«đô Thị Hóa» Hay «nông Thôn Hóa» — Một Vài Cảm Nghĩ Về Phát Triển ...

«đô thị hóa» hay «nông thôn hóa» — một vài cảm nghĩ về phát triển nông nghiệp đô thị.

Posted by phamanhphuong on 07.05.2012 · Добавить комментарий

Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay, đô thị hóa là một quá trình tất yếu khách quan. Đô thị hóa trong điều kiện tiền công nghiệp hóa ít gắn với các yếu tố nội tại làm động lực cho kinh tế đô thị đã làm trầm trọng thêm các khó khăn lớn của các đô thị như: Một bộ phận lao động trong nông nghiệp mất đất sản xuất, trở nên thiếu công ăn việc làm; một bộ phận dân cư từ nông thôn chuyển về đô thị để làm việc, làm gia tăng nhu cầu về lương thực, thực phẩm, vấn đề vệ sinh môi trường đô thị cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng; sự ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước là điều không thể tránh khỏi… Đây là các yếu tố đe dọa sự phát triển nhanh và bền vững của các đô thị hiện nay. Trong rất nhiều các giải pháp thì phát triển nông nghiệp đô thị được xem như một hướng đi tối ưu có tính khả thi cao để giải quyết các bất cập liên quan trong tiến trình đô thị hoá, hướng tới xây dựng các đô thị sinh thái bền vững cho tương lai.

Làm thế nào để trên một diện tích đất nhỏ hẹp cho ra đời những sản phẩm chất lượng tốt, năng suất cao là mục tiêu mà mô hình nông nghiệp đô thị hướng đến. Muốn đạt mục tiêu này, theo nhiều chuyên gia, cần phải có một chiến lược phát triển nông nghiệp đô thị bền vững, chứ không đơn giản chỉ là cách làm tự phát, sáng tạo của người dân hiện nay. Đặc biệt, phải ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất.

urban agriculture

1. Nông nghiệp đô thị thế giới:

Từ cuối thế kỷ XX, nông nghiệp đô thị đã trở thành xu thế trong quá trình phát triển đô thị ở các quốc gia. Trên thế giới, gần 1/3 lượng rau, quả, thịt, trứng cung ứng cho đô thị là từ nông nghiệp đô thị, 25 — 75% số gia đình ở thành phố phát triển theo mô hình nông nghiệp đô thị. Ở Matxcơva (Nga), 65% gia đình có mô hình VAC đô thị, ở Dactxalam là 68%, Maputo 37%,… Tại Béclin (Đức), có 8 vạn mảnh vườn trồng rau ở đô thị; hàng vạn cư dân ở Niu Oóc (Hoa Kỳ) có vườn trồng rau trên sân thượng. Tại nhiều thành phố lớn của Trung Quốc như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu…, nông nghiệp đô thị cung cấp tới 85% nhu cầu về rau xanh, 50% về thịt trứng của người dân. Hai công ty chuyên bán hạt giống của Anh là Thompson Morgan và Suttons Seeds đều nhận định, trong 5 năm trở lại đây, người dân Anh ngày càng có xu hướng mua nhiều hạt giống để trồng rau quả ở vườn nhà. Nếu như trước đây, chỉ những người lớn tuổi có sở thích làm vườn mới thuê đất trồng rau, quả, thì nay tất cả mọi người, từ sinh viên cho tới những người trẻ tuổi bận rộn, đều muốn có một mảnh đất nhỏ để trồng các loại rau, quả mình yêu thích. Theo Tổ chức làm vườn quốc gia Hoa Kỳ, năm 2007, người dân Hoa Kỳ chi khoảng 1,4 tỷ USD cho việc trồng cây rau, quả tại nhà, tăng 25% so với năm 2006.

Romita Urban Garden.jpg

ua_01.jpg

Urban farmingand urban gardens are getting more and more known nowadays. 

Một số quốc gia điển hình về phát triển nông nghiệp đô thị hiện nay.

Tại Cu Ba phát triển mạnh mẽ nông nghiệp đô thị để cung ứng thực phẩm tươi sống tại chỗ cho cư dân đô thị, nhờ đó thủ đô Lahabana đã tự túc được đến 90% loại thực phẩm này. Năm 2008 có hơn 20 vạn thị dân Cu Ba làm việc trong ngành nông nghiệp đô thị sử dụng 140 km2 đất đô thị. Chương trình nông nghiệp đô thị của Cuba là một thành công ấn tượng. Các nông trại, trong đó nhiều nông trại nhỏ hiện là nguồn cung cấp phần lớn lượng rau cho Cuba. Các nông trại này cũng cung cấp khoảng 300.000 việc làm trên toàn Cuba với lương khá cao và làm thay đổi thói quen ăn uống ở một quốc gia vốn quen với chế độ ăn có gạo và đậu cùng các sản phẩm đóng hộp từ Đông Âu. Theo tổ chức FAO, ngày nay, người Cuba nạp vào cơ thể khoảng 3.547 calo/ngày — hơn cả lượng calo mà chính phủ Mỹ khuyến cáo công dân Mỹ. GS Catherine Murphy, một nhà xã hội học đã có hàng chục năm nghiên cứu về các nông trại ở Lahabana nhận xét: “Đây là một mô hình thú vị nếu xét rằng Cuba là quốc gia có gần 80% dân số sống ở đô thị. Điều này chứng tỏ các thành phố có thể tự sản xuất lương thực mà vẫn đảm bảo các lợi ích xã hội và môi trường”. Tại Cai Rô (Ai Cập) đầu thập kỷ 1990, một nhóm giáo sư nông nghiệp Trường Đại học Ain Shams phát triển phương pháp trồng rau trên sân thượng tại khu vực đô thị đông dân, mới đầu với quy mô nhỏ nhưng rồi được mở rộng nhanh sau khi có hậu thuẫn chính thức của Tổ chức Lương Nông (FAO) vào năm 2001.

caracas.jpg

Tại Mumbai (Ấn Độ) là một trong các thành phố có mật độ dân cao nhất thế giới, 48.215 người/km2. Trong bối cảnh thiếu đất, hiếm nước, đông người nghèo, Tiến sĩ Doshi đưa ra phương pháp làm vườn hữu cơ quy mô nhỏ trên ban công, thậm chí treo trên tường, trên cơ sở dùng bã mía trộn đất đựng trong túi nhựa hay trong các loại hộp, ống, lốp xe, để hộ dân có rau ăn tại gia và tăng thu nhập. Theo cách thức của ông, hộ gia đình có thể tự túc được 5kg rau quả mỗi ngày trong 300 ngày của năm.

urban agriculture

Ở Trung Quốc Nông nghiệp đô thị đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng thích nghi của các thành phố, giải quyết rất tốt các vấn đề do đô thị hóa quá nhanh gây ra cho các đô thị. Điều này sẽ được chứng minh qua ví dụ ở thủ đô Bắc Kinh và thành phố Thượng Hải. Nông nghiệp ven đô đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn lương thực sạch cho những người dân ở thủ đô Bắc Kinh. Trong năm 2010, tỷ lệ rau cung cấp cho thành phố Bắc Kinh là 55% và Thượng Hải là 50%. Do khoảng cách vận chuyển ngắn cũng làm giảm chi phí sản xuất lương thực. Giá rau được vận chuyển đến Bắc Kinh từ khu vực phía Nam Trung Quốc là cao do giá dầu cao. Đồng thời, giảm vận chuyển sẽ làm giảm phát thải CO2. Khi có thảm họa, việc tự cung cấp lương thực sạch rất quan trọng. Những không gian mở ở đô thị như đất nông nghiệp có thể được sử dụng làm nơi cấp cứu như điểm định cư tạm thời. Năm 2003, dịch SARS ở Bắc Kinh, các bệnh viện được đặt tạm thời tại những vùng ven đô, nơi mà các bệnh nhân được cung cấp thực phẩm sạch và an toàn. Năm 2008, sau thảm họa động đất ở Tứ Xuyên, hầu hết các lều tạm được dựng lên trong phạm vi rộng ở những khu đất nông nghiệp ven đô. Các sản phẩm từ nấm được sản xuất ở quận Fangshan, Bắc Kinh chiếm 56% tổng sản lượng nấm của thành phố. Quá trình sản xuất gồm tái chế chất thải nông nghiệp và đem lại lợi nhuận cho những người nông dân. Năm 2007, ở làng Miaoergang, lợi nhuận thu được từ sản xuất nấm trong một năm là 10,44 triệu nhân dân tệ và thu nhập trên đầu người ở quận đạt 10 595 nhân dân tệ, tương đương 1552 USD, trong khi thu nhập trung bình hàng năm theo đầu người ở khu vực ngoại ô Bắc Kinh là 9559 nhân dân tệ, tương đương 1400 USD.Trong năm 2005, có khoảng 3,6 triệu người dân di cư ở Bắc Kinh. Trong số những người dân này, hơn 600000 (17%) người được tham gia vào các hoạt động liên quan đến nông nghiệp đô thị. Các công việc này đã thu hút nhiều những dân di cư, họ là những nông dân có kinh nghiệm và bằng việc sử dụng các kỹ thuật tiên tiến như nhà kính, họ có thể kiếm nhiều tiền hơn, góp phần nâng cao thu nhập cho gia đình của họ ở nông thôn. Ở thị trấn Manzu thuộc quận Huairou, phụ nữ thường trồng dâu tây, rau, nấm và các hoạt động du lịch nông nghiệp, tất cả được làm ở gần nhà, vì vậy họ có thể kết hợp làm những công việc khác, phụ nữ ở Manzu mỗi năm kiếm được 7000 nhân dân tệ, tương đương với 1025 USD.

rooftop herb garden in downtown riverside, creative commons attribution, flickr user pbev

Giải thích cho xu hướng phát triển của nông nghiệp đô thị, Tom Sharples, nhân viên Công ty Sutton Seeds cho rằng, giá cả lương thực tăng tạo ra những sự thay đổi trong cách tiêu dùng của người dân. Bên cạnh đó, phong trào sử dụng các loại thức ăn hữu cơ là yếu tố chính thúc đẩy mô hình nông nghiệp đô thị phát triển. Nhiều người dân Anh trồng rau quả tại nhà vì lý do sức khỏe. Ông Lenny Moakes, 85 tuổi, người trồng rau ở Luân -đôn cho biết, ông đã trồng rau được 44 năm nhưng chưa thấy năm nào có nhiều người tham gia như năm nay. “Tất cả chúng tôi đều muốn có thực phẩm hữu cơ, chúng tôi không muốn thuốc hóa học hay bất cứ loại rác nào trên rau của chúng tôi” — ông nói. Còn Maeve Polkinhorn, một bà mẹ trẻ trồng rau đã được 3 năm tại một khu đất thuê ở Đông Nam Luân-đôn tuyên bố: “Đối với chúng tôi, đây là phương thuốc giải độc tuyệt vời nhất để sống ở Luân-đôn. Đây là cách giải stress hiệu quả và loại rau chúng tôi trồng có vị ngon hơn hẳn loại mua ngoài chợ”.

Rau diếp nhanh chóng đâm chồi trên những mảnh đất cạnh đường băng của một trong những sân bay nhộn nhịp nhất thế giới ở Atlanta (Mỹ). Vườn cây ăn quả cũng đang dần thay thế bãi đậu xe ở Davenport, bang Iowa. Các chủ hộ sống gần trung tâm thành phố Denver đang cho phép những nông dân như Sundari Kraft trồng trọt và thu hoạch mùa vụ trên đất của mình để đổi lấy một phần huê vụ.

Matt Liotta, Tổng Giám đốc PodPonics LLC, cho biết Công ty dự định sẽ trồng cải xoong và các loại rau diếp không cần đất trong vòng 2 tháng tới. Nơi trồng là các container tái chế trên khu vực rộng 4.000 m2 cạnh sân bay Hartsfield-Jackson bang Atlanta. PodPonics cũng đã ký hợp đồng thuê công viên Southside của chính quyền Atlanta trong 11 năm với giá thấp hơn giá thị trường.

Dù người dân Mỹ tiêu thụ nhiều rau diếp hơn, nhưng vẫn không đáp ứng đủ yêu cầu dinh dưỡng. Để chống lại nạn béo phì đang hoành hành ở quốc gia này, các nhà dinh dưỡng khuyến cáo người dân cần dành một nửa khẩu phần ăn của mình cho rau củ quả.

Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ, diện tích đất dành trồng rau củ quả hiện nay chỉ chiếm 2% đất nông nghiệp. Rõ ràng đây là cơ hội cho những nông dân tiên tiến như Sundari Kraft.

Quan chức thành phố, các tổ chức phi lợi nhuận và trường đại học đang nỗ lực tìm cách tính toán những lợi ích kinh tế mà hình thức nông trại trong đô thị có thể mang lại.

“Loại hình nông nghiệp đô thị sẽ tăng trưởng nhanh hơn nếu chính quyền hỗ trợ nông dân, xem họ như những nhà sản xuất hàng hóa lớn, vốn nhận hàng tỉ USD trợ cấp từ Chính phủ mỗi năm”, chuyên gia kinh tế Jeffrey O’Hara thuộc Liên đoàn các nhà khoa học tại Cambridge, nhận xét. “Chỉ một khoản hỗ trợ tài chính nhỏ cho 100 đến 500 khu chợ nông dân mỗi năm cũng có thể giúp tạo ra 13.500 việc làm trong 5 năm tới”.

Các nhà hoạch định đô thị hy vọng các nông trại tại đô thị sẽ giúp hồi sinh những khu vực bị lãng quên của thành phố.

Theo nhà quy hoạch đô thị Darrin Nordahl, “vấn đề nằm ở chỗ chúng ta cần tư duy lại cách sử dụng những khu vực công cộng. Công viên, trung tâm thương mại, đường sá, nhà trường, thư viện nào cũng có những khu đất nhỏ xung quanh. Thay vì sử dụng chúng mang tính chất trang trí, hãy nghĩ xem liệu chúng ta có sản xuất được thực phẩm trên đó không”.

Tuy nhiên, những quy định pháp luật khắt khe ở một số bang từng khiến các nhà sản xuất thực phẩm dù nhiệt huyết mấy cũng phải chùn chân.

Các nhà hoạch định đô thị Mỹ hy vọng các nông trại tại đô thị sẽ giúp hồi sinh những khu vực bị lãng quên của thành phố. (ảnh: Chris Rank/Bloomberg)

Ở Detroit, Hantz Farms muốn đóng góp vào hệ thống vườn công cộng của Thành phố một “nông trại đô thị sạch và có quy mô lớn nhất thế giới”. Thế nhưng, kế hoạch của công ty này đã gặp trở ngại do các chính sách và quy định về việc sản xuất trên các nông trại mang tính thương mại. Luật pháp không cho phép các quan chức Detroit kiểm soát hoạt động nông nghiệp ở nông trại của Hantz. Vì vậy, Công ty và chính quyền phải thương lượng với nhau để giải quyết việc này. Score hy vọng mọi việc sẽ êm xuôi trong vài tháng tới.

Dù trồng trọt trên đất công hay tư thì hệ thống vườn rau củ quả mang tính cộng đồng trải dài qua các bang của Mỹ đã cho thấy hình thức nông trại đô thị mang lại lợi ích cho chính các đô thị và cư dân sinh sống tại đó, cả về mặt kinh tế lẫn xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn đó những khó khăn về mặt pháp lý cần phải vượt qua để sự kết hợp nông trại và đô thị ngày càng hiệu quả.

2. Quan điểm phát triển nông nghiệp đô thị tại Việt Nam

Tại Việt Nam, tốc độ đô thị hoá nhanh đến chóng mặt, việc giúp bà con nông dân chuyển nghề cho phù hợp với quá trình làng dân phố, xã dân phường chưa được các cơ quan chức năng thực hiện tốt nhưng bản thân từng người dân đã có những cách làm hiệu quả. Vấn đề là các cơ quan chuyên môn định hướng bà con như thế nào?

Theo TS Nguyễn Đăng Nghĩa thì nông nghiệp đô thị và ven đô thị thể hiện những tương tác phức tạp giữa những hiện tượng môi trường, xã hội và kinh tế ở những địa phương đang chuyển đổi kinh tế một cách nhanh chóng và thông thường thiếu hụt phương tiện tài chính hỗ trợ. Một cách chính thức, việc chọn lựa giữa các mục tiêu khác nhau như quy hoạch cho nông nghiệp đô thị và ven đô thị, công viên hay những mục tiêu sử dụng khác phụ thuộc vào sự lựa chọn chính sách tùy theo mối quan tâm chính trị và những ưu tiên phát triển. Tuy nhiên, việc này vẫn còn phụ thuộc vào mong muốn cư trú của người nhập cư và những cư dân nghèo đô thị. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách và quy hoạch đô thị phải có những chính sách kết hợp đa mục tiêu cho việc quản lý vùng đô thị và ven đô thị. Ví dụ, họ phải chọn lựa giữa việc hạn chế đô thị hóa vùng ngoại ô, phát triển nhà cao tầng trong nội ô, bảo vệ vành đai xanh của đô thị và việc cho phép phát triển đô thị ra ngoại ô, thu hẹp vùng nông nghiệp ven đô thị. Mỗi phương án như vậy sẽ có những kết quả môi trường (đất, nước, cảnh quan…) và xã hội (an ninh lương thực, an toàn thực phẩm, công ăn việc làm…) khác nhau. Hơn nữa, việc lựa chọn như vậy sẽ liên quan đến các mức chi phí kinh tế khác nhau, nhất là khi chi phí xây dựng hệ thống đường sá, nước, vận chuyển cho sản xuất nông nghiệp thường bị các nhà quy hoạch bỏ qua.

Do nhu cầu phát triển đô thị và công nghiệp — dịch vụ, quỹ đất nông nghiệp ở Việt Nam ngày càng eo hẹp. Thực tế này đòi hỏi lãnh đạo các địa phương, ngành nông nghiệp cũng như các hộ nông dân phải thay đổi tư duy trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng -vật nuôi, mở ra hướng phát triển cho nông nghiệp đô thị.

Bên cạnh những thành tựu về kinh tế-xã hội đáng ghi nhận của quá trình đô thị hóa đã làm thay đổi diện mạo của khu vực đô thị, góp phần nâng cao mức sống của một số bộ phận dân cư, thì đô thị hóa cũng làm nảy sinh nhiều nhiều vấn đề phức tạp cần sớm được giải quyết như: vấn đề di dân nông thôn ra thành thị; tình trạng thất học, thất nghiệp và phân hoá giàu nghèo; vấn đề nhà ở và quản lý trật tự an toàn xã hội ở đô thị; vấn đề hệ thống cơ sở hạ tầng quá tải và ô nhiễm môi trường; vấn đề an toàn về lương thực, thực phẩm, vấn đề cảnh quan đô thị…Một thực tế hiện nay của quá trình đô thị hóa ở nước ta là  diễn ra trên diện rộng nhưng các yếu tố kinh tế đô thị làm động lực cho đô thị hóa thì còn nhiều khó khăn chỉ chú trọng đô thị hóa theo chiều rộng mà ít dựa vào động lực nội tại – chiều sâu. Đô thị hóa trong điều kiện nền tảng như vậy càng làm cho các khó khăn nội tại như trên của các đô thị thêm phần căng thẳng và khó khăn trong việc tìm ra các giải pháp khắc phục. Dựa trên những ưu thế nổi bật trong việc phân tích vai trò của nông nghiệp đô thị cùng với việc tìm hiểu, đúc rút kinh nghiệm nhiều đô thị trên Thế Giới đã áp dụng chúng tôi nhận thấy phát triển nông nghiệp đô thị thực sự là một động lực nội tại rất quan trọng cho sự phát triển nhanh và bền vững của các đô thị của Việt Nam hiện nay.

Về khái niệm nông nghiệp đô thị, đã có nhiều tổ chức, các nhà nghiên cứu, quy hoạch đề cập đến trên nhiều góc độ khác nhau, chung quy lại có thể hiểu nông nghiệp đô thị là quá trình sản xuất sản phẩm nông nghiệp từ nguyên liệu, bảo quản, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm  phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, thủy văn, bảo đảm sự cân bằng sinh thái, tạo hiệu quả sản xuất, hiệu quả kinh tế, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng môi trường. Quá trình đó được diễn ra ở các vùng xen kẽ hoặc tập trung ở đô thị bao gồm nội đô, giáp ranh và ngoại ô. Vai trò của Nông nghiệp đô thị thể hiện qua những ưu điểm nổi bật sau:

— Nông nghiệp đô thị góp phần cung ứng nguồn lương thực, thực phẩm tươi sống tại chỗ cho các đô thị.

urban agriculture An ninh lương thực và an toàn vệ sinh thực phẩm là vấn đề đã và đang rất được quan tâm hiện nay tại các đô thị, đặc biệt là những người có thu nhập thấp tại các đô thị của các nước đang phát triển như nước ta. Có vẻ là nghịch lý nếu đưa ra nhận định này nhưng trên thực tế lại là rất khách quan. Quy mô dân số đô thị không ngừng gia tăng trong quá trình đô thị hóa, quá trình này cũng đồng thời đẩy các hộ dân nghèo ven đô vào tình thế mất tư liệu sản xuất chính và vấn đề gia tăng các hộ khó khăn, hộ thu nhập thấp ở khu vực đô thị càng ngày càng khó kiểm soát. Bản thân nguồn cung lương thực thực phẩm chất lượng cao với giá đắt đỏ chỉ hướng đến các hộ thu nhập cao vì vậy nguy cơ thiếu hụt nguồn lương thực cơ bản đáp ứng cho các hộ khó khăn ngày càng trở nên hiện hữu. Vì vậy phát triển nông nghiệp đô thị là cứu cánh duy nhất cho vấn đề này. Người dân nông thôn có thể tự sản xuất được các nhu cầu lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu trong ngày còn người dân nghèo đô thị thì không thể mua được lương thực thực phẩm nếu không có tiền. Do vậy nguy cơ thiếu lương thực, dinh dưỡng ở người dân thành thị lớn hơn so với nông thôn, nhất là trong điều kiện giá cả các mặt hàng thiết yếu gia tăng mạnh như hiện nay. Trong điều kiện hiện nay, khái niệm nghèo đói không chỉ dành riêng cho khu vực vùng núi, vùng sâu vùng xa mà hiện hữu ngay tại các vùng ven đô thị, và đây là vấn đề chung, khách quan trong tiến trình đô thị hóa. Để đảm bảo phát triển bền vững, giảm khoảng cách quá xa trong nhu cầu dinh dưỡng thiết yếu của người dân đô thị, phát triển nông nghiệp đô thị thực sự là một giải pháp quan trọng hiện nay. Nếu tổ chức tốt việc sản xuất được quy hoạch hợp lý, nông nghiệp đô thị có thể tạo ra nguồn lương thực, thực phẩm tươi sống và an toàn, tại chỗ góp phần to lớn vào việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cư dân đô thị. — Nông nghiệp đô thị tạo việc làm và thu nhập cho một bộ phận dân cư ở đô thị.

urban agriculture Trong tiến trình đô thị hóa, vì các mục tiêu chung của các đô thị mà vấn đề thu hẹp diện tích đất nông nghiệp của nông dân ven đô diễn ra phổ biến. Người dân mất tư liệu sản xuất, buộc phải chuyển đổi nghề nghiệp trong điều kiện không có trình độ, vốn hạn chế, kinh nghiệm thích ứng với lối sống và tác phong công nghiệp rất thấp vì vậy vấn đề việc làm cho người lao động, nhất là những gia đình ven đô càng trở nên cấp thiết. Những người đàn ông có thể làm các nghề tạm để kiếm sống nhưng trong gia đình phụ nữ, người già và trẻ em sẽ làm được gì? Bên cạnh đó, làn sóng di chuyển dân cư từ nông thôn về thành thị để tìm kiếm việc làm cũng gia tăng nhanh chóng. Trong vấn đề này với Nông nghiệp đô thị, nếu được quan tâm và có quy hoạch, có chiến lược phù hợp để tận dụng quỹ đất đô thị và sức lao động dôi dư để góp phần quan trọng vào việc giải quyết bài toán việc làm và thu nhập trong tiến trình đô thị hóa.

 — Nông nghiệp đô thị dễ tiếp cận các dịch vụ đô thị.

urban agriculture Trong điều kiện quỹ đất đô thị và vùng ven bị hạn chế, việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp để tăng sản lượng cây trồng vật nuôi là vấn đề mang tính tất yếu và cấp bách. Trong khi một bộ phận khá lớn nông dân ở khu vực nông thôn chưa có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ khoa học và công nghệ, còn tổ chức sản xuất sản xuất nông nghiệp theo lối quảng canh, truyền thống thì nông nghiệp đô thị có rất nhiều thuận lợi trong việc vận dụng những dịch vụ khoa học, công nghệ vào sản xuất. Bên cạnh đó, nông nghiệp đô thị còn có khả năng phát triển theo các mô hình chuyên biệt để cung ứng nhiều dịch vụ cho đô thị như cung cấp cây xanh, hoa tươi và thực phẩm cho khách sạn, cung ứng dịch vụ du lịch, dịch vụ an dưỡng,…

— Nông nghiệp đô thị góp phần quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên, giảm ô nhiễm môi trường.

urban agriculture Nông nghiệp đô thị có thể tái sử dụng chất thải đô thị để làm phân bón, nước tưới,…cho sản xuất nông nghiệp, góp phần quan trọng việc làm giảm ô nhiễm môi trường. Chất thải đô thị đang thực sự tạo thành áp lực ngày càng tăng cùng với sự gia tăng dân số ở đô thị. Bằng công nghệ xử lý thích hợp, có thể tận dụng một phần nguồn chất thải đô thị phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất sạch, an toàn và hiệu quả. Điều này thật sự có ý nghĩa trong việc cải thiện môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống. Nông nghiệp là ngành sản xuất yếu cầu một lượng nước rất lớn tuy nhiên với nông nghiệp đô thị bằng cách tái sử dụng nguồn nước thải nó có thể cải thiện công tác quản lý tài nguyên nước hướng tới mục tiêu phát triển bền vững cho các đô thị. Tại các đô thị, tình trạng đất đai bị bẩn hóa, suy thoái, thiếu màu mỡ cũng được quan tâm không kém so với việc ô nhiễm và thiếu nguồn nước. Phần lớn đất đai kém phì nhiêu, bị nhiễm bẩn do các hóa chất công nghiệp, do bị ảnh hưởng bởi hoạt động xây dựng…Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nông nghiệp đô thị là tái tạo chất dinh dưỡng cho đất thông qua tái sử dụng các chất thải hữu cơ từ các hoạt động của đô thị. Điều này vừa góp phần giảm ô nhiễm môi trường cho các đô thị vừa giảm các hóa chất khi đưa phân bón hóa học vào đất dễ gây ô nhiễm thêm lại vừa giảm được chi phí mua phân bón. Nông nghiệp đô thị được sản xuất tại chỗ ven các đô thị nên sau thu hoạch, chi phí đóng gói, vận chuyển và bảo quản bằng kho lạnh được bỏ qua nên góp phần giảm giá thành đến mức tối đa. Chất lượng các sản phẩm được đảm bảo an toàn đồng thời góp phần giảm lượng xe cộ trọng tải lớn vào ra các đô thị, giảm tai nạn và ô nhiễm đáng kể cho khu vực đô thị. — Nông nghiệp đô thị góp phần tạo cảnh quan đô thị và cải thiện sức khỏe cộng đồng.

urban agriculture Phát triển “đô thị sinh thái” hay “đô thị xanh” là những cụm từ đang trở nên phổ biến tại các diễn đàn về phát triển đô thị hiện nay. Mục tiêu hướng tới là quy hoạch và xây dựng các đô thị có môi trường và cảnh quan thân thiện với thiên nhiên, đảm bảo các tiêu chuẩn tốt cho sức khỏe cộng đồng. Đối với mục tiêu này trong tiến trình đô thị hóa và phát triển của các đô thị, phát triển nông nghiệp đô hị thực sự là một giải pháp hiệu quả nhất. Ngoài các ý nghĩa như trên, nông nghiệp đô thị sẽ tạo ra hệ thống cảnh quan, các vành đai xanh rất ý nghĩa cho các đô thị ( Cây xanh, công viên, mảng xanh trên các ban công, hay các vành đai xanh bao quanh ven đô… là những hình thức và sản phẩm của nông nghiệp đô thị). Sản xuất nông nghiệp đô thị môt mặt vừa đảm bảo các nu cầu về dinh dưỡng, mặt khác nó cũng chính là một hình thức lao động, giải trí góp phần nâng cao thể lực, trí lực cho cư dân đô thị.

Thực trạng nông nghiệp ở các thành phố lớn nước ta:

*Nông nghiệp giữa lòng thành phố Đà Nẵng

TP. Đà Nẵng là một trong những địa phương có những mô hình nông nghiệp đô thị khá độc đáo. Mấy năm gần đây, nhất là khi Chỉ thị 12/2006/CT-UBND của UBND TP. Đà Nẵng về cấm nuôi gia súc, gia cầm ở khu vực nội thị có hiệu lực, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng -vật nuôi diễn ra khá sôi động.

Trồng rau sạch trên sân thượng hộ gia đình trong nội thành thành phố Đà Nẵng bằng phương pháp thủy canh tĩnh

Thành quả đáng kể nhất là nghề làm sinh vật cảnh, trồng rau mầm, nấm ăn phát triển nhanh, nông dân không chỉ tạo ra sản phẩm có giá trị mà còn có cơ hội làm giàu. Ông Nguyễn Văn Quý ở phường Hoà Cường Bắc (quận Hải Châu) là người tiên phong trong lĩnh vực hoa cây cảnh. Do nhạy bén với cơ chế thị trường, nắm bắt kịp thời nhu cầu khách hàng, ông thành lập Công ty TNHH cây cảnh Văn Khoa và trở thành cơ sở sản xuất cây cảnh lớn nhất Đà Nẵng. Tại đây, liên tục có gần 30 nhân công chăm sóc hoa, cây cảnh, mang lại lợi nhuận trên 1 tỷ đồng/năm. Cũng từ đây, hàng trăm nông dân tiếp cận với nghề trồng hoa, cây cảnh. Các cơ quan chức năng TP. Đà Nẵng đã mở hàng chục lớp tập huấn kỹ thuật ngay tại khu vực sản xuất của Văn Khoa. Nhờ vậy, mô hình trồng hoa cây cảnh ở Đà Nẵng phát triển rất nhanh. Hiện, quận huyện nào cũng có Hội Sinh vật cảnh và khu trưng bày sản phẩm. Có hộ trồng tới 10.000 chậu cúc/vụ, hơn 5.000 gốc mai cảnh, thu nhập 300-400 triệu đồng/năm. Trên địa bàn thành phố có khoảng 300 hộ hoạt động trong lĩnh vực này, tạo ra lượng của cải trị giá 30-40 tỷ đồng/năm.

Ông Nguyễn Minh Trường, ở tổ 12, phường Bình Thuận (Hải Châu) có cách làm khá độc đáo khi sản xuất rau sạch ngay tại ngôi nhà của mình trong hẻm sâu, đường Hoàng Diệu. Đầu năm 2007, trong một lần vào TP.Hồ Chí Minh, ông được tiếp cận với công nghệ sản xuất rau mầm. Không ngờ loại rau ngắn ngày ấy đã đem đến cho ông cơ hội làm giàu. Hiện mỗi ngày ông xuất bán 20-30kg, thu 600.000-700.000 đồng.

Bởi vậy, không cứ gì ở nông thôn mới làm nông nghiệp mà ngay cả vùng nội thị cũng có thể làm rất thành công, nếu biết tận dụng không gian hẹp ở mỗi gia đình, nuôi trồng các cây-con phù hợp.

*Những vườn chậu ở Hà Nội

Có một xu thế đang diễn ra rất mạnh hiện nay là nhiều gia đình ở Hà Nội cũng bắt đầu trồng rau để phục vụ bữa ăn gia đình. Để có rau sạch, nhiều hộ đã trồng rau vào chậu cảnh, hộp xốp, thậm chí cải tạo cả tầng thượng thành một vườn rau. Gia đình bà Kim Ngân ở ngõ 553, đường Giải Phóng, có vườn rau trồng trên sân thượng, tiết lộ: “ý tưởng trồng rau trên tầng thượng là của ông xã tôi. Có được vườn rau như thế này cũng vất vả, tốn kém lắm. Nhưng bây giờ mua rau ngoài chợ không yên tâm nên đành tự cung tự cấp”. Để có được vườn rau xanh tốt 80m2 trên tầng thượng, ngoài việc dùng tời kéo lên mái nhà khoảng 10 tấn đất, kỳ công xây bệ trồng rau, gia đình bà Ngân phải bỏ ra hàng triệu đồng làm hệ thống thoát nước, chống thấm. Bà tiết lộ: “Các loại rau được trồng đa phần đều dễ chăm sóc như rau muống, rau lang, cải cúc kèm với rau ăn sống như xà lách, rau diếp, rau má, tía tô, mùi tàu…”.

Một nghề mới-nghề nông giữa thành phố.

Ông Nguyễn Thái Quang ở A101, ngõ 466, La Thành, lại chọn cách khác, đó là trồng rau vào chậu cảnh. Những chậu cảnh cao chừng 40cm, đường kính 60cm, chứa đầy các cây rau tươi mướt. Với 20 chậu cải cúc, 10 chậu xà lách… ông Quang tận dụng mọi góc ngõ để các chậu rau. “Trồng rau kiểu này tuy mất công chăm sóc nhưng đổi lại cả gia đình không phải băn khoăn về chất lượng”, ông tâm sự.

Một kiểu trồng rau thú vị khác là của chị Nguyễn Phương Lan ở ngõ 72, đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân. Nhà trong ngõ, không có đất vườn, chị Lan tận dụng khoảng lan can tầng 2, những hộp xốp thừa để trồng su su, cà chua, cải ngọt, ớt, hành, xà lách. Nhìn những hộp rau xanh tốt, chị cười, nói: “Chỉ mất có vài nghìn mua cây giống cộng với hộp xốp đựng hoa quả, chỉ sau 3 tuần là cả nhà có bữa rau sạch, không khí cũng thêm trong lành. Mình dự định sẽ trồng thêm một số hộp rau nữa trên tầng 3”.

*Nông nghiệp công nghệ cao ở TP. Hồ Chí Minh và Đà Lạt

TP.Hồ Chí Minh là nơi có tốc độ đô thị hoá nhanh nhất cả nước. Nhận thức rõ, phát triển nông nghiệp đô thị rất phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, thuỷ văn… mang lại hiệu quả kinh tế cao, lãnh đạo thành phố đã có nhiều chính sách hỗ trợ nhằm phát triển nông nghiệp các vùng ngoại thành theo hướng công nghệ cao. Kết quả bước đầu của việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở ngoại thành thời gian qua là tạo việc làm cho nhiều lao động tại chỗ, tăng thu nhập, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện môi trường, đóng góp vào sự tăng trưởng của nông nghiệp thành phố. Có thể thấy, “Chương trình phát triển hoa, cây cảnh, chim, cá cảnh” ở TP. Hồ Chí Minh cho hiệu quả kinh tế rất cao. Từ đầu năm 2008 đến nay, các doanh nghiệp và hộ nuôi cá cảnh đã xuất khẩu 1.280.000 con cá cảnh các loại sang thị trường châu Âu, Mỹ, Nhật Bản… với kim ngạch trên 1,5 triệu USD, tăng 30% so với cùng kỳ năm 2007.

Trồng rau mầm: Giải pháp mới cho nông nghiệp đô thị

Như vậy, có thể thấy rõ, ưu điểm của nông nghiệp đô thị là không chỉ tạo ra nguồn nông sản tươi sống, giá rẻ cung ứng tại chỗ cho cư dân đô thị, mà còn có tác dụng bảo vệ môi trường, tạo việc làm cho người dân, nâng cao chất lượng cuộc sống.

3. Một vài nhận xét về nông nghiệp đô thị:

Nông nghiệp đô thị vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, sức cạnh tranh thấp… Để phát triển nông nghiệp đô thị cần hạn chế đô thị hóa vùng ngoại ô. Đặc biệt là, tập trung sản xuất những sản phẩm đặc thù của từng vùng và yêu cầu của thị trường với chất lượng cao. Muốn vậy, cần tăng cường đầu tư vốn; đa dạng mô hình, đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.

Bên cạnh đó xây dựng nông nghiệp đô thị là nông nghiệp công nghệ cao.

Cần thiết phải có chính sách phát triển nông nghiệp đô thị bền vững thì mới tận dụng được ưu điểm như: giảm đóng gói, lưu trữ, vận chuyển; cung cấp dịch vụ tươi sống; tạo việc làm và tăng thu nhập; … Để phát triển nông nghiệp đô thị theo hướng công nghệ cao, chúng ta, xác định vai trò của lực lượng khuyến nông là vô cùng quan trọng, là cầu nối giữa nhà khoa học, nhà quản lý và nhà nông, giúp nông dân tiếp cận tiến bộ kỹ thuật.

Hầu hết các thành phố lớn, do quy hoạch về tài nguyên-môi trường còn chắp vá, bị động; do quy hoạch xây dựng thiếu kiểm soát, tự phát nên đã và đang dẫn đến nhiều hệ quả nặng nề: môi trường đất, nước, không khí ô nhiễm trầm trọng, nguy cơ dịch bệnh thường xuyên đe dọa con người và cả động vật, thực vật chung quanh.

Trước tình hình đó, các thành phố lớn có nông nghiệp nên tiếp tục thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng hình thành nền nông nghiệp đô thị và đáp ứng được nhu cầu sau:

+ Đảm bảo về giống, về khoa học công nghệ nông nghiệp hiện đại, về thông tin kịp thời.

+ Chuyên cung cấp các dịch vụ đầu vào, giải quyết đầu ra, mở rộng và nâng cấp việc chế biến, bảo quản vận chuyển sản phẩm.

+ Sản xuất hàng hoá phù hợp có giá trị cao, như hoa lan, cây kiểng, cá cảnh; nuôi trồng các loại đặc sản, cao sản…

+ Bên cạnh đó, nông nghiệp đô thị phải bảo đảm cảnh quan, góp phần cải thiện môi trường sinh thái theo hướng xanh — sạch — đẹp, hài hoà giữa thiên nhiên với con người.

+ Ngoài ra, các địa phương thường xuyên đào tạo, huấn luyện, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật từ các kết quả nghiên cứu, ứng dụng để hỗ trợ nông dân trong sản xuất.

Giải quyết các tác động xấu để bảo đảm phát triển nông nghiệp đô thị cần có một cách nhìn nhận tổng hợp. Đặc biệt là vấn đề bảo vệ sức khỏe dân cư, bảo vệ môi trường, quản lý sử dụng tài nguyên tổng hợp và kế hoạch hóa việc sử dụng đất.

Các việc cần làm là nhận thức và hiểu cho được cảnh quan đô thị và tính động của nó, là thu thập dữ liệu cần thiết, tiến hành nghiên cứu, xác định mức độ mà chính quyền cần phải can thiệp, đưa ra các quyết định phù hợp.

“Đô thị hóa là một quá trình tất yếu, không thể không xẩy ra, dù muốn hay không muốn tương lai của thế giới vẫn nằm ở các thành phố”. Đó là kết luận của hội nghị thượng đỉnh thế giới về đô thị do Liên Hợp Quốc tổ chức tại Ixtambul (Thổ Nhĩ Kỳ). Thực tế tốc độ đô thị hóa của nước ta nói chung đang diễn ra ngày càng nhanh về cả quy mô và số lượng. Đô thị hóa nhanh trong điều kiện hiện nay của nước ta thực sự làm nảy sinh nhiều bất cập. Phát triển nông nghiệp đô thị được xem là giải pháp tối ưu để giải quyết các bất cập này. Mặc dù chỉ mới phát triển mạnh từ những năm 70 của thể kỉ XX trở lại đây song nông nghiệp đô thị đã góp phần rất lớn trong chiến lược phát triển bền vững của các đô thị trên thế giới. Ở nước ta nhìn chung nông nghiệp đô thị đã hiện diện song còn ở dạng manh mún, phần lớn là sự sáng tạo của người dân. Mặc dù phạm vi hoạt động chưa rộng, mức độ phát triển chưa cao, chưa toàn diện nhưng hiệu quả kinh tế — xã hội – môi trường của nông nghiệp đô thị đã được chứng minh ở nhiều thành phố thuộc nhiều nước phát triển và đang phát triển trên thế giới.

Tóm lại, việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng nông nghiệp đô thị phải nhằm 4 mục tiêu: Đó là nâng giá trị sản xuất trên 1 ha diện tích nuôi trồng; tăng thu nhập cho người lao động; nâng cao sức cạnh tranh cho các loại sản phẩm trong điều kiện kinh tế hội nhập; ngoài ra nông nghiệp đô thị còn nhắm đến mục tiêu tạo ra môi trường sản xuất-kinh doanh thân thiện với con người. Xây dựng nền nông nghiệp đô thị là một định hướng rất quan trọng, cần thiết và cấp bách; đặc biệt trong giai đoạn các thành phố đang đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và có dấu hiệu suy thoái môi trường như hiện nay.

Phạm Anh Phương

Поделиться ссылкой:

  • X
  • Facebook
Нравится Загрузка...

Похожее

Рубрика: Bài viết mới

Từ khóa » Nông Thôn Hóa đô Thị Là Gì