Điều Kì Diệu ở Phòng Giam Số 7 – Wikipedia Tiếng Việt

Điều kì diệu ở phòng giam số 7
Áp phích phát hành quốc tế
Hangul7번방의 선물
Hanja7番房의 膳物
Romaja quốc ngữChilbeonbangui Seonmul
McCune–ReischauerCh‘ilpŏnbang ŭi Sŏnmull
Đạo diễnLee Hwan-kyung
Tác giảLee Hwan-kyung Yu Young-a Kim Hwang-sung Kim Young-seok
Sản xuấtKim Min-ki Lee Sang-hun
Diễn viênRyu Seung-ryong Kal So-won Park Shin-hye
Quay phimKang Seung-gi
Dựng phimChoi Jae-geun Kim So-yeon
Âm nhạcLee Dong-jun
Hãng sản xuấtFineworks/CL Entertainment
Phát hànhNext Entertainment World
Công chiếu
  • 23 tháng 1 năm 2013 (2013-01-23)
Thời lượng127 phút
Quốc giaHàn Quốc
Ngôn ngữTiếng Hàn
Doanh thu80,3 triệu đô la Mỹ[1]

Điều kì diệu ở phòng giam số 7 (tiếng Hàn: 7 번방 의 선물; RR: 7beonbangui Seonmul; lit. "Một món quà từ phòng giam số 7") là một bộ phim Hàn Quốc năm 2013 với sự tham gia của Ryu Seung-ryong, Kal So-won và Park Shin-hye. Bộ phim là một câu chuyện ấm áp dành cho gia đình, kể về một người đàn ông tâm thần không ổn định bị kết tội oan là sát nhân và phải ở tù, anh ta đã xây dựng tình bạn với những tên tội phạm vô cảm trong phòng giam của ông, và ngược lại họ giúp ông gặp lại con gái mình bằng cách lén lút đưa cô bé vào tù.. [2][3][4]

Tựa đề làm việc ban đầu của bộ phim là 23 tháng 12 (Tiếng Hàn: 12 월 23 일)[5][6]

Cốt truyện

[sửa | sửa mã nguồn]

Lee Yong-go là một người cha bị thiểu năng của một đứa trẻ sáu tuổi, sống trong một ngôi nhà xuống cấp cùng với con gái Ye-seung. Một ngày nọ, anh gặp rắc rối với một ủy viên cảnh sát, người vừa mới mua chiếc cặp hình thủy thủ mặt trăng cuối cùng cho con gái mình. Đó là món quà mà Yong-go đã cố tiết kiệm tiền để mua được cho Ye-seung. Ngay sau đó, con gái của ủy viên cảnh sát chết trong một tai nạn kỳ lạ, trong đó cô bé trượt trên băng và bị một đòn chí tử ở phía sau đầu trong khi cô đang đưa Yong-go đi đến một cửa hàng khác bán chiếc ba lô tương tự. Khi anh đang cố gắng cứu cô bé, một người phụ nữ chứng kiến và hiểu lầm anh đang quấy rối cô bé. Yong-go bị cáo buộc oan về việc bắt cóc, giết người và hãm hiếp trẻ vị thành niên. Cảnh sát nhanh chóng lợi dụng tinh trạng khuyết tật của anh và buộc anh phải thừa nhận tội ác, trong khi bỏ qua bằng chứng miễn tội cho anh. Yong-go bị giam giữ và chuyển vào phòng giam số 7, phòng giam khắc nghiệt nhất trong một nhà tù an ninh tối đa.

Lúc đầu, những người đàn ông khác trong phòng giam, do So Yang-ho lãnh đạo, đã đối xử tệ với Yong-go sau khi đọc trong hồ sơ của anh vì nghĩ rằng anh đã sát hại và quấy rối một đứa trẻ. Tuy nhiên, khi Yong-go cứu Yang-ho khỏi cuộc tấn công bởi một băng nhóm đối thủ, Yang-ho trả ơn bằng cách lén gửi Ye-seung vào phòng giam số 7. Các tù nhân số 7 từ từ kết bạn với Yong-go và tin rằng rằng anh ta là một người đàn ông tốt, chỉ là anh đã ở sai chỗ và sai thời điểm. Họ giúp Yong-go luyện tập cho phiên tòa của anh. Cuối cùng ngay cả người đứng đầu nhà tù, Jang Min-hwan, người ban đầu rất khắc nghiệt với Yong-go cũng dịu đi khi sau khi được Yong-go cứu thoát khỏi một trận hỏa hoạn, nhận ra rằng Yong-go chỉ đơn thuần là bị dồn ép phải nhận tội. Anh ta nhận chăm sóc cho Ye-seung và cho phép cô ấy đến thăm cha cô mỗi buổi chiều.

Tuy nhiên, ủy viên cảnh sát đe dọa Yong-go rằng Ye-seung sẽ không được an toàn nếu anh không thú nhận "tội lỗi" của mình trong phiên tòa và nhận án tử hình. Cuối cùng anh ta đã hy sinh bản thân, lãnh án tử hình vào ngày 23 tháng 12, trùng vào ngày sinh nhật của Ye-seung. Trước ngày đó, những người bạn trong tù của Yong-go đã làm một khinh khí cầu để Yong-go và Ye-seung có thể ngắm cảnh hoàng hôn cùng nhau lần cuối cùng.

Nhiều năm sau khi án tử của Yong-go được thực hiện, Ye-seung,người được Min-hwan nhận nuôi, đã trở thành một luật sư. Cô tập hợp những người bạn cũ ở trong tù của cha mình, tất cả những người đó đã được thả, để làm chứng cho cuộc tái thẩm cuối cùng. Cuộc tái thẩm đó thành công và Yong-go được xóa tội. Sau đó cô đến thăm phòng giam số 7 và hồi tưởng về chuyến đi trên khinh khí cầu của họ.

Diễn viên

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ryu Seung-ryong vai Lee Yong-gu 
  • Kal So-won vai Ye-sung (Con) 
  • Park Shin-hye vai Ye-sung (Người lớn) 
  • Oh Dal-su vai So Yang-ho 
  • Jung Jin-young vai Jang Min-hwan 
  • Park Won-sang vai Choi Chun-ho
  • Kim Jung-tae vai Kang Man-beom 
  • Jung Man-sik vai Shin Bong-shik 
  • Kim Ki-cheon vai ông già Da-do

Doanh thu phòng vé

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ phim đã thu hút 4,6 triệu người (tương đương hơn 30 triệu đô la Mỹ) trong hai tuần đầu tiên do sức mạnh của truyền miệng. Bất chấp việc công chiếu của The Berlin File, bộ phim đã thu hút thêm 15% khán giả vào tuần thứ ba công chiếu, với đặt chỗ 75,8%.[7][8][9] 32 ngày sau khi công chiếu, nó đã trở thành bộ phim thứ tám trong lịch sử điện ảnh Hàn Quốc phá vỡ mốc 10 triệu trong doanh số bán vé.[10][11][12][13] Điều này đặc biệt đáng chú ý vì Miracle in Cell No. 7 không có ngôi sao lớn và ngân sách khiêm tốn với 1,7 triệu lượt truy cập, khiến lợi nhuận cuối cùng cao nhất trong số các phim đạt 10 triệu.[14]

Bộ phim đã vượt quá 12 triệu người xem sau 46 ngày công chiếu.[15][16] Vào ngày 15 tháng 3 năm 2013, 52 ngày sau khi công chiếu, doanh số bán vé đạt 12,32 triệu, khiến nó trở thành bộ phim Hàn Quốc có doanh thu cao thứ năm mọi thời đại.[17][18][19]

Các nhà phân tích cho rằng trong số những lý do cho sự thành công của nó là kỳ nghỉ Tết âm lịch và các gia đình sẽ xem phim theo nhóm. Bộ phim được chứng minh là đặc biệt phổ biến trong số những người Hàn Quốc ở độ tuổi trung niên và cao tuổi.

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Giải thưởng Hạng mục Ứng cử viên Kết quả
Giải thưởng nghệ thuật Beaksang lần thứ 49[20][21] Bộ phim hay nhất Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7 Đề cử
Nam diễn viên xuất sắc nhất Ryu Seung-ryong Đề cử
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất Oh Dal-su Đề cử
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Park Shin-hye Đề cử
Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất Kal So-won Đề cử
Kịch bản xuất sắc nhất Lee Hwan-kyung, Kim Hwang-sung, Kim Young-seok Đề cử
Bộ phim danh giá nhất Ryu Seung-ryong Đoạt giải
Nữ diễn viên được yêu thích nhất Park Shin-hye Đoạt giải
Giải Bình chọn Mnet 20's lần thứ 7 Ngôi sao điện ảnh 20's - nam Ryu Seung-ryong Đoạt giải
Ngôi sao điện ảnh 20's - nữ Park Shin-hye Đề cử
Giải Điện ảnh lần thứ 22 Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất Kal So-won Đề cử
Giải Đại Chung lần thứ 50 Nam diễn viên xuất sắc nhất Ryu Seung-ryong Đoạt giải
Kịch bản xuất sắc nhất Lee Hwan-kyung Đoạt giải
Đội ngũ xuất sắc nhất Lee Hwan-kyung, Kim Min-ki, Kim Min-guk Đoạt giải
Giải thưởng do ban giám khảo bình chọn Kal So-won Đoạt giải
Đạo diễn xuất sắc nhất Lee Hwan-kyung Đề cử
Nữ diễn viên xuất sắc nhất Kal So-won Đề cử
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất Oh Dal-su Đề cử
Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất Kal So-won Đề cử
Kĩ thuật xuất sắc nhất Kang Seung-gi Đề cử
Biên tập xuất sắc nhất Choi Jae-geun, Kim So-yeon Đề cử
Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất Lee Hoo-gyoung Đề cử
Đạo diễn ánh sáng xuất sắc nhất Kang Sung-hoon Đề cử
Thiết kế trang phục xuất sắc nhất Kim Na-yeon Đề cử
Nhạc phim xuất sắc nhát Lee Dong-jun Đề cử
Giải Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 34 Bộ phim được yêu thích nhất Miracle in Cell No. 7 Đoạt giải
Nam diễn viên xuất sắc nhất Ryu Seung-ryong Đề cử
Kịch bản xuất sắc nhất Lee Hwan-kyung Đề cử
Nhạc phim xuất sắc nhất Lee Dong-jun Đề cử
Giải thưởng Văn hóa và Nghệ thuật Hàn Quốc lần thứ 21 Giải thưởng danh giá Ryu Seung-ryong Đoạt giải
Giải thưởng danh giá Nam diễn viên xuất sắc nhất Oh Dal-su Đoạt giải
Lên hoan phim vàng lần thứ 34 năm 2014 Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất Oh Dal-su Đoạt giải
Giải phê bình phim của Hội đồng phim Hàn Quốc lần thứ 33 Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Park Shin-hye Đoạt giải

Phiên bản làm lại

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ phim đã được chuyển thể thành phim Kannada vào năm 2017 dưới tựa đề Pushpaka Vimana. Kross Pictures đã hợp tác với hãng phim Ấn Độ để làm lại bộ phim bằng tiếng Hindi và sẽ được đạo diễn bởi Umesh Shukla

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Miracle in Cell No. 7 Box Office Gross”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2013.
  2. ^ Park, Eun-jee (28 tháng 12 năm 2012). “Two heartwarming films for when you can't feel your toes”. Korea JoongAng Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2012.
  3. ^ Jang, Sung-ran (18 tháng 1 năm 2013). “MIRACLE IN CELL NO.7 to Screen in 4 Languages”. Korean Film Council. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2013.
  4. ^ Conran, Pierce (30 tháng 1 năm 2013). “In Focus: Miracle in Cell No. 7”. Korean Film Council. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  5. ^ Ho, Stewart (1 tháng 6 năm 2012). “Park Shin Hye to Make Her Return to the Big Screen After Two Years”. enewsWorld. CJ E&M. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  6. ^ Lee, Tae-ho (18 tháng 10 năm 2012). “Park Shin-hye, Ryoo Seung-ryong's New Film Wraps Up Shooting”. 10Asia. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  7. ^ Hong, Grace Danbi (4 tháng 2 năm 2013). “'The Gift of Room 7' Breaks 4 Million Views in 12 Days”. enewsWorld. CJ E&M. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2013.[liên kết hỏng]
  8. ^ Kim, Hyun-min (5 tháng 2 năm 2013). “THE BERLIN FILE is No. 1 in First Week of Release; MIRACLE IN CELL NO. 7 Also Performing Well”. Korean Film Council. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2013.
  9. ^ Paquet, Darcy (7 tháng 2 năm 2013). “Box Office: January 24-February 6, 2013”. Korean Film Council. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2013.
  10. ^ 'Miracle in Cell No. 7' Draws Over 10 Million Viewers”. The Chosun Ilbo. 25 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2013.
  11. ^ Moon, Gwang-lip (25 tháng 2 năm 2013). “Ryu Seung-ryong joins top actor club”. Korea JoongAng Daily. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2013.
  12. ^ 'Miracle in Cell No. 7' grabs 9 mil. viewers”. Yonhap. 18 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2013.
  13. ^ Conran, Pierce (25 tháng 2 năm 2013). “MIRACLE IN CELL NO. 7 Soars Past 10 Million Admissions”. Korean Film Council. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  14. ^ Ji, Yong-jin (26 tháng 2 năm 2013). “Mighty Start, Bright Prospect”. Korean Film Council. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2013.
  15. ^ Lee, Eun-sun (6 tháng 3 năm 2013). “MIRACLE IN CELL NO. 7 Is 5th Most Popular Korean Film”. Korean Film Council. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2013.
  16. ^ 'Miracle in Cell No. 7' exceeds 12 million mark”. The Korea Herald. 11 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2013.
  17. ^ 'Miracle in Cell No. 7' third most-viewed Korean film”. Yonhap. 15 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2013.
  18. ^ 'Miracle in Cell No. 7' third most-viewed Korean film”. The Korea Herald. 15 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2013.
  19. ^ Ji, Yong-jin (19 tháng 3 năm 2013). “MIRACLE IN CELL NO. 7 Passes MASQUERADE to Become 3rd Most Successful Korean Film”. Korean Film Council. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2013.
  20. ^ Hicap, Jonathan M. (5 tháng 4 năm 2013). “49th Baeksang Arts Awards nominees revealed”. Manila Bulletin. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2013.
  21. ^ Ji, Yong-jin (13 tháng 5 năm 2013). “RYU Seung-ryong Wins Grand Prize at Baeksang Arts Awards”. Korean Film Council. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Trang web chính thức (tiếng Hàn)
  • Miracle in Cell No. 7 tại HanCinema
  • Miracle in Cell No. 7 tại Cơ sở dữ liệu phim Hàn Quốc 
  • Miracle in Cell No. 7 trên IMDb

Từ khóa » điều Kỳ Diệu ở Phòng Giam Số 7 Imdb