Điêu Khắc Thời Lê Sơ Có Phong Cách - Hỏi Đáp

Hệ tư tưởng nào chiếm địa vị độc tôn trong xã hội nước ta thời Lê sơ?

Nội dung chính Show
  • Mục lục
  • (adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({}); Kiến trúc và điêu khắcSửa đổi
  • Âm nhạcSửa đổi
  • Âm nhạc cung đìnhSửa đổi
  • Âm nhạc dân gianSửa đổi
  • Xem thêmSửa đổi
  • Tham khảoSửa đổi
  • Chú thíchSửa đổi
  • Video liên quan

Tác phẩm nào sau đây là thành tựu toán học tiêu biểu thời Lê sơ?

Chế độ khoa cử thời Lê sơ phát triển thịnh nhất dưới triều vua nào?

Nhân vật lịch sử nào được mệnh danh là Trạng Lường?

Trong trăm năm của triều đại Lê Sơ, Phật giáo đã b đẩy lùi v các làng xã, Nho giáo lên ngôi và kinh tế nông nghiệp với quan h địa ch – nông dân cũng phát đạt. Ngoài ba pho tượng đá chùa Ngọc Khám (Bắc Ninh) đến nay hình ảnh điêu khc Pht giáo thi Lê Sơ rất m nhạt. Thay vào đó là nền điêu khắc lăng mộ ca các vua Lê Lam Sơn (Thanh Hoá). Tám lăng vua Lê và hai bà Hoàng hậu đều theo hình thc ca lăng vua Lê Thái Tổ làm năm 1433, mặt bng hình vuông, chính giữa là đường thần đạo dẫn đến mộ phần ở đáy lăng, hai bên có hai dãy tượng chu gm quan hầu, lân, tê giác, nga, hổ. Bên ngoài lăng là nhà bia. Các lăng khác đều tương t, tuy các con vt chầu có chút ít thay đổi. Sau 20 năm chiến tranh vi nhà Minh (1407 – 1427), đất nước tr nên hoang tàn, sn vt b vơ vét, sách vở bị đốt, đền chùa bị phá, thợ gii b đưa về Tàu. Vua Lê đành phải dùng nhng nông dân lân cn tạc tượng, xây lăng. Tính thô mộc, gin d, s cần kim ca mt chính th mới lên đã dẫn đến mt nền điêu khắc đơn điệu, nghèo nàn, dù con mt kiến trúc tổng thể khá.

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

Nghệ thuật Đại Việt thời Lê Sơ phản ánh các loại hình nghệ thuật của nước Đại Việt từ năm 1428 đến năm 1527, chủ yếu trên lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc và âm nhạc.

Mục lục

  • 1 Kiến trúc và điêu khắc
  • 2 Âm nhạc
    • 2.1 Âm nhạc cung đình
    • 2.2 Âm nhạc dân gian
  • 3 Xem thêm
  • 4 Tham khảo
  • 5 Chú thích

(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({}); Kiến trúc và điêu khắcSửa đổi

Đĩa gốm

Bình gốm

Những công trình tiêu biểu thời Lê sơ là điện Kính Thiên, điện Cần Chánh, điện Vạn Thọ tại Đông Đô (Hà Nội) và Lam Kinh tại Tây Đô (Thanh Hóa).

Điện Kính Thiên là nơi thiết triều trong cung cấm, xây dựng từ thời Lê Thái Tổ; sang thời Lê Thánh Tông được sửa sang thêm vào năm 1465. Ngày nay phần lớn công trình này bị phá hủy và vùi sâu, chỉ còn 4 bậc cửa bằng đá với dấu tích điêu khắc đương thời[1].

Công trình Lam Kinh được xây dựng từ năm 1433 sau khi Lê Thái Tổ qua đời, bao gồm khu quần thể kiến trúc các cung điện (điện Quang Đức, điện Sùng Hiếu, điện Diễn Khánh…) và miếu, lăng mộ các vua Lê. Ngày nay khu vực này bị phá huỷ gần hết, chỉ còn lại một ít phế tích tượng ngựa đá, voi đá, nghê đá, hổ đá và bia Vĩnh Lăng, bia Hựu Lăng, bia Chiêu Lăng.

Ngoài các cung điện, các công trình khác gồm có Quốc Tử Giám, nhà Thái học được mở rộng đáng kể. Văn bia tiến sĩ ở Văn Miếu cũng là di tích về điêu khắc thời kỳ này còn để lại đến ngày nay.

Việc xây cất các chùa, quán mới bị hạn chế nhưng việc tu bổ các chùa, quán sẵn có được coi trọng[1]. Từ thời Lê Thái Tông đến Lê Chiêu Tông, nhà Lê cho trùng tu nhiều chùa như chùa Minh Độ ở Thanh Hà (Hải Dương), chùa Thiên Phúc (chùa Thầy) ở Quốc Oai (Hà Nội), chùa Kim Liên (Hà Nội), chùa Thuý Lai (Thạch Thất, Hà Nội), chùa Đại Bi (huyện Gia Bình, Bắc Ninh). Tháp chùa Hoa Yên xây thời Trần Nhân Tông bị đổ cũng được sửa chữa đầu thời Lê Sơ

Âm nhạcSửa đổi

Âm nhạc cung đìnhSửa đổi

Âm nhạc cung đình chỉ chính thức xuất hiện từ thời Lê Thái Tông. Giữa ý kiến của Nguyễn Trãi và Lương Đăng, vua Thái Tông chấp nhận ý kiến của Lương Đăng. Lương Đăng được lệnh thiết kế dàn nhạc khí để sử dụng trong những dịp lễ.

Bộ nhạc khí cung đình được Lương Đăng thiết kế mô phỏng theo cách của nhà Minh, gồm có[2]:

  • Trống cái
  • Bộ khánh có 16 chiếc khánh
  • Bộ chuông có 16 chiếc chuông
  • Đàn cầm
  • Đàn sắt
  • Sinh tiêu
  • Quản
  • Thược: Sáo ngắn, có 3 lỗ
  • Chúc: Đồ để gõ
  • Ngữ: Gõ bằng dùi
  • Huân: đồ nặn bằng đất, có lỗ để thổi
  • Trì: thổi hoà phối với huân
  • Phương hưởng: bộ 15 tấm kim loại, gõ bằng dùi đồng
  • Không hầu: loại đàn cổ
  • Đàn tì bà
  • Quản địch: sáo cổ, dài hơn 1 thước

Nổi tiếng nhất trong các bản nhạc cung đình thời Lê sơ là bản vũ "Bình Ngô phá trận".

Âm nhạc dân gianSửa đổi

Từ đầu thời Hậu Lê đến trước năm 1437, hát chèo vẫn được biểu diễn trong sinh hoạt cung đình. Từ năm 1437, khi âm nhạc cung đình của Lương Đăng chính thức được áp dụng thì Lê Thái Tông ra lệnh bãi bỏ trò hát chèo và thôi không tấu các loại nhạc thông tục dân gian - những loại nhạc này bị triều đình gọi là "dâm nhạc"[3].

Tuy ra khỏi cung đình, hát chèo vẫn là thể loại âm nhạc phổ cập nhất trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân thời Lê sơ. Nhà Lê đã có những chính sách quy định khắc nghiệt với người chuyên làm nghề ca xướng như[3]:

  • Không cho con nhà ca xướng đi thi;
  • Con gái nhà ca xướng không được lấy con nhà quan;
  • Nếu quan chức lấy con nhà ca xướng thì sẽ bị đánh gậy và giáng chức;
  • Con cháu nhà quan lại lấy con nhà ca xướng sẽ bị đánh và bị buộc phải ly hôn

Xem thêmSửa đổi

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nghệ thuật Việt Nam thời Lê sơ.
  • Nhà Hậu Lê
  • Nhà Lê sơ
  • Nghệ thuật Đại Việt thời Trần
  • Nghệ thuật Đại Việt thời Mạc
  • Chèo
  • Văn hóa Lê-Mạc

Tham khảoSửa đổi

  • Viện sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Khoa học xã hội

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ a b Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 367
  2. ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 372
  3. ^ a b Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 373

Từ khóa » Nghệ Thuật điêu Khắc Thời Lê