[DOC] 2 Phù Nề Thanh Quản Do Viêm

Phù nề thanh quản

1 Đại cương

1.1 Nguyên nhân

Như chúng ta đã biết phần lớn lớp tổ chức dưới niêm mạc của thanh quản rất lỏng lẻo dễ bị tiết dịch thâm nhiễm gây ra phù nề.

Nguyên nhân của phù nề có thể là viêm nhiễm hoặc không phải viêm nhiễm.

1.1.1 Nguyên nhân viêm nhiễm.

Viêm tổ chức liên kết dưới niêm mạc. Tổ chức này có thể viêm một cách nguyên phát do lạnh, do vi khuẩn ... hoặc thứ phát sau cúm, do chấn thương do apxe họng ...

1.1.2 Nguyên nhân không viêm nhiễm.

Đây là những hiện tượng cơ học (cao áp huyết, suy tim) hoặc lý học (ứ đọng chất muối do viêm thận) hoặc nhiễm độc (chất iốt) hoặc dị ứng. Sự phân bố của phù nề không đồng đều trên khắp thanh quản: có nơi phù nhiều, có nơi không phù. Sở dĩ như vậy là vì có chỗ niêm mạc đính chặt vào sụn, có chỗ niêm mạc bị cách sụn bởi một lớp dưới niêm mạc lỏng lẻo dễ thâm nhiễm.

1.2 Phân bố

ở hạ họng và thanh quản, sự phù nề được phân bố chủ yếu ở ba vùng sau đây:

  • Tiền đình thanh quản:ở nẹp phễu thanh thiệt, ở băng thanh thất, ở mặt trước của sụn phễu.
  • Hạ thanh môn: Nhất là ở hai thành bên, hình thành dai giả che lấp thanh môn. bản thân thanh đai không bị phù nề nhưng cơ giáp phễu trong bị phù nề làm cho thanh đai to lên.
  • Hạ họng: ở mặt trước của thanh thiệt, ở máng xoang lệ, ở phía sau của mặt đá sụn nhẫn.

Hình 62 Phù nề thanh thiệt

Hình 63. Phù nề sụn phễu

Hình 64. Phù nề thanh thiệt sụn phễu và nẹp phễu thanh thiệt.

1.3 Tính chất chung

Tính chất chung của phù nề thanh quản là.

Màu sắc:niêm mạc thường màu đỏ trong phù nề do viêm, màu trong hay xám nhạt trong phù nề không do viêm.

Khó thở thanh quản. nặng hay nhẹ tuỳ theo mức độ phù nề.

Hội chứng hạ họng: chảy nhiều nước bọt, khó nuốt, tiếng nói nặng è è (giọng cóc kêu).

2 Phù nề thanh quản do viêm

Phù nề thanh quản do viêm là một bệnh nguyên phát. Nói như vậy tức là chúng ta loại ra những trường hợp phù nề do chấn thương, do apxe họng, do cúm.

2.1 Nguyên nhân

Yếu tố thuận lợi cho sinh bệnh: toàn trạng suy kém, nghiện rượu, hút nhiều thốc lá.

Yếu tố khởi động; bị lạnh đột ngột

Yếu tố quyết định; vi khuẩn pnơmocốc (pneumôcque) strepptoccoc.

2.2 Triệu chứng

Bệnh thường gặp ở đàn ông và được chia ra làm ba thể tuỳ theo biến diễn.

2.2.1 Thể cấp.

Bệnh bắt đầu bằng khó nuốt, sốt, đau mình như trong viêm họng. Bệnh nhân cảm thấy có dị vật trong họng. mỗi lần nuốt có thể đau nhói lên tại. Nước bọt chảy nhiều.

Hình 65. Viêm thanh quản tấy Bắt đầu ở sụn phễu và nẹp phễu thanh thiệt

Sau đó khó thở xuất hiện: khó thở thanh quản ở cấp một hoặc cấp hai. Thỉnh thoảng có những cơn co thắt làm cho bệnh nhân ngạt thở.

Tiếng nói không thay đổi mấy. Nói chung giọng nói chỉ kém vang hơn ngày thường. Riêng trong trường hợp phù nề xoang lê giọng nói khác hẳn: giọng cóc kêu.

Soi thanh quản thấy niêm mạc đỏ và phù nề khu trú ở thanh thiệt, ở nẹp phễu thanh thiệt hoặc ở sụn phễu. Nếu phù nề nhiều bờ thanh quản sẽ biến dạng và giống cổ dạ con (col utein) che kín hai thanh đai. Nếu phù nề ít và không lan rộng chúng ta có thể thấy được thanh đai. Thanh đai thường lành mạnh hoặc đỏ hồng. Trong một số ít trường hợp hạ thanh môn cố bị phù nề hình thành hai khối hình thoi màu đỏ nằm dưới thanh đai và làm nghẽn đường hô hấp.

Thường thường bệnh sẽ lui sau bốn năm ngày: khó thở giảm, khó nuốt bớt dần và cuối cùng hết hẳn. Đôi khi chỗ nề mưng mủ và biến thành apxe thanh thiệt, apxe sụn phễu.

2.2.2 Thể ác tính

hiếm có

Vi khuẩn gây bệnh là streptôcôc

Viêm nhiễm toả lan ra chung quanh thanh quản. Niêm mạc màu đỏ sẫm. Khó thở nhiều.

Triệu chứng toàn thân rất nặng, hiện tượng nhiễm độc khống chế bệnh cảnh. nhiệt độ cao, mạch nhanh yếu, thở nông và nhanh, huyết áp hạ, bộ mặt xám chì, nước tiểu rất ít và trong nước tiểu có nhiều anbumin, có thất điều vô lực (ataxo - adynamic). Bệnh nhân thường chết trong vòng 48 giờ.

2.2.3 Thể nhẹ.

Thể này thường hay gặp. Triệu chứng toàn thân hầu như không có bệnh nhân vẫn làm việc bình thường, người bệnh chỉ cảm thấy nuốt vướng như có một cái hòn trong họng. Đôi khi nuốt đau và bệnh nhân tưởng rằng mình bị hóc xương, nhưng vẫn ăn uống được không khó thở.

Soi thanh quản thấy thanh thiệt hoặc sụn phễu bị mọng nước, trong và rung như khối thạch (thạch xoa - xoa xoa).

2.3 Tiên lượng

tốt.

2.4 Điều trị

Chống viêm: kháng sinh, sunfamit

Chống phù nề: coctíon

Chống ho: brômua, mocphin.

chống khó thở: để bệnh nhân ngồi yên. Dùng bình phun hơi bơm adrenalin vào thanh quản.

Nếu có khó thở cấp hai phải mở khí quản. Bệnh nhân nhịn ăn. Tiêm dung dịch mặn và ngọt ưu trương.

3 Phù nề thanh quản do thận

Chúng ta có thể thấy phù nề thanh quản trong viêm thận cấp và viêm thận mạn tính.

Trong viêm thận cấp, phù nề thanh quản chỉ là một chỗ xác định khu của phù nề toàn thân.

Trong viêm thận mạn tính (bệnh Bright) nếu bệnh nhân bị viêm thanh quản cấp thì chỉ có nhiều khả năng bị phù nề thanh quản do ứ đọng muối đã có sẵn. Có những trường hợp viêm thận mạn tính mà không biết và bệnh đột nhiên bị phù nề thanh quản sau đó mới phát hiện ra bệnh thận.

Phù nề có thể thâm nhiễm vào cơ giáp phễu và làm cho thanh đai sưng to như hai con thoi bịt lấy thanh môn. Bệnh nhân khàn tiếng và khó thở.

Bệnh tiến triển nhanh, tiên lượng nặng đối với phù nề do viêm thận mạn tính.

3.1 Điều trị.

- Mở khí quản cấp cứu. Trích máu độ 300ml

- Sau đó phải điều trị viêm thận mạn tính.

4 Phù nề thanh quản do nhiễm độc

Nói cho đúng đây là hiện tượng không chịu thuốc hơn là nhiễm độc mà chúng ta thường gặp ở bệnh nhân uống iodua. Liều lượng iodua có rất thấp, một gam, hai gam mà đã gây ra biến chứng.

4.1 Triệu chứng

4.1.1 Triệu chứng toàn thân:

sốt nhẹ, đau mình.

4.1.2 Triệu chứng cục bộ:

chảy nước mắt, chảy nước bọt, nổi mề đay hoặc nổi mẩn ngoài da, nặng mặt.

Triệu chứng chính: Khó thở thanh quản.

4.2 Diễn biến

Bệnh biến diễn một cách bất ngờ: có khi thở nặng đến mức phải mở khí quản.

4.3 Điều trị:

Ngừng uống iodua kali.

Dùng bình phun hơi Wibiss bơm adrênalin vào thanh quản. Uống hypososunfit natri 2%, 10ml. Chướm khăn ướt nóng trước cổ.

5 Phù nề thanh quản dị ứng

Bệnh này thường gặp ở những người có tiền sử dị ứng như nổi mề đay (unrticaire) phù Quinch...Bệnh có tính chất gia đình và di truyền. Tuy bệnh được xếp vào nhóm dị ứng nhưng ít khí chúng tá tìm ra được kháng nguyên, do đó người ta còn goi là phù nề loạn thần kinh do rối loạn gia cảm.

Bệnh xuất hiện một cách đột ngột: tự nhiên sáng dậy rửa mặt thếu môi sưng vều, sờ không nóng, ấn thấy đàn hồi không đau, không có dấu lõm. Phù nề có thể đan lên má, lên mi mắt, vào lưỡi gà vào thanh quản...

Bệnh nhân bị khó thở thanh quản đột biến nặng: trong vòng vài giờ phù nề có thể làm tắc thanh quản, ngạt thở và tử vong.

Trong thể nhẹ bệnh kéo dài và chúng ta có thì giờ theo dõi thì thấy có những triệu chứng sau đây: mạch dội lên (anacrotisme du pouls). huyết áp hạ và ỉa chảy, chứng tỏ rằng có rối loạn thần kinh giao cảm. Tiên lượng không xâu lắm, nhưng phải theo dõi để mở khí quản nếu cần.

5.1 Điều trị:

Bơm cocain - adrenalin vào thanh quản, nỏ êphêdrin vào mũi.

Tiêm adrenalin vào bắp thịt

Tiêm hyposunfit natri 1%, 10ml vào mạch máu.

Tiêm pipolphène 25mg vào mông.

Tiêm dehydrocortion 50mg vào bắp thịt.

Làm bản huyết trị liệu pháp Cautohémothérapie).

Cho uống êphêdrin viên 1cg, A.H.3, thiantettes, prednisolon, mở khí quản trong trường hợp khó thở nặng, nhất là sau đã dùng nhứng thuốc kể trên mà không bớt.

Bản quyền: Phòng khám chuyên khoa Tai Mũi Họng Thư viện tài liệu: www.pktaimuihong.vn/thu-vien/

Từ khóa » Sụn Phễu Phù Nề