Điện Gió Ngoài Khơi Tại Việt Nam: Tại Sao Việt Nam Nên Theo đuổi ...

Việt Nam may mắn sở hữu một số điều kiện tự nhiên rất tốt cho việc phát triển năng lượng gió ở khu vực châu Á. Điều này đặc biệt đúng đối với năng lượng gió ngoài khơi, nơi Việt Nam có một số điều kiện tốt nhất trên thế giới. Theo báo cáo ‘Lộ trình gió ngoài khơi tại Việt Nam’ của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam có tiềm năng đạt được công suất gió ngoài khơi từ 11GW đến 25GW cho đến năm 2035, có thể tạo ra tới 700.000 việc làm mỗi năm và giảm thiểu được 217 triệu tấn khí thải CO2.

Như thể hiện trong bản đồ dưới đây, tốc độ gió cao nhất và các vị trí gió ngoài khơi tốt nhất tập trung ở ngoài khơi Bình Thuận và Ninh Thuận. Có thể thấy từ trên xuống dưới dọc theo bờ biển tốc độ gió tốt nằm ở các khu vực xa bờ. Việt nam có một lợi thế lớn khi có các khu vực đông dân ven biển và các khu vực có tốc độ gió cao, nơi mực nước tương đối nông. Việt Nam cũng sở hữu lực lượng lao động lành nghề trong lĩnh vực ngoài khơi, năng lực sản xuất mạnh mẽ và các bến cảng đã được gia cố hiện có.  

Điện gió ngoài khơi là một công nghệ đã được khẳng định và chi phí đầu tư giảm đáng kể ở châu Âu, nơi đã thực hiện các dự án điện gió ngoài khơi trên quy mô lớn. Đây là một nguồn năng lượng có chi phi xây dựng rẻ hơn so với các loại năng lượng khác như than, hạt nhân và khí đốt.

Điện gió ngoài khơi đã và đang được triển khai tại các thị trường gần Việt Nam hơn như là Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Điều này sẽ dẫn đến một chuỗi cung ứng hoàn thiện và giảm chi phí đầu tư cho các dự án trong khu vực châu Á, giúp cho Việt Nam có thể đạt được nhiều lợi ích từ đó.

Sự kết hợp giữa các yếu tố như tiềm năng gió tốt, vùng nước nông, các thành phố ven biển, bến cảng hiện có và lực lượng lao động lành nghề của Việt Nam là điều kiện lý tưởng cho việc phát triển điện gió ngoài khơi. Việt Nam nắm giữ vị trí độc nhất vô nhị để theo đuổi điện gió ngoài khơi như một nguồn năng lượng an toàn và là một phần quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch.

(Bên trái) Bản đồ tốc độ gió ở Việt Nam – Các khu vực ngoài khơi Bình Thuận và Ninh Thuận đang có tiềm năng gió tốt nhất cả nước [nguồn: Global Wind Atlas]

Hiện tại, chưa có trang trại điện gió ngoài khơi thực sự nào được xây dựng ở Việt Nam. Việt Nam tập trung việc phát triển điện gió tại các khu vực trên bờ và gần bờ. Đây là những điển hình thường thấy ở một thị trường mới đang trong giai đoạn đầu áp dụng năng lượng gió tái tạo làm nguồn điện, vì các trang trại điện gió trên bờ và gần bờ có quy mô nhỏ, dễ đầu tư hơn và có thời gian phát triển ngắn hơn. Ví dụ, Đan Mạch và Trung Quốc đầu tiên bắt đầu phát triển điện gió gần bờ trước khi chuyển sang điện gió ngoài khơi.

Các thực tế về dự án điện gió gần bờ

Các trang trại điện gió gần bờ nằm trong khu vực thủy triều hoặc cách bờ biển vài km, nơi nước rất nông. Các dự án điện gió ở khu vực này có xu hướng sử dụng các tuabin nhỏ hơn (mỗi tuabin thường có công suất dưới 4MW), quy mô dự án nhỏ hơn (thường dưới 200 MW) và thường nằm gần lưới điện. Các dự án có thể có nền móng tùy chỉnh nhưng nhìn chung có thiết kế tương tự như các trang trại điện gió trên bờ. Do quy mô nhỏ hơn nên những dự án điện gió ở khu vực này có chi phí đầu tư thấp hơn và có thể huy động được vốn vay trong nước.

_

Các thực tế về dự án điện gió ngoài khơi

Các trang trại điện gió ngoài khơi nằm cách bờ biển hơn 5 km trong vùng nước sâu hơn 10m. Các dự án điện gió ngoài khơi sử dụng các tuabin rất lớn (tuabin công nghệ mới nhất có công suất lên tới 14MW) và quy mô lớn hơn (lên đến vài GW). Do công suất lớn và ở xa bờ nên dự án đỏi hỏi phải có các trạm biến áp và cáp ngầm chuyên dụng để vận chuyển điện lên lưới. Các tuabin gió, thiết kế móng, phương pháp lắp đặt và chuỗi cung ứng được thiết kế phù hợp với các điều kiện ngoài khơi. Chuỗi cung ứng điện gió xa bờ cũng khác với điện gió gần bờ. Do quy mô lớn, tương đương với một nhà máy điện khí LNG, chi phí đầu tư trang trại điện gió ngoài khơi cao hơn so với điện gió trên bờ và gần bờ, và cần có nguồn tài chính quốc tế.

Ở các quốc gia khác, động lực chính để di chuyển các dự án điện gió ra xa bờ là tốc độ gió cao hơn, không gian sẵn có, quan ngại về môi trường và việc tránh xung đột với các cộng đồng ven biển và các chủ thể sử dụng biển.

Ở Việt Nam, gió ngoài khơi cũng mang lại những lợi ích tương tự. Các dự án điện gió ngoài khơi thực sự sẽ ở những khu vực có tốc độ gió cao hơn và ổn định hơn, hướng tới sản xuất năng lượng bền vững và hiệu quả hơn. ‘Đất’ xa bờ thuận tiện hơn ‘đất’ gần bờ vì không bị giới hạn bởi thủy triều và độ sâu của nước. Các trang trại gió ngoài khơi có khả năng ít tác động đến môi trường hơn, vì có ít đa dạng sinh học hơn ở các vùng nước sâu hơn. Các trang trại gió ngoài khơi cũng có ít tác động trực quan và tiếng ồn hơn, và sẽ ít ảnh hưởng tới những chủ thể sử dụng biển hiện tại, chẳng hạn như các chủ thể trong lĩnh vực quân sự, vận tải biển, đánh cá và du lịch.

Cho đến nay, sự phát triển của điện gió gần bờ ở Việt Nam đã được thúc đẩy bởi các chính sách của Chính phủ, trong đó ban hành các biểu giá Feed-In-Tariffs (FIT – giá bán điện năng (tariff) sản xuất ra từ nguồn năng lượng tái tạo được cung cấp vào (feed-in) hoặc bán cho lưới điện) cụ thể cho các dự án “trên biển” (chủ yếu là các dự án điện gió gần bờ). Tại thời điểm này, không có định nghĩa chính thức hoặc chính sách cụ thể cho các dự án điện gió ngoài khơi thực sự ở Việt Nam. Để điện gió ngoài khơi thành công ở Việt Nam, cần phải có một chính sách chuyên biệt tương tự. Điều này là do các đặc tính của gió ngoài khơi khác hẳn với gió vùng gần bờ và chuỗi cung ứng cần có một bước khởi đầu. Những điểm khác biệt chính được tóm tắt dưới đây:

Để khai thác tiềm năng to lớn của điện gió ngoài khơi ở Việt Nam, các nhà phát triển đang kêu gọi Chính phủ đưa ra những cơ chế rõ ràng cho ngành này, dựa vào đó sẽ thúc đầy nhiều khoản đầu tư vào việc phát triển điện gió ngoài khơi. Chính phủ có thể thực hiện bằng cách thiết lập các mục tiêu thực sự ý nghĩa cũng như chính sách dành riêng cho điện gió ngoài khơi.

Theo Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu (Global Wind Energy Council – GWEC), thế giới đang đón nhận điện gió ngoài khơi – công suất gió ngoài khơi toàn cầu sẽ tăng từ 29GW vào năm 2020 lên hơn 234 GW vào năm 2030, dẫn đầu bởi sự tăng trưởng theo cấp số nhân ở Châu Á – Thái Bình Dương và tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ ở Châu Âu. Các quốc gia khác khởi đầu từ chính sách cho điện gió gần bờ như Đan Mạch và Trung Quốc cũng đã hoàn toàn chấp nhận điện gió ngoài khơi. Cũng giống như các thị trường này, Việt Nam có cơ hội tận dụng các điều kiện ven biển độc đáo riêng biệt, đạt được an ninh về cung cấp năng lượng, tạo việc làm và cung cấp năng lượng điện gió sạch ngoài khơi trong nhiều năm tới.

Công thương

Năng lượng Việt Nam

Trang tin EVN

Từ khóa » Trụ điện Gió ở Việt Nam