Đời Sống Của Người Nông Dân Việt Nam Thời Pháp Thuộc Qua Tư Liệu ...

Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)
  1. Trang chủ
  2. >>
  3. Khoa học xã hội
  4. >>
  5. Văn hóa - Lịch sử
Đời sống của người nông dân Việt Nam thời Pháp thuộc qua tư liệu của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.9 KB, 6 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUESocial Sci., 2016, Vol. 61, No. 10, pp. 164-169This paper is available online at DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0099ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘCQUA TƯ LIỆU CỦA HỒ CHÍ MINHDương Văn Khoa và Mai Thị TuyếtKhoa Lí luận Chính trị & Giáo dục cơng dân, Trường Đại học Sư phạm Hà NộiTóm tắt. Sự đau khổ, dốt nát, nhục nhã. . . của người nông dân Việt Nam thời thuộc địađều do chế độ thực dân, phong kiến gây ra. Tình trạng này được những người đương thờidễ dàng nhận thấy, nhưng Hồ Chí Minh là một trong số ít người có được cái nhìn sâu sắc,đúng đắn, đầy lạc quan. Đồng thời, Người tin vào sức sống mãnh liệt, sức mạnh tiềm ẩn tolớn của họ, bộ phận ưu tú chính là những người sẽ đánh thức sức mạnh ấy trỗi dậy.Từ khóa: Đời sống nông dân, thời Pháp thuộc, tư liệu, Hồ Chí Minh.1.Mở đầuCuộc sống của người nơng dân Việt Nam thời Pháp thuộc đã được đông đảo giới nghiêncứu quan tâm từ sớm, đơn cử như cuốn Aujourd’hui Tonkin (Xứ Bắc kì ngày ấy) của HenryCucherousset, xuất bản năm 1924; cuốn Viet-nam, La tragédie Indochinoise (Việt Nam, bi thảmĐông Dương) của L.Roubaud, Nxb Valois, Paris 1931 đã ghi chép lại những gì tác giả chứng kiếntrong những chuyến đi thực tế của mình. Nội dung được nói đến nhiều là cuộc sống cơ cực củangười nông dân và sự tàn sát man rợ của chính quyền thuộc địa đối với nhân dân Việt Nam. CuốnEconomie agricole de l’Indochine (Nông nghiệp Đơng Dương, Hà Nội, 1932) của Y.Henry (doHồng Đình Bình dịch) đã phân tích cụ thể một số nội dung của nơng nghiệp ở Bắc kì, Trung kìvà Nam kì như: công nhân nông nghiệp; các loại tá điền; chủ đất; tín dụng nơng nghiệp; chế độcho vay,... Cuốn La Culture du riz dans le delta du Tonkin (Nghề trồng lúa ở đồng bằng Bắc kì,Paris, 1935) của René Dumont nghiên cứu về các khâu của sản xuất lúa ở Bắc kì. Cuốn Ngườinơng dân châu thổ Bắc kì của P.Gourou xuất bản năm 1936 tại Pari nghiên cứu về chủ đề nơngdân dưới góc độ địa lí nhân văn. Đây là các cơng trình nghiên cứu rất cơng phu. Tuy nhiên, quanđiểm của một số tác giả còn bênh vực chế độ thực dân, hoặc né tránh tội ác của kẻ thống trị đối vớingười dân bản xứ, điển hình như cuốn Aujourd’hui Tonkin (Xứ Bắc kì ngày ấy). Với Hồ Chí Minh,xuất phát từ lịng u nước và sự trải nghiệm sâu sắc, nghiệp vụ chắc chắn, đặc biệt sau khi đếnvới Chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã dày công nghiên cứu về cuộc sống của người nông dân ViệtNam thời Pháp thuộc. Các tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến của Người như Đơng Dương đăng trêntạp chí La Revue Commuineste, số 14, tháng 4/1921; Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản năm1925; Đường cách mệnh xuất bản năm 1927; Thường thức chính trị xuất bản năm 1953.v.v. . . Quanguồn tư liệu ấy, chúng ta có cơ sở khách quan để đánh giá về chính sách thống trị của chính quyềnNgày nhận bài: 5/5/2016. Ngày nhận đăng: 2/9/2016Liên hệ: Dương Văn Khoa, e-mail: 164 Đời sống của người nông dân Việt Nam thời Pháp thuộc qua tư liệu của Hồ Chí Minhthực dân. Phác họa hình ảnh người nơng dân Việt Nam thời Pháp thuộc (chủ yếu từ đời sống vậtchất, tinh thần của họ); đồng thời, đây cũng là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho các giảngviên giảng dạy, nghiên cứu môn Lịch sử Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí Minh tại các cơ sở giáodục, đào tạo hiện nay.2.2.1.Nội dung nghiên cứuChính sách bóc lột của đế quốc và phong kiến đối với nơng dân Việt Nam2.1.1. Chính sách cướp đoạt ruộng đấtTrong thời kì Pháp thuộc, nơng dân Việt Nam chiếm hơn 90% dân số, hoạt động kinh tếcủa họ chủ yếu ở lĩnh vực nông nghiệp. Diện tích đất canh tác khá lớn, khoảng 4.550.000 ha (tínhtheo con số năm 1925-1929) [1;10]. Tuy nhiên, thực dân Pháp cấu kết với tư sản mại bản, địa chủbản xứ, trắng trợn cướp đoạt phần lớn ruộng đất của nông dân, biến họ thành những người “cùngđinh” trong xã hội (tá điền) “ở các thơn xã, ngồi bọn đại địa chủ ra, tồn bộ nơng dân là tá điền. . .Phần lớn ruộng đất tốt, đều nằm trong tay bọn tư sản” [4;563]. Số ruộng xấu, cằn cỗi ít ỏi còn lạichúng để lại cho người dân. “Phần lớn ruộng đất là của công, đáng lẽ phải đem cấp đều cho nhândân các thôn xã. Nhưng trong thực tế, bọn tư sản chiếm lấy phần hơn, cịn người nơng dân bần khổchỉ được nhận ít mảnh nhưng lại là phần ruộng đất xấu nhất. Việc thường xảy ra là những miếngruộng đất rải rác khắp đó đây, khó làm và khó bảo vệ, nên người nơng dân lại phải tậu ruộng củatư sản và của đại địa chủ” [4;580].Thực dân Pháp không chỉ dung dưỡng tư sản mại bản, địa chủ, chúng còn tiếp tay cho giáohội thỏa sức cướp đoạt ruộng đất, “Chỉ riêng ở Nam kì, hội thánh truyền đạo cũng đã độc chiếmđến 1/5 ruộng đất trong vùng” [3;84].Tình trạng này diễn ra phổ biến ở hầu hết các nước thuộc địa như: Lào, Cao Miên, Ấn Độ,Trung Quốc. . . Điều đó chứng tỏ, chính sách ăn cướp của chúng đã mang tính hệ thống. Đơn cửnhư Trung Quốc: “Các công ti độc quyền ruộng đất giữ chặt nơng dân nghèo dưới gót giày tàn bạocủa chúng. Chúng cướp hết ruộng đất rồi sau đó cho thuê ruộng với mức lãi 80%” [3;180]. Ở ẤnĐộ, “70% đất đai canh tác thuộc quyền sở hữu của các đại, trung địa chủ, số này chỉ bằng mộtphần ba số nơng dân, trong khi đó 90 triệu nơng dân tuyệt đối khơng có một chút ruộng đất gì”[3;330].Với thủ đoạn thâm độc, thực dân Pháp đã ban hành một loạt văn bản pháp lí để hợp thứchóa việc cướp đoạt và sử dụng ruộng đất. Điều 13 của Hiệp ước Pa-tơ-nốt cho phép công dân Phápvà những người được bảo hộ tự do mua tậu tài sản trên tồn cõi Bắc kì và các hải cảng ở Trungkì. Tháng 7 năm 1888, Toàn quyền Richaud buộc vua Đồng Khánh ban hành một đạo dụ cho phépkhai khẩn đất hoang ở thượng du Bắc kì. Cùng lúc ấy, Richaud ra một nghị định dành riêng quyềnđược cấp nhượng đất hoang cho người Pháp. Tháng 9/1888, thực dân Pháp ra nghị định và chínhthức xác lập quyền sử dụng đất cơng ở Bắc kì.v.v...Cơng cuộc ăn cướp theo kiểu “hợp pháp” và “văn minh” của đế quốc thực dân, tự nó đã chocả nhân loại thấy rõ bộ mặt “diều hâu”, “cá mập”, “rắn độc” của chúng. “Nền “văn minh” Pháp tạiĐông Dương thể hiện ở những chiều hướng khác nhau. Trước hết, thơng qua sự cướp bóc trơ tráonhân dân bản xứ – những người nông dân nghèo An Nam và Cao Miên bị chiếm đoạt trắng trợn –nhằm thực hiện một nền kinh tế đồi bại đáng hổ thẹn” [3;234]. “Cướp của giết người đối với bọnthực dân cá mập là những điều hợp pháp!”Nói như Sê-nơ trong cuốn Sai lầm và nguy hiểm ở Đơng Dương thì “Công cuộc thực dân165 Dương Văn Khoanhư vậy, thực chẳng đem thêm được chút gì vào sự giàu có cho xứ này. Nó chỉ làm tăng thêm sựnghèo khổ của những người An Nam mà thơi” [dẫn lại 1;80].2.1.2. Chính sách bóc lột của đế quốc và phong kiếnNgười nông dân thời thuộc địa không chỉ bị tước đoạt tư liệu sản xuất, họ cịn bị chế độ“đáng nguyền rủa” bóc lột thậm tệ bằng tơ thuế và sức lao động. . . “Ngồi việc bóc lột nơng dânvề kinh tế, bọn đế quốc Pháp còn bắt dân cày chịu biết bao thứ thuế nặng nề: thuế thân, thuế chợ,thuế ruộng đất, thuế xây dựng trường. . . Hằng năm mỗi người phải đi xâu 6 ngày khơng cơng chochính phủ hoặc phải nạp một số tiền tương đương. Đặc biệt hai năm nay thuế má lại tăng lên rấtnhiều. Bọn đế quốc Pháp để cho bọn quan lại và tư sản bóp nặn áp bức nơng dân, chúng tìm hếtcách để giữ vững chế độ thuộc địa của chúng” [4;563].Tô, thuế là một trong những nỗi khiếp sợ của người nông dân thời này, mức độ ngày càngtăng cao, hình thức ngày càng đa dạng. . . “Ngoài thuế má nặng nề, tăng lên 550% trong khoảngmười năm, người dân bản xứ còn bị khổ sở với trăm nghìn thứ hạch sách” [3;230]. Thậm chí, cónhững năm bị mất mùa, nạn đói bùng phát, nhưng chính quyền đơ hộ lại tăng thuế lên 30%. Đôikhi, ruộng đất được phát canh qua nhiều tầng nấc rồi mới đến được với người nông dân nghèo, vìvậy, mức tơ thuế bị độn lên rất cao “Có nhiều nơi, địa chủ cho bọn “quá điền” lĩnh canh, bọn nàychia nhỏ ruộng đất đem phát canh lại cho nông dân. Bằng thủ đoạn ấy chúng càng nâng cao tôruộng đất lên hơn nữa, nên người nông dân nghèo bị trói chặt với chúa đất gần như nơng nơ trướckia” [4;563].Thực dân Pháp còn bắt dân ta nộp “thuế máu” (bắt người dân Việt Nam, chủ yếu là thanhniên ra khắp các chiến trường trên thế giới làm bia đỡ đạn), người chết rồi vẫn phải chịu thuế(người còn sống phải chịu thay), đứa trẻ mới chào đời đã phải đóng thuế. . . (Bản án chế độ thựcdân Pháp). Chính sách thuế trở thành “những chiếc cùm đóng chặt người nông dân vào sự phá sản,bần cùng, là những khối tạ đánh vào sụn lưng họ. Nó là một trong những tai họa khủng khiếp nhấtđối với dân quê. Gia đình li tán: vì thuế, tù tội: cũng vì thuế, đi đồn điền cao su, đi tân thế giới xaxơi: lại cũng vì thuế. Thuế! thuế! Tiếng kêu thống thiết ấy của hàng triệu nông dân ta không ngớtvang lên trong suốt 80 năm thuộc Pháp” [1;102].Người nông dân cịn bị bóc lột sức lao động đến cùng kiệt, “Cố nông làm việc suốt ngàykhông hạn định giờ giấc, mà vẫn khơng đủ ni thân và gia đình. Những người đi ở mỗi năm chỉđược nhận 10 đồng. Còn anh em phu đồn điền (cao su, cà phê, bơng. . . ), thì bị đưa đi những nơixa xôi, nước độc, ăn ở trong những lán trại bẩn thỉu, được trả công một phần bằng tiền, một phầnbằng gạo. Thường thường cơng xá của những anh em đó bị cúp phạt hết. Khi làm việc họ lại bị đốixử đánh đập như con vật” [4;563]. Họ còn phải biếu xén, bị ép buộc làm không công cho nhữngtên chủ, “Ăn đã khơng đủ no vì địa tơ q nặng, những ngày lễ bái hoặc khi địa chủ mở tiệc tùng,người bần nơng cịn phải đem lễ vật đến kính biếu và làm cơng khơng cho chủ” [4;563]. Các thếlực tơn giáo cũng lợi dụng “sức mạnh” của mình để bóc lột nơng dân “Bên cạnh uy lực phần đờiấy, cịn có những đấng cứu thế phần hồn nữa. Các đấng này, trong khi thuyết giáo “đức nghèo” chongười An Nam, cũng không quên làm giàu trên mồ hôi và máu của họ” [3;84].Số hoa lợi có được quá ít, không đủ đảm bảo cho cuộc sống, tá điền thường phải đi vay nợlãi để có ăn mùa này qua mùa khác và hi vọng vào sự khấm khá của vụ sau. Nhưng hiện thực rấtbi đát, đế quốc và phong kiến đã dập tắt mọi hi vọng của họ, tá điền mãi khơng thốt ra được cáivịng luẩn quẩn khốn khổ ấy, “toàn bộ nhân dân đều bị thắt lại trong một cái lưới vay nợ”. “Khiphải vay mượn, họ phải trả lời rất cao “ít nhất là 100%” hoặc phải bán hoa màu non lấy có mộtnửa tiền hoặc đem cầm cố ruộng nương cho bọn vay ăn lãi” [4;563].166 Đời sống của người nông dân Việt Nam thời Pháp thuộc qua tư liệu của Hồ Chí MinhCác vùng quê thân thuộc cũng trở thành xa lạ và dữ dằn, những mặt tích cực trước kia ngàycàng bị xói mịn, những cái xấu đua nhau xuất hiện. Đó là những phép tắc, thể lệ, hình phạt riêngmà bọn hương lí, hào mục trong làng đẻ ra. Người nông dân bị vùi dập dưới nhiều tầng áp bức.Ở Bắc kì, năm 1921, viên Thống sứ còn tăng thêm quyền lực cai trị cho bọn chức sắc địa phươngbằng cách ban hành nghị định thành lập các Hội đồng tộc biểu trông nom việc trong làng xã.Như vậy, Đế quốc, giáo hội và phong kiến đã hợp tác với nhau để vắt đến cùng kiệt sức lựccủa nhân dân, đặc biệt là nông dân. Chúng không từ một thủ đoạn nào để cướp lấy lợi nhuận vàsiêu lợi nhuận. “Người nông dân Việt Nam bị hành hình vừa bằng lưỡi lê của nền văn minh tư bảnchủ nghĩa, vừa bằng cây thánh giá của Hội thánh đĩ bợm” [2;229].2.2.Đời sống của nông dân Việt Nam2.2.1. Đời sống vật chấtĐời sống vật chất của người nông dân được phản ánh chủ yếu qua thu nhập, ăn, mặc, ở...Kĩ thuật canh tác thô sơ, lạc hậu, lại bị bóc lột thậm tệ, số hoa lợi có được của nơng dân rấtít, thường bị lỗ vốn. So với một số quốc gia, năng suất lúa của Đông Dương thấp hơn rất nhiều. Sảnlượng một hécta ở châu Âu lúc đó là 4.670 kilơ thóc, ở Nhật Bản 3.320 kilơ, ở Nam Dương 2.150kilơ, cịn ở Đơng Dương sản lượng chỉ có 1.210 kilơ [3;229]. Theo tính tốn, người nơng dân càycấy mỗi mẫu ruộng sẽ lỗ mất 3 đ75, vậy “họ sống thế nào được và lấy gì mà đóng thuế?”. “Có thểtrả lời đơn giản như thế này: sống thế nào cũng được, nhưng người nơng dân vẫn phải sống và phảiđóng góp”[3;229].Thu nhập của người nông dân quá thấp, họ thường xuyên phải ăn đói, ăn độn, ăn hoa màuthay cho cơm, đơi khi là cháo cám, mọt cưa.“Suốt năm, phần lớn những người nơng dân phải ănrau, ăn khoai. Rất ít khi họ ăn cơm, chỉ trong những ngày giỗ tết chẳng hạn, thì họ mới dám độngtới hạt cơm quý giá ấy” [3;229]. P.Gourou (nhà nghiên cứu người Pháp) cũng phải thú nhận: “Sựkhốn cùng và sự thèm ăn ấy đã buộc những người nông dân Bắc bộ và cùng với họ là tất cả nhữngngười nông dân Trung bộ phải cật lực lùng bắt những thứ sâu bọ mà họ ăn một cách thèm thuồng.Ở Bắc bộ, người ta lùng bắt châu chấu, dế, phù du, một vài thứ sâu nào đó, mọt tre, và người takhơng ngần ngại gì mà không ăn nhộng. Mọi người đều thừa nhận rằng thực tế bao giờ họ cũng bịthiếu đói” [dẫn lại 1;20].Trong thời kì thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta (1858-1945), nạn đói liên tiếpxảy ra, điển hình là những năm 1896, 1916, 1919, 1929... Khủng khiếp nhất là nạn đói năm 1945“hơn hai triệu đồng bào miền Bắc bị chết đói”. Đối với bọn thực dân, tính mạng của người ViệtNam rẻ rúm khơng đáng một đồng xu. Chính sách thống trị mang tính hủy diệt, vừa giúp đế quốcthực dân vơ vét được nhiều của cải vật chất, vừa làm suy yếu sức đề kháng của dân tộc “chúng đãcoi tính mạng người Đơng Dương như cỏ rác” [3;363].2.2.2. Đời sống tinh thầnVới dã tâm muốn giam hãm nhân dân An Nam trong vòng ngu dốt để dễ cai trị, thực dânPháp đã xây dựng các nhà tù ở khắp mọi nơi và dùng rượu cồn, thuốc phiện để làm cho giống nòita suy nhược “lúc ấy, cứ 1000 làng thì có đến 1500 đại lí bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũngtrong số 1000 làng đó lại chỉ có vẻn vẹn 10 trường học” và “hàng năm người ta cũng đã tọng từ23 đến 24 triệu lít rượu cho 12 triệu người bản xứ, kể cả đàn bà và trẻ em” [5;339]. Chúng bưngbít mọi thơng tin đến với người dân, cách hữu hiệu nhất là giam hãm họ trong sự ngu dốt và tămtối, hầu hết nông dân Việt Nam đều không biết chữ: “Nhân dân An Nam chúng tôi là những ngườinơng dân bị nhấn chìm trong bóng đêm hết sức tối tăm. Không một tờ báo nào, không ai hiểu bây167 Dương Văn Khoagiờ trên thế giới đương diễn ra những gì; đêm tối, thực sự là đêm tối” [2;476].Dưới chiêu bài “khai hóa văn minh”, kẻ xâm lược đã du nhập vào Việt Nam một thứ vănhóa nguy hiểm, độc hại. Chúng xui khiến người dân quay đầu với truyền thống và đạo lí tốt đẹpcủa dân tộc, nhất là khi họ đã gửi gắm cả linh hồn mình cho “đấng tối cao”, chúng dùng món địntơn giáo để ru ngủ nhân dân, nhằm cố nhét vào đầu dân ta thứ tâm lí “an phận thủ thường”. Thựctế “người nơng dân An Nam bị hành hình vừa bằng lưỡi lê của nền văn minh tư bản chủ nghĩa, vừabằng cây thánh giá của giáo hội sa đọa làm ô danh Chúa” [3;84]. Chúng còn dạy cho một bộ phậnngười dân phản bội lại dân tộc mình, trở thành tay sai, cơng cụ cho chúng. Văn hóa đồi trụy đượclưu truyền, tệ nạn, các hủ tục được khuyến khích phát triển. . .Người nông dân không được học “bằng sách vở và bằng diễn văn”. “Đau khổ, nghèo đói vàsự đàn áp tàn bạo là những người thầy duy nhất của họ”, sự thiếu thốn về vật chất và tăm tối vềtrí tuệ đã biến một số người nơng dân chất phác thành những “con quỷ” như Chí Phèo (nhân vậttrong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao). “Dưới chiêu bài dân chủ, đế quốc Pháp đã đemvào Việt Nam tất cả cái chế độ trung cổ đáng nguyền rủa” [2;229].2.2.3. Thái độ chính trị, khả năng cách mạng của nông dân Việt NamĐau khổ, nhục nhã, tăm tối,. . . bị kẻ thù “đầu độc cả về tinh thần lẫn thể xác, bị bịt mồm vàbị giam hãm”, người nông dân Việt Nam vẫn cho thấy sức sống mãnh liệt, sức mạnh phi thườngvà khả năng cách mạng to lớn khi đồn kết lại “Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân. Trongthế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [6;276].Nhiều người khơng thấy, thậm chí khơng tin vào sức mạnh của người dân, phủ định nhữngmặt tích cực của họ (như Phan Châu Trinh). Họ “tưởng rằng cái bầy người ấy (nhân dân ĐôngDương) cứ mãi mãi bị dùng làm đồ tể tế cái ông thần tư bản, rằng bầy người đó khơng sống nữa,khơng suy nghĩ nữa và là vơ dụng trong việc cải tạo xã hội” [2;28].Chính sách thống trị thâm độc, sự khủng bố cực kì dã man của kẻ thù không thể tiêu diệtđược sức sống của dân tộc Việt Nam và sự đi lên của cách mạng, trái lại “nó đã trở nên một thứ lửathử vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng càng thêm cứng rắn”, “Đằng sau sự phục tùng tiêucực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sục sơi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghêghớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến” [2;28].Nơng dân Việt Nam bị nhiều tầng áp bức, bóc lột, cho nên tinh thần đấu tranh của họ rấtcao và quyết liệt “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lịngcách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết [2;266].Nơng dân cùng với công nhân được coi là chủ, là gốc của cách mạng – lực lượng nòng cốt,đội quân chủ lực của cách mạng. Tuy nhiên, nông dân chỉ có thể phát huy được sức mạnh (số đơng)khi sát cánh bên cạnh công nhân (lãnh đạo) và ngược lại. Đây là mối liên minh chiến lược, là mộttrong những yếu tố cơ bản đảm bảo sự thành công của cách mạng. “Cách mạng dân tộc thực chấtlà cách mạng của nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo và chính quyền nhân dân thực chất làchính quyền của cơng nơng. Vì vậy, trải qua các thời kì, Đảng ta nắm vững và giải quyết đúng đắnvấn đề nông dân, củng cố được liên minh công nông. Đảng ta đã đấu tranh chống những xu hướnghữu khuynh và “tả” khuynh đánh giá thấp vai trị của nơng dân là quân chủ lực của cách mạng, làbạn đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất của giai cấp công nhân, là lực lượng cơ bản cùng với giaicấp công nhân xây dựng chủ nghĩa xã hội” [7;18]. Mặc dù vậy, thái độ chính trị của các bộ phậntrong giai cấp nơng dân có sự khác nhau nhất định. Dân cày nghèo (bần cố nông) là thành phầnđáng tin cậy nhất của Đảng, cần “phải thu phục cho được đại bộ phận”; trung nơng được xếp cùngvới trí thức, tiểu tư sản, cần liên lạc, lôi kéo họ về phe cách mạng; Phú nông lại xếp cùng với tầng168 Đời sống của người nông dân Việt Nam thời Pháp thuộc qua tư liệu của Hồ Chí Minhlớp trung gian: tiểu địa chủ, tư bản An Nam, cần phải lợi dụng, hoặc trung lập họ, “bộ phận nàođã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ” – Sách lược vắn tắt.Khả năng cách mạng của giai cấp nơng dân được phát huy nhiều hay ít còn phụ thuộc vàohành động tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, lãnh đạo. . . của Đảng ta “Cần làm cho nơng dân nhậnthức rõ lực lượng và vai trị của mình. Họ phải hiểu được rằng hành động cá nhân hoặc mỗi xuhướng khủng bố đều trái với cương lĩnh hành động của mình. Đồng thời, phải giải thích cho nơngdân hiểu rằng chỉ có một lực lượng mạnh mẽ và có tổ chức mới có thể đương đầu chống khủng bốtrắng được” [4;567].3.Kết luậnQua tư liệu Hồ Chí Minh, chúng ta thấy: Dưới sự thống trị của thực dân và phong kiến,nông dân Việt Nam ngày càng rơi vào tình cảnh khốn khổ, bần cùng, phá sản hàng loạt. Đặc biệt,sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và trong thời kì Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bọn thốngtrị tăng vốn đầu tư, ra sức vơ vét, bòn rút của dân. Ruộng đất bị cướp mất, người nông dân phảiđi làm thuê, cuốc mướn, vay nặng lãi, lĩnh canh lại ruộng đất để tồn tại. Đời sống vật chất và tinhthần của họ thật tồi tàn, thấp kém. Tuy vậy, “người Đông Dương không chết, người Đơng Dươngvẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sứcsống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương”. Với cái nhìn tinhtế, thể hiện sự trải nghiệm và trí tuệ uyên bác, Hồ Chí Minh lạc quan, tin tưởng vào sức mạnh tiềmtàng to lớn của nông dân Việt Nam thời thuộc địa. Sức mạnh này sẽ bùng nổ dữ dội khi thời cơđến.TÀI LIỆU THAM KHẢO[1][2][3][4][5][6][7]Nguyễn Kiến Giang, 1959. Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nơng dân trước Cáchmạng tháng Tám. Nxb Sự thật, Hà NộiHồ Chí Minh, 2001. Tồn tập, tập 1 (CD-ROM). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.Hồ Chí Minh, 2001. Tồn tập, tập 2 (CD-ROM). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.Hồ Chí Minh, 2001. Tồn tập, tập 3 (CD-ROM). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.Hồ Chí Minh, 2001. Tồn tập, tập 5 (CD-ROM). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.Hồ Chí Minh, 2001. Tồn tập, tập 8 (CD-ROM). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.Hồ Chí Minh, 2001. Tồn tập, tập 10 (CD-ROM). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.ABSTRACTLife of Vietnam farmers in French colonial period under documents of Ho Chi MinhDuong Van Khoa and Mai Thi TuyetFaculty of Politic Theory - Civic Education, Hanoi National University of EducationGrief, ignorance, shame ... Vietnam’s farmers are due to colonial colonialism, feudalismcaused. This condition is easily contemporaries noticed, but Ho Chi Minh is one of the few peopleget insight, right, full of optimism. At the same time, he believes in vitality, the strength of theirtremendous potential, the department’s elite who will wake her strength.Keywords: Life of Vietnam farmers, French colonial period, documents, Ho Chi Minh.169

Tài liệu liên quan

  • MỘT SỐ NÉT NỔI BẬT VỀ NÔNG DÂN VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY MỘT SỐ NÉT NỔI BẬT VỀ NÔNG DÂN VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY
    • 12
    • 649
    • 2
  • Nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay Nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay
    • 10
    • 1
    • 13
  • lệ làng truyền thống với việc hình thành ý thức pháp luật cho nông dân việt nam thời kỳ đổi mới lệ làng truyền thống với việc hình thành ý thức pháp luật cho nông dân việt nam thời kỳ đổi mới
    • 183
    • 987
    • 4
  • Tài liệu Làng của Kim Lân thể hiện những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam pot Tài liệu Làng của Kim Lân thể hiện những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam pot
    • 5
    • 2
    • 25
  • Tài liệu Báo cáo Tài liệu Báo cáo " Một số đặc điểm tâm lý của người nông dân Việt nam ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hội nhập kinh tế" doc
    • 3
    • 2
    • 5
  • khả năng tiếp cận  thị trường của người nông dân việt nam khả năng tiếp cận thị trường của người nông dân việt nam
    • 15
    • 1
    • 0
  • em suy nghĩ gì về những chuyển biến mới của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp trong bài “Làng” của Kim Lân. doc em suy nghĩ gì về những chuyển biến mới của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp trong bài “Làng” của Kim Lân. doc
    • 7
    • 3
    • 12
  • TIỂU LUẬN: NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI SÁNG CHẾ pptx TIỂU LUẬN: NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI SÁNG CHẾ pptx
    • 17
    • 773
    • 0
  • Truyện ngắn Làng cho thấy những chuyễn biển trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời chống Pháp. Truyện ngắn Làng cho thấy những chuyễn biển trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời chống Pháp.
    • 15
    • 1
    • 0
  • Truyện ngắn làng của kim lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân việt nam thời kháng chiến chống thực dân pháp Truyện ngắn làng của kim lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân việt nam thời kháng chiến chống thực dân pháp
    • 11
    • 3
    • 5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

(93.9 KB - 6 trang) - Đời sống của người nông dân Việt Nam thời Pháp thuộc qua tư liệu của Hồ Chí Minh Tải bản đầy đủ ngay ×

Từ khóa » Hình ảnh Người Nông Dân Việt Nam Thời Pháp Thuộc