. Cầu được làm theo kiểu dáng kiến trúc độc đáo phổ biến ở các nước nhiệt đới vùng Á Đông, đó là thượng gia hạ kiều tức trên nhà, dưới cầu.

Trên sông Ngọc có bắc một cây cầu tên là Tiên Loan Kiều hình cánh cung, còn có tên gọi là Cầu Bạch. Cầu uốn cong bắc qua sông Ngọc, nằm trên trục đường chính dẫn vào khu trung tâm chính điện Lam Kinh.

Qua cầu khoảng 50m đến một giếng cổ, trước kia có thả sen. Nước giếng trong xanh quanh năm không cạn, bờ Bắc được lát bậc đá lên xuống, cung cấp nước cho điện Lam Kinh.

Để  vào khu chính điện, khách phải đi qua Ngọ môn có 3 gian, gian giữa rộng 4,6 m, gian bên rộng 3,5m. Nền Ngọ môn rộng 11m, dài hơn 14m, có 3 cửa ra vào. Cửa giữa rộng 3,6 m, cửa hai bên rộng 2,74 m và được bố trí hàng cột chính giữa. Đặc điểm của bốn cột giữa là kích thước lớn, đường kính chân cột 78 cm.

Nằm trong quần thể thứ nhất, Ngọ môn được các nhà nghiên cứu về kiến trúc cổ đánh giá là một công trình kiến trúc khá quy mô, căn cứ vào chiều rộng của nền Ngọ môn và xét về tỷ lệ quy mô các công trình kiến trúc toàn khu cung điện.

Ngọ môn có hai con Nghê bằng đá đứng canh. Nền Ngọ môn rộng 11m dài 14,10m, có 3 cửa ra vào. Cửa giữa rộng 3,6m, cửa hai bên rộng 2,74m và được bố trí ở hàng cột chính giữa. Đặc điểm của bốn cột giữa là rất lớn, đường kính chân cột đo được 78 cm. Ngọ môn có 3 gian, gian giữa rộng 4,60m, gian bên rộng 3,50m.

Qua Ngọ môn vào đến sân rồng (còn có tên gọi là sân chầu). Sân trải rộng khắp bề ngang chính điện và đến sát thềm hai nhà tả vu và hữu vu với tổng diện tích 3.539,2m² (rộng 58,5m; dài 60,5m).Sân rồng là lối vào khu chính điện, gồm 3 toà điện lớn xây trên nền đất rộng, cao 1,8m so với sân rồng, bề ngang 38m, chiều sâu 46m.Từ sân rồng đi lên chính điện là một thềm lớn, rộng 5m có 9 bậc với 3 lối lên, có chiều rộng không bằng nhau, lối giữa rộng 1,8m, lối bên rộng 1,21m, được trang trí hình rồng tạc tròn, thân uốn khúc,…

 Một số kiến trúc nổi bật:

Chính điện Lam Kinh: theo tư liệu lịch sử và khảo cổ học, chính điện Lam Kinh được dựng ngay sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà (năm 1433). Bố cục mặt bằng của kiến trúc này có dạng hình chữ “công”, với tổng diện tích là 1.645,04m2,gồm 3 tòa điện chính: Quang Đức, Sùng Hiếu và Diên Khánh. Hiện nay, trong khu vực này chỉ còn lại dấu tích nền móng, với 127 tảng kê chân cột, nền lát, bó vỉa cùng một số hiện vật khác.

Thái miếu: là nơi thờ cúng tổ tiên, các vị vua và hoàng thái hậu nhà Lê. Theo kết quả khai quật khảo cổ, trong khu vực này gồm 9 tòa kiến trúc. Hiện nay, đã tôn tạo, phục hồi được 5 tòa (các tòa số 3, 4, 5, 6, 7).

Sân rồng: là một trong những kiến trúc có diện tích lớn nhất trong khu trung tâm của điện Lam Kinh, nằm tại phía sau Ngọ môn, chính giữa có 3 lối đi lên chính điện theo bậc thềm rồng.

Đông trù: nằm ở phía Đông Nam của chính điện, được coi như khu vực hậu cần, bếp núc để phục vụ cho toàn bộ khu vực trung tâm của Lam Kinh.

Tả vu, Hữu vu: nằm về hai bên sân rồng, hiện chỉ còn lại nền móng và một số chân tảng kê cột cùng một số hiện vật khác.

Tây thất: nằm trên một gò đất nhỏ ở phía Tây của Chính Điện, ngoài phạm vi thành Nội. Hiện nay, khu vực này chỉ là phế tích kiến trúc.

Cầu Bạch: mới được phục hồi, dài 17m, rộng 5,50m, bắc qua sông Ngọc, nằm trên trục đường chính dẫn vào khu trung tâm chính điện Lam Kinh.

Hệ thống tường thành: gồm 3 vòng thành (La thành, thành Nội và thành Ngoại). Năm 2008, một số đoạn của La thành phía Đông và phía Tây cầu Bạch đã được khôi phục (với tổng chiều dài 21m).

Hồ Như Áng, kênh dẫn nước đập nhà Lê, hồ Tây: trước kia, khu vực này vốn là vùng đất trũng, xung quanh có nhiều khe suối nhỏ. Lợi dụng địa thế tự nhiên, nhà Lê đã cho đào kênh dẫn nước về hồ Tây, để cung cấp cho toàn bộ khu vực Lam Kinh.

Núi Dầu: cách lăng vua Lê Thái Tổ khoảng 500m. Trên núi có đền thờ bà hàng Dầu, gắn liền với truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Lăng mộ Lê Thái Tổ và bia Vĩnh Lăng: Vĩnh Lăng được xây dựng trên một dải đất bằng phẳng, ở phía Nam chân núi Dầu. Năm 1995, Vĩnh Lăng đã được trùng tu, xây lại bằng gạch, bên ngoài ốp đá đục nhám, phía trước lăng có 2 tượng quan hầu và 4 đôi tượng con giống bằng đá, đứng chầu vào đường “thần đạo” của lăng.

Bia Vĩnh Lăng được làm bằng đá trầm tích nguyên khối, cao 2m79, rộng 1m94, đặt trên lưng rùa đá. Nội dung văn bia ghi lại thân thế, sự nghiệp của Lê Thái Tổ. Đây là một công trình điêu khắc đá có giá trị nghệ thuật, đồng thời cũng là tư liệu quý giá trong việc nghiên cứu lịch sử giai đoạn Lê Sơ.

Lăng mộ Lê Thái Tông và Bia Hựu Lăng: nằm trên đỉnh cao của rừng Phú Lâm, thuộc xã Xuân Lam, cách Vĩnh Lăng 800m. Bia Hựu Lăng được dựng cách lăng khoảng 20m. Hiện nay, bia đã bị mất, chỉ còn lại rùa đá nằm nguyên ở vị trí ban đầu.

Lăng mộ Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao và bia Khôn Nguyên Chí Đức: tọa lạc trên một khu đất thấp, gọi là Xà Đàm (đầm Rắn), cách Vĩnh Lăng 700m về phía Đông. Năm 1998, lăng mộ được trùng tu lại bằng gạch vồ, mặt ngoài trát xi măng, hai bên tạc tượng người và động vật bằng chất liệu đá.

Bia Khôn Nguyên Chí Đức dựng năm Mậu Ngọ (1498), làm bằng chất liệu đá xanh nguyên khối, cao 2m76, rộng 1m90. Trán bia và diềm bia trang trí hình rồng 5 móng và hoa lá cách điệu…

Lăng mộ Lê Thánh Tông và Bia Chiêu lăng: nằm sát gò Đình (xã Xuân Lam). Bia được dựng vào mùa xuân năm Mậu Ngọ, niên hiệu Cảnh Thống (1498).

Lăng mộ vua Lê Hiến Tông và Bia Dụ Lăng: nằm ở bên phải của Vĩnh Lăng, giáp hồ Tây. Bia Dụ Lăng nằm cách lăng mộ khoảng 30m, được làm bằng đá nguyên khối, cao 2m78, rộng 1m98.

Lăng mộ Lê Túc Tông và Bia Kính Lăng: được xây trên đỉnh núi “Hổ Xứ Ngọc Giăng Đèn”, thuộc địa phận xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc.

Bia Kính Lăng được dựng vào tháng 3 năm Đoan Khánh thứ nhất (1505), nội dung bia ghi về thân thế, sự nghiệp của vua Lê Túc Tông.

Đền thờ vua Lê Thái Tổ: tọa lạc ở phía Đông Nam khu di tích Lam Kinh, Năm 1996, đền này được tôn tạo lại, với kết cấu khung gỗ lim, theo mẫu thức của kiến trúc truyền thống, bao gồm các hạng mục: tiền đường, nhà cầu (ống muống) trung đường và hậu cung.Ngoài các kiến trúc kể trên, trong khu vực Lam Kinh còn có hệ thống công trình phụ trợ cùng nhiều di vật, cổ vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khác.

Những câu chuyện truyền thuyết hấp dẫn

Sa bàn khu di tích Lam Kinh

Khu di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh không chỉ hấp dẫn du khách trong và ngoài nước bởi kiến trúc độc đáo đậm chất Á Đông của khu kinh thành cổ, mà còn thu hút du khách bởi những câu chuyện truyền thuyết mang màu sắc huyền bí tại khu lăng tẩm của các Vua chúa thời Hậu Lê. tại khu Vĩnh Lăng này có tồn tại truyền thuyết về cây ổi cười, tạo lên sự huyền bí cho vùng đất Lam Kinh. Du khách chỉ cần dùng ngón tay cù nhẹ lên thân cây, thì toàn bộ cây ổi đều rung lên như có một cơn gió mạnh thổi qua. Chuyện về cây ổi biết cười bắt đầu từ hơn 10 năm về trước, do một du khách tình cờ phát hiện. Không chỉ toàn thân cười khi có người chạm vào vào, cây ổi còn mang lại một cảm giác nhẹ nhõm khác lạ nếu du khách nắm tay vào cành và nhắm mắt lại tĩnh tâm.

Cũng nằm trong khu quần thể lăng mộ, cây lim cổ thụ có tuổi thọ khoảng 600 năm tuổi, cao nhất nhì rừng Lam Kinh, được gọi bằng cái tên “cây lim hiến thân”.Chuyện kể lại rằng, cây lim đang xanh tươi, khỏe mạnh bất ngờ trút hết lá ra đi ngay khi dự án phục hồi phỏng dựng Chính điện Lam Kinh được phê duyệt năm 2010. Thân và cành lim được ước lượng đủ kích thước để làm một bộ gồm: cột cái, cột quân, cột góc và thượng lương để phục vụ Lễ phạt mộc khởi công cung điện vào tháng 10 cùng năm.Đường kính phần gốc cây lim trùng khớp với chân đá tảng cột cái (xấp xỉ 0,8m), phần ngọn khoảng 0,65cm, vừa với chân đá tảng cột quân. Những sự trùng hợp về kích thước này được đồn đoán rằng, dường như cây Lim sinh ra để thực hiện sứ mệnh của 600 năm sau đó là phỏng dựng lại cung điện cho hậu thế.

Một chuyện huyền bí nữa tại khu di tích lịch sử Lam Kinh là chuyện tình cây đa thị. Theo lời của hướng dẫn viên, những người gắn bó lâu năm với khu di tích Lam Kinh kể lại rằng, xưa kia chỗ cây đa đang áng ngữ là một cây thị, chim chóc thường về đậu trên cành thị mang theo quả đa về ăn nên hạt rơi xuống đất mọc thành cây. Sau này, cây đa mọc lên xanh tốt, bộ rễ phụ của cây đa thị rất đặc biệt, không vươn ra xa như các cây đa nhiều “gốc” khác mà ôm trọn gốc thị rồi hóa thành chung một gốc. Từ gốc đến ngọn đa cao chừng 20m, gốc cây gần chục người ôm không xuể. Cây thị sống trong lòng cây đa vẫn xanh tươi tốt lá, mỗi năm đều ra quả, tuy nhỏ, chát nhưng thơm lừng một góc trời. Đến năm 2007 cây thị già chết khô, nhưng đến nay vẫn còn một cành khô chĩa ra bên ngoài gốc đa. Năm 2013, cây đa thị được Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận là cây di sản bởi tầm vóc, sự độc đáo và giá trị lịch sử của nó.

Cây lim “hiến thân” được dùng làm cột cái ở hậu điện, nơi linh thiêng nhất của chính điện

Cây ổi cười

Đó chỉ là hai trong số rất nhiều câu chuyện truyền thuyết mà du khách sẽ được trực tiếp trải nghiệm khi đến thăm Quần thể khu di tích Lam Kinh. Du khách không chỉ được sống trong không gian lịch sử, ngược dòng về quá khứ để tưởng nhớ đến một thời kỳ hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử Việt Nam, mà còn được nghe những tích xưa, tận mắt chứng kiến chuyện lạ, như cách gọi của chính những người dân địa phương: “Quần thể di tích Lam Kinh là thế giới của những câu chuyện cổ tích được xây nên từ những linh khí của trời đất”./.

Lễ hội Lam Kinh diễn ra khi nào?

Lễ hội Lam Kinh diễn ra trong 3 ngày 21, 22 và 23/8 âm lịch hằng năm với các hoạt động chính tại Khu di tích lịch sử Lam Kinh và các địa điểm gồm Đền thờ Lê Thái tổ, Khu lăng mộ Lê Thái tổ, các Tòa miếu di tích lịch sử Lam Kinh (huyện Thọ Xuân); Đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai, xã Kiên Thọ (huyện Ngọc Lặc); Thái miếu Nhà Lê, Tượng đài Lê Lợi (thành phố Thanh Hóa)./.Phần lễ được tổ chức với nghi thức tế lễ truyền thống diễn ra tại Sân Rồng Khu Di tích Lịch sử Lam Kinh với các màn trống hội, rước kiệu lên kỳ đài, lễ tế, cáo tổ tiên theo nghi thức cổ truyền với sự tham gia của đội tế, dàn trống đồng, cồng chiêng, đội rồng…Sau phần nghi lễ trang nghiêm, du khách được hòa mình vào không gian văn hóa nghệ thuật truyền thống đặc sắc của xứ Thanh. Mở đầu phần hội là chương trình nghệ thuật do Đoàn Nghệ thuật Tuồng Thanh Hóa chủ trì với nội dung nhằm tuyên truyền, giáo dục lịch sử gắn với các nhiệm vụ chính trị của đất nước và tỉnh Thanh Hóa.Tiếp đó là các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch với các trò chơi dân gian gắn với lễ hội Lam Kinh và thi đấu các môn thể thao truyền thống với tinh thần thượng võ của dân tộc, cùng nhiều hoạt động thể thao khác…

Di tích lịch sử Lam Kinh là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng của văn hóa xứ Thanh. Khi đến Thanh Hóa chúng ta hãy tới đây và trải nghiệm những kiến trúc độc đáo cũng như biết thêm về lịch sử dân tộc nhé!

Địa chỉ : Xã Xuân Lam , huyện Thọ Xuân, Tỉnh Thanh Hóa./

Đọc tiếp: Khám phá kinh thành cổ Lam Kinh

Từ khóa » Di Tích Lam Kinh Thờ Ai