Điều Trị HIV Bằng Thuốc ARV để Dự Phòng Lây Truyền HIV
Có thể bạn quan tâm
Sự ra đời của loại thuốc kháng HIV đầu tiên AZT hay Azidothymidine là loại thuốc điều trị HIV đầu tiên trên thế giới. AZT ban đầu được một nhà nghiên cứu người Mỹ phát triển vào năm 1960 để điều trị ung thư. Nó hoạt động bằng cách chèn vào DNA của tế bào ung thư, gây rối loạn khả năng tái tạo và sản xuất các khối u. AZT là loại thuốc điều trị HIV đầu tiên được thông qua Phải đến hai thập kỷ sau khi sử dụng điều trị ung thư, khi HIV xuất hiện như loại bệnh truyền nhiễm mới, công ty dược phẩm Burroughs Wellcome (BW) bắt đầu tiến hành thử nghiệm một số các thuốc chống ung thư để đánh giá xem nó có tác dụng với HIV để hy vọng tìm thuốc đó có thể chống lại kẻ thù mới này. Trong số những thứ được thử nghiệm có hợp chất S, một phiên bản tái tạo của AZT gốc và kết quả cho thấy nó dường như có tác dụng chặn sự hoạt động của vi rút HIV. Các nhà khoa học bắt đầu tiêm AZT vào bệnh nhân với mục đích ban đầu là để xem liệu nó có an toàn hay không và sử dụng cả với nhóm đối chứng. Sau 16 tuần, công ty BW thông báo họ dừng thử nghiệm vì đã có bằng chứng mạnh mẽ hợp chất này có tác dụng kiểm soát HIV và giảm nguy cơ tử vong. Nhóm sử dụng thuốc chỉ có một ca tử vong, trong khi nhóm chứng có tới 19 người tử vong chỉ trong thời gian ngắn. Công ty cho rằng nếu tiếp tục thử nghiệm sẽ không có đạo đức trong y học. Kết quả về tác dụng của AZT được xem là "bước đột phá" và "ánh sáng ở cuối đường hầm" của công ty BW. Điều này khiến FDA chấp thuận thông qua loại thuốc chống AIDS đầu tiên vào ngày 19/3/1987. Sử dụng thuốc ARV để điều trị cho người nhiễm HIV Ngày nay, nếu một người nào đó được chẩn đoán nhiễm HIV, họ có thể lựa chọn phối hợp để điều trị bằng một trong số 41 loại thuốc ARV. Các thuốc điều trị HIV khác nhau được nghiên cứu giúp ngăn chặn vi rút tại các thời điểm khác nhau trong vòng đời của nó. Sử dụng kết hợp, chúng sẽ giúp kiểm soát HIV, làm giảm khả năng sinh sản và lây nhiễm của vi rút, giúp kiểm soát lượng vi rút HIV ở mức thấp nhất khi người bệnh tuân thủ điều trị. Khi điều trị cho người nhiễm HIV luôn kết hợp 3 loại thuốc khác nhau. Với người đã được chẩn đoán nhiễm HIV, sử dụng thuốc ARV và tuân thủ điều trị tốt sẽ có tác dụng: • Giảm nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội và tử vong liên quan tới HIV: Thuốc ARV ngăn chặn sự nhân lên của vi rút. Do đó duy trì được tình trạng bình thường của hệ miễn dịch, do vậy giảm nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội và giảm tử vong liên quan đến HIV. • Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con: Khi phụ nữ mang thai được điều trị ARV sớm, HIV trong máu sẽ bị ức chế ở mức thấp, do vậy giảm nguy cơ lây truyền HIV từ mẹ sang con trong quá trình mang thai, khi sinh và sau khi sinh. • Cải thiện chất lượng sống cho người nhiễm HIV: Khi được điều trị ARV, người nhiễm HIV có thể sống khỏe mạnh, làm việc như người không nhiễm HIV và tự tin sống hòa nhập với cộng đồng. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, người nhiễm HIV được điều trị ARV sớm và duy trì điều trị tốt cũng có tuổi thọ tương đương người không nhiễm HIV. Với các bằng chứng về lợi ích của điều trị sớm ARV đối với giảm mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội, giảm nguy cơ tử vong và tăng tuổi thọ cũng như chất lượng sống của người nhiễm HIV nên ARV được khuyến cáo sử dụng sớm cho người nhiễm HIV. Hiện nay tất cả các trường hợp được chẩn đoán nhiễm HIV đều được điều trị ARV ngay khi phát hiện. Điều trị ARV sớm để hệ miễn dịch của người nhiễm HIV không bị phá hủy bởi HIV. Điều trị càng sớm càng tốt ngay khi biết nhiễm HIV kể cả khi thấy còn rất mạnh khỏe. Mặc dù lợi ích của ARV là rất to lớn nhưng hiện nay rất nhiều người nhiễm HIV chỉ đến các cơ sở y tế để điều trị HIV khi sức khỏe đã bị suy giảm hoặc mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Như vậy là đã muộn hoặc quá muộn. Hầu hết người nhiễm HIV điều trị ARV muộn do tâm lý chủ quan, họ thường thấy mình còn khỏe. Một số người lo sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử nên không muốn bộc lộ danh tính và ngại tiếp cận với các dịch vụ y tế. Khi người nhiễm HIV điều trị muộn hoặc không điều trị ARV sẽ không ức chế được sự phát triển của HIV, khi đó hệ thống miễn dịch suy giảm, người nhiễm HIV sẽ nhanh chóng chuyển sang giai đoạn AIDS, dễ mắc các nhiễm trùng cơ hội nặng, đặc biệt là mắc bệnh lao, làm cho việc điều trị ARV ít hiệu quả và nguy cơ tử vong cao. Sử dụng thuốc ARV để dự phòng lây nhiễm HIV Việc sử dụng thuốc kháng vi rút điều trị cho những người nhiễm HIV để tránh làm lây truyền HIV sang người chưa nhiễm HIV mới chỉ được các nhà khoa học phát hiện ra trong những năm gần đây. Khi nghiên cứu trên hàng ngàn người nhiễm HIV cả ở những người có quan hệ tình dục đồng giới hay khác giới, quan hệ tình dục đường hậu môn hay âm đạo, người ta nhận thấy, những người nhiễm HIV khi đã điều trị bằng thuốc ARV và đạt tải lượng vi rút dưới ngưỡng phát hiện (< 200 bản sao/ml máu) sẽ không làm lây truyền cho người khác qua quan hệ tình dục hay thường gọi là đạt trạng thái K=K. K=K được viết tắt từ cụm từ Không phát hiện = Không lây truyền có nghĩa là: Khi một người nhiễm HIV được điều trị ARV mà đạt đến mức ức chế vi rút dưới ngưỡng phát hiện, nghĩa là tải lượng HIV dưới 200 bản sao/ml máu, sẽ không lây truyền HIV cho người khác qua đường tình dục. Như vậy muốn dự phòng để không làm lây truyền HIV từ người nhiễm HIV sang người khác, người nhiễm HIV cần điều trị sớm, tốt nhất là ngay khi được chẩn đoán nhiễm HIV và tuân thủ điều trị để đạt được K=K. Khi đạt được và duy trì tải lượng vi rút dưới ngưỡng phát hiện sẽ thực sự không lây truyền HIV qua đường tình dục cho bạn tình chưa nhiễm HIV của họ.
Vậy một người nhiễm HIV điều trị bằng ARV sau bao lâu đạt tải lượng vi rút dưới ngưỡng phát hiện?
Hầu hết mọi người nhiễm HIV điều trị bằng ARV nếu tuân thủ điều trị tốt sẽ đạt được tải lượng vi rút dưới ngưỡng phát hiện sau từ 3 đến 6 tháng điều trị. Để biết sau khi điều trị bằng ARV có được tải lượng vi rút dưới ngưỡng phát hiện hay chưa cần phải xét nghiệm tải lượng vi rút định kỳ. Người nhiễm HIV khi điều trị ARV năm đầu tiên xét nghiệm tải lượng vi rút 2 lần (6 tháng 1 lần). Sau đó xét nghiệm tải lượng vi rút 12 tháng 1 lần. Xét nghiệm tải lượng vi rút định kỳ là rất cần thiết, không chỉ giúp để biết một người có đạt được tải lượng vi rút dưới ngưỡng phát hiện hay không mà còn giúp theo dõi hiệu quả điều trị. Do vậy người nhiễm HIV cần phải biết tải lượng vi rút của mình trong khi điều trị bằng thuốc ARV. Để đạt được tải lượng vi rút dưới ngưỡng phát hiện thì tuân thủ điều trị ARV là điều kiện quyết định để đạt tải lượng vi rút dưới ngưỡng phát hiện. Tuân thủ điều trị là sử dụng đúng thuốc, đúng liều, đúng giờ, đúng đường và đúng cách. Đúng thuốc nghĩa là không uống nhầm thuốc, trong trường hợp phải uống nhiều loại thuốc. Đúng liều là uống đủ số lượng mà thầy thuốc đã chỉ định, đúng số viên (liều) một ngày. Đúng giờ là uống vào cùng một thời điểm nhất định trong ngày phù hợp với từng người bệnh. Việc thực hiện uống thuốc đúng giờ nhằm đảm bảo duy trì nồng độ thuốc cần thiết trong máu. Đúng đường là chỉ sử dụng đường uống, hiện nay ARV ở Việt Nam chỉ sử dụng qua đường uống. Đúng cách là tuân thủ đúng theo lời dặn của bác sĩ như uống thuốc trước ăn hoặc sau ăn. Tuân thủ điều trị tốt sẽ làm tăng hiệu quả của thuốc. Để kiềm chế được vi rút không phát triển, do vậy cần uống thuốc theo đúng hướng dẫn của thầy thuốc. Tuân thủ điều trị không tốt hoặc không tuân thủ điều trị dẫn đến kháng thuốc, thất bại điều trị và tử vong. Để tăng mức độ tuân thủ điều trị, ngoài việc lựa chọn giờ uống thuốc phù hợp cho mình, người nhiễm HIV có thể sử dụng các biện pháp hỗ trợ như: nhờ người nhắc uống thuốc, hẹn giờ bằng đồng hồ hoặc điện thoại, ghi lịch hằng ngày. Sử dụng đồng hồ hay điện thoại báo thức để nhắc uống thuốc đúng giờ giúp tuân thủ điều trị tốt hơn
Cần lưu ý, “Không phát hiện = Không lây truyền” chỉ áp dụng phòng lây nhiễm HIV qua đường tình dục. Việc duy trì tải lượng HIV dưới ngưỡng phát hiện sẽ không làm lây truyền HIV sang bạn tình qua quan hệ tình dục. K=K không áp dụng đối với đường lây truyền từ mẹ sang con. Tuy nhiên, nếu duy trì tải lượng HIV dưới ngưỡng phát hiện cũng sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ lây truyền HIV từ mẹ sang con trong khi mang thai, khi sinh con hoặc khi cho con bú bằng sữa mẹ. K=K cũng không áp dụng cho đối với lây truyền HIV qua đường máu. Do vậy không sử dụng chung bơm kim tiêm khi tiêm chích, sử dụng các biện pháp an toàn khi tiếp xúc với máu để tránh bị lây nhiễm HIV.
Sử dụng kết hợp đồng thời bao cao su thường xuyên đúng cách sẽ tăng hiệu quả phòng lây nhiễm HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác K=K cũng không áp dụng cho các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác: Ngay cả khi một người đạt được tải lượng vi rút dưới ngưỡng phát hiện cũng không phòng được các bệnh lây truyền qua đường tình dục như lậu, giang mai, sùi mào gà v.v… Do vậy vẫn cần sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục ngay cả khi đã đạt dược tải lượng vi rút HIV dưới ngưỡng pháy hiện để dự phòng các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Từ khóa » Thời Gian điều Trị Thuốc Kháng Virus Hiv Gdcd 8
-
Điều Trị HIV Bằng Thuốc Kháng Vi Rút - Phòng Chống HIV/AIDS
-
Thời Gian điều Trị Thuốc Kháng Vi Rút HIV/AIDS Là Bao Lâu? - Khóa Học
-
Thời Gian điều Trị Thuốc Kháng Vi Rút HIV/AIDS Bao Lâu? - HOC247
-
Thời Gian điều Trị Thuốc Kháng Vi Rút HIV/AIDS Bao Lâu? - Đọc Tài Liệu
-
Thời Gian điều Trị Thuốc Kháng Virus HIV/AIDS Bao Lâu GDCD 8
-
Thời Gian điều Trị Thuốc Kháng Vi Rút Hiv/aids Bao Lâu Gdcd 8
-
Thời Gian điều Trị Thuốc Kháng Vi Rút HIV/AIDS Bao Lâu?
-
Thời Gian điều Trị Thuốc Kháng Virus HIV AIDS Bao Nhiêu Lâu A: 10 ...
-
Lý Thuyết GDCD Lớp 8 Bài 14: Phòng Chống Nhiễm HIV/AIDS
-
Thời Gian điều Trị Thuốc Kháng Vi Rút HIV/AIDS Bao Lâu? - CungHocVui
-
Điều Trị Bằng Thuốc ARV - Dự Phòng Lây Nhiễm HIV
-
Trắc Nghiệm Công Dân 8 Bài 14: Phòng, Chống Nhiễm HIV/AIDS