Đình Làng Đà Nẵng - Bài 1: Nơi Lưu Giữ Giá Trị Lịch Sử, Văn Hóa Dân Tộc
Có thể bạn quan tâm
Chùm bài giới thiệu sự hình thành và phát triển của đình làng Đà Nẵng qua các thời kỳ, dấu ấn lịch sử, giá trị về kiến trúc văn hóa nghệ thuật của các đình làng và việc quản lý trùng tu, phục hồi các di tích văn hóa đình làng đang được chính quyền và người dân thành phố rất quan tâm.
Cùng với đó, chùm bài viết đề cập đến việc phát huy các giá trị của di tích trong tình hình mới, kết hợp khôi phục lại ngành du lịch của thành phố, qua đó góp phần khẳng định bản sắc văn hóa của mảnh đất và con người Đà Nẵng văn minh, hiện đại. Đà Nẵng đang từng bước khẳng định vai trò là đô thị lớn, đầu tàu, động lực phát triển, trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung - Tây Nguyên và của cả nước.
Bài 1: Đình làng - sản phẩm của lịch sử, văn hóa
Hình ảnh cây đa, bến nước, ngôi đình đã đi vào tâm thức của các thế hệ người Việt Nam và lưu lại như một giá trị văn hóa không thể phai mờ. Trong đó, đình làng là một thiết chế văn hóa cổ truyền của người Việt; là nơi sinh hoạt văn hóa, hội họp, nơi dân làng gửi gắm niềm tin, ước vọng về một cuộc sống tốt đẹp trong tương lai, thông qua các hình thức tín ngưỡng – lễ hội đầy màu sắc và thấm đẫm tính nhân văn.
Dấu ấn đình làng Đà Nẵng
Theo sử sách, khoảng nửa sau thế kỷ XV, cụ thể là đời Hồng Đức (1470-1497), đình làng mới được xây dựng phổ biến. Đây cũng là giai đoạn có sự chuyển biến mạnh mẽ, đình nhận thêm một chức năng mới, từ một ngôi nhà để dừng chân (đình trạm), sinh hoạt cộng đồng trở thành nơi thờ thần, trung tâm tín ngưỡng của cộng đồng làng. Đình làng cũng là nơi lưu giữ các sắc phong - căn cứ xác tín để nghiên cứu quá trình thay đổi địa danh/địa giới hành chính của từng địa phương qua các thời kỳ lịch sử, bởi trong mỗi đạo sắc phong, niên đại ban sắc được ghi ở cuối văn bản gồm niên đại triều vua ban sắc, tháng ngày ban sắc rất chính xác.
Giám đốc Bảo tàng Đà Nẵng, Huỳnh Đình Quốc Thiện cho biết, qua thống kê sơ bộ, thành phố Đà Nẵng hiện nay có khoảng 80 đình làng. Về niên đại, không thể xác định chính xác đình làng xuất hiện ở Đà Nẵng từ khi nào, những đình làng hiện còn lại ở Đà Nẵng đến nay có thể được xây dựng từ giữa thế kỉ XIX.
Thành phố Đà Nẵng có bốn ngôi đình được coi là có niên đại sớm nhất có từ thời Thiệu Trị (1841-1847) đến giữa thời Tự Đức (1848-1883) gồm, đình Phước Thuận, đình Dương Lâm, đình Bồ Bản (huyện Hòa Vang) và đình Phong Lệ Bắc (quận Cẩm Lệ). Tuy nhiên, chỉ có đình Phong Lệ Bắc được dựng vào tháng tư năm Ất Mão, Tự Đức thứ 8 (1855) và đình Dương Lâm dựng vào tháng bảy năm Bính Dần, Tự Đức thứ 19 (1866) là có những niên đại chính xác được ghi trên xà cò (nơi để khắc các niên đại xây dựng và sửa chữa đình). Đình Phước Thuận có niên đại năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) và đình Bồ Bản có niên đại năm Tự Đức thứ 5 (1852) được xác định theo các cứ liệu chữ khắc trên xà cò và văn bia kết hợp với khảo chứng từ những lưu truyền dân gian và quy mô, kiểu thức kiến trúc và điêu khắc trang trí.
Nhiều đình làng ở Đà Nẵng còn lưu giữ nhiều hoành phi, liễn đối có niên đại từ nửa đầu thế kỷ XIX như đình Hải Châu là bức hoành với bốn chữ Hán “Vạn cổ anh linh” tạo năm Gia Long thứ 17 (1818); đình làng An Hải có Bia Kỷ công xã An Hải (1853) và nhiều sắc phong của các vua Nguyễn từ Minh Mạng đến Bảo Đại như ở đình Túy Loan có sắc Minh Mạng thứ 7 (1826), đình Phú Hạ có sắc Minh Mạng thứ 3 (1822) và Đại La có sắc Minh Mạng thứ 2 (1821)…
Đặc sắc về kiến trúc văn hóa nghệ thuật
Trong tâm thức dân gian, thế đất, hướng đình luôn có ảnh hưởng to lớn đến sự suy thịnh, hưng vong của cuộc sống dân làng nơi trần thế. Đình có thế đất tốt, hướng đẹp thì sinh vượng khí, cuộc sống tốt tươi, trên dưới thuận hòa, học hành đỗ đạt; ngược lại thì dân làng phải hứng chịu tai ương, đôi khi suy mạt. Do đó, việc lựa chọn đất để xây dựng đình làng, đối với người dân là hết sức quan trọng.
Cộng đồng dân làng nơi xây dựng đình luôn tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc về dịch lý và thuật phong thủy. Dân làng phải tìm cho được những mảnh đất có thế rồng chầu hổ phục, có sông nước, núi đồi làm yếu tố “minh đường, hậu chẩm”, “thủy tụ, sơn triều” để cất đình.
Đa phần đình làng Đà Nẵng thường ở không gần khu dân sinh, có thế đất cao và thoáng. Đó có thể là những doi, cồn đất cao giữa cánh đồng ruộng thấp trũng như đình Lỗ Giáng, đình Tùng Lâm (phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ) đình Phú Hòa (xã Hòa Nhơn), đình Bồ Bản (xã Hòa Phong) thuộc huyện Hòa Vang, đình Mân Quang (phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn); hoặc trên những gò đồi ở vùng bán sơn địa như đình Khe Lâm, đình Xuân Lộc, đình Đại La (xã Hòa Sơn, huyện Hòa Vang).
Từ khóa » Giới Thiệu Di Tích Lịch Sử đà Nẵng
-
Khám Phá đình Đại Nam Đà Nẵng – Dấu ấn Mái đình Làng Việt Xưa
-
Di Tích Lịch Sử ở Đà Nẵng - .vn
-
Thắng Cảnh Và Di Tích - UBND Thành Phố Đà Nẵng
-
Nơi Lưu Giữ Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Thành Phố
-
Di Tích Cấp Quốc Gia - Đà Nẵng
-
Điểm Tên Các Di Tích Lịch Sử Tại Đà Nẵng - AloTrip
-
2 địa điểm Du Lịch Di Tích Lịch Sử Tại Thành Phố Đà Nẵng
-
Đà Nẵng: Khai Thác Giá Trị Di Tích Văn Hóa, Lịch Sử
-
Tăng Cường Quản Lý Hoạt động Bảo Quản, Tu Bổ Phục Hồi Di Tích Lịch ...
-
Báo Chí Với Việc Bảo Tồn Di Sản Văn Hóa, Di Tích Lịch Sử ở Đà Nẵng
-
Một Số Vấn đề Về Bảo Tồn Và Phát Huy Giá Trị Di Sản Văn Hóa Dân Tộc ...
-
Ngũ Hành Sơn Đà Nẵng: Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Cấp Quốc Gia.
-
Đà Nẵng – Wikipedia Tiếng Việt
-
Lịch Sử Đà Nẵng ❤️️ Quá Trình Hình Thành, Các Di Tích Đầy Đủ