[ĐÚNG NHẤT] Dị Bản Là Gì? - TopLoigiai
Có thể bạn quan tâm
Lời giải chuẩn nhất cho câu hỏi: “Dị bản là gì?” và phần kiến thức mở rộng thú vị về dị bản do Top lời giải biên soạn là tài liệu hay dành cho các bạn học sinh và các thầy cô giáo tham khảo
Mục lục nội dung Trả lời câu hỏi: Dị bản là gì?Kiến thức mở rộng về dị bản1. Tính dị bản trong tục ngữ, ca dao2. Dị bản trong văn học dân gianTrả lời câu hỏi: Dị bản là gì?
- Dị bản là những văn bản khác với bản chính được dùng để tham khảo trong khi nghiên cứu, khảo sát tác phẩm văn học hoặc chuẩn bị xuất bản. Trong văn học truyền miệng, có những chỗ khác biệt, xê dịch về câu chữ, chi tiết ở cùng một tác phẩm đã tạo ra các dị bản về tác phẩm đó.
Hãy cùng Top lời giải tìm hiểu thêm về dị bản nhé!
Kiến thức mở rộng về dị bản
1. Tính dị bản trong tục ngữ, ca dao
- Ngày nay, người ta tìm thấy thêm hai dị bản, một của Phú Yên, một của Bình Ðịnh. Về nội dung, cả ba đều là ca dao nói về tình yêu, xây dựng lời tỏ tình của chàng trai trên nền kết cấu “áo rách – nhờ khâu (vá) – trả công”. Nhưng ở chúng vẫn có những điểm khác nhau. Thứ nhất, về một số từ ngữ, lễ vật hỏi cưới trong hai bài ca dao sau mang tính đặc trưng riêng của địa phương. Chẳng hạn, bản của Phú Yên không nói “lợn” mà nói “heo”, không nói “khâu” mà nói “vá”, không “giúp đôi chăn” mà “giúp đôi áo”, không “đèo buồng cau” mà “đèo bông tai”… Tiếp nữa là hai bài ca dao sau không chỉ đề cập tới nội dung “giúp của” phục vụ cho hôn lễ mà còn “giúp của” dùng trong sinh hoạt hằng ngày. Ðiều này ở bài Tát nước đầu đình (SGK lớp 10 chỉnh lý) không có.
- Sau đây là 6 câu cuối của dị bản ở Phú Yên:
Giúp cho một rổ lá gai
Một cân nghệ bột với hai tô mè
Giúp cho năm bảy lạng chè
Cái ấm sắc thuốc cái bồ (ghè?) đựng than
Giúp cho đứa nữa nuôi nàng
Mai ngày trọn tháng cho chàng tới lui…
- Rồi những buổi trưa nồng, ta hay nghe văng vẳng tiếng hát ru con:
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá về đồng ăn cua
Nhưng một hôm ta lại nghe:
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về kinh ăn cá về đồng ăn cua
- Lại một hôm, ta nghe:
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về bưng ăn ốc về đồng ăn cua
- Thế là ta đem hỏi bạn bè. Rồi cãi nhau. Câu nào đúng? Xin đừng cãi nhau làm gì, bởi đó là những dị bản. Chẳng ai đúng mà cũng chẳng ai sai. Quê anh có sông, anh hát về sông, tôi ở trong kinh, trong rạch, mà kinh rạch của tôi cũng nhiều cá, thế là tôi sửa lại thành về kinh. Ở Ðồng Tháp Mười có rất nhiều bưng biền, bưng biền ở đấy có nhiều ốc, thế là người ta lại sửa thành về bưng ăn ốc (chẳng ai cấm cản gì).
- Tương tự như thế, câu ca dao:
Bao phen quạ nói với diều
Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm
- Cũng có dị bản:
Bao phen quạ nói với diều
Cù lao ông Hổ có nhiều cá tôm
- Hay:
Bao phen quạ nói với diều
Ði về trại đáy ăn nhiều cá tôm…
- Một ngày giáp hạt, ta cùng mẹ vét những thúng lúa cuối cùng trong bồ đem đi chà gạo, vừa làm mẹ vừa rỉ rả:
Vóc bồ thương kẻ ăn đong
Có chồng thương kẻ nằm không một mình
Ta nghĩ, trong lòng mẹ đang có sự đồng cảm đây!
- Một hôm, ta lại nghe ông hàng xóm ngân nga:
Thóc bồ thương kẻ ăn đong
Có chồng thương kẻ nằm không một mình
- Ồ, lại thêm một nghĩa khác? Ðúng là một nghĩa khác. Chỉ cần thay đổi một từ vóc và thóc mà đã thành ra hai nghĩa. Có người bảo, bài thứ nhất đúng hơn, có người lại bảo bài thứ hai đúng hơn. Bài thứ nhất chẳng qua là bị nói trại âm, từ thóc mà thành ra vóc (như kiểu trong câu chuyện hài về anh nông dân dốt, người ta nói phước bất trùng lai, hoạ vô đơn chí, anh nghe thành cuốc đất trồng khoai, quạ vô ăn chuối vậy!).
- Trong cuộc sống, ông bà mình cũng thường hay nói “Cái khó bó cái khôn” để chỉ những khó khăn nhiều khi lại trói buộc những dự định, hoài bão của con người. Nhưng cũng từ trong khó khăn, có người lại trăn trở, suy tính và cuối cùng tìm được hướng giải quyết, thế là họ lại bảo “Cái khó ló cái khôn”. Nhờ khó mà họ khôn ra, năng động hơn…
- Rồi một hôm nào đó, mình lại nghe bà bảo chú mình:
Dạy con từ thuở còn thơ
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về
- Câu đầu thì hiểu được. Bởi ông bà mình cũng có câu “Uốn cây từ thuở còn non/Dạy con từ thuở con còn ngây thơ”. Dạy con cái phải dạy ngay từ khi còn nhỏ, những bài học đầu đời luôn là những bài học có giá trị sâu sắc đối với trẻ. Nhưng còn câu sau? Tại sao lại là bơ vơ? À, có lẽ họ muốn nói khi người vợ mới về nhà chồng, còn lạ nước lạ cái, còn bơ vơ chưa có “đồng minh” nên nói gì cũng phải nghe, dạy gì cũng phải học (không dám cãi). Nhưng có người lại không đồng ý với từ bơ vơ mà họ sửa thành ban sơ. Họ cho rằng, ban sơ là ban đầu, là lúc cô gái mới về nhà chồng, dùng ban sơ dễ hiểu hơn. Dùng bơ vơ nghe tội nghiệp quá! Thế là lại có thêm một dị bản:
Dạy con từ thuở còn thơ
Dạy vợ từ thuở ban sơ mới về
- Tương tự như thế, câu tục ngữ Một lần sợ tốn bốn lần không đủ cũng có dị bản Một lần sợ tốn, bốn lần không xong.
- Nhu cầu đời sống tinh thần là vô cùng phong phú. Ngày nay, xã hội phát triển, phương tiện sinh hoạt giải trí cũng đa dạng hơn. Tuy vậy, bên cạnh nhiều phương tiện giải trí hiện đại, Văn Học Dân Gian vẫn âm thầm tồn tại, nhất là những câu tục ngữ, những bài ca dao, với dấu ấn hiện đại hơn, thời sự hơn. Và trong số ấy có rất nhiều bài được làm theo dạng “cải biên” từ những bài ca dao, câu tục ngữ cũ. Nội dung cải biên thường theo xu hướng trào phúng, châm biếm.
- Ví dụ, ngày xưa dân gian thường bảo Có tiền mua tiên cũng được, ngày nay lại bảo Có tiền mua xe hơi cũng được, Có tiền mua Vila cũng được…
- Câu tục ngữ Ði một ngày đàng học một sàng khôn được cải biên thành Ði một ngày đàng học một sàng mánh khoé.
- Từ câu ca dao:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Thành:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Mẹ ơi mẹ hỡi mau mau gởi tiền
2. Dị bản trong văn học dân gian
- Văn học dân gian (VHDG) nói chung, ca dao, tục ngữ nói riêng, là những sáng tác tập thể của Nhân dân lao động. Nó được ra đời từ thuở xa xưa nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần của Nhân dân và được lưu truyền từ đời này qua đời khác, nơi này qua nơi khác, chủ yếu bằng phương thức truyền miệng. Chính vì truyền miệng (lưu giữ trong trí nhớ) cho nên, mỗi người có thể “nhớ” không giống nhau, cốt lõi là nội dung tác phẩm, còn câu chữ thì không câu nệ.
- Văn học dân gian (VHDG) nói chung, ca dao, tục ngữ nói riêng, là những sáng tác tập thể của Nhân dân lao động. Nó được ra đời từ thuở xa xưa nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần của Nhân dân và được lưu truyền từ đời này qua đời khác, nơi này qua nơi khác, chủ yếu bằng phương thức truyền miệng. Chính vì truyền miệng (lưu giữ trong trí nhớ) cho nên, mỗi người có thể “nhớ” không giống nhau, cốt lõi là nội dung tác phẩm, còn câu chữ thì không câu nệ.
- Cũng có khi do là sáng tác tập thể (không có bản quyền của một tác giả nhất định như văn học viết), nên Nhân dân ta thường coi nó như là sản phẩm chung, mỗi người có thể thêm thắt, thay đổi ít nhiều theo cách cảm, cách hiểu của riêng mình; hoặc để phù hợp với địa danh xứ sở mình... Tất cả những khác nhau đó được gọi là dị bản (nhiều bản khác nhau của cùng một tác phẩm). Ðây là một đặc trưng rất riêng, rất tiêu biểu chỉ có ở VHDG (văn học viết không có được).
- Ở phạm vi bài này, chỉ nói đến một vài lý thú mang tính dị bản của tục ngữ, ca dao - là hai trong số rất nhiều thể loại của VHDG.
***
- Hẳn nhiều người còn nhớ đến bài ca dao Tát nước đầu đình rất hay, rất ý nhị và được những nhà soạn sách giáo khoa đưa vào chương trình lớp 10 chỉnh lý năm 2000(*) (SGK mới hiện nay đã bỏ bài này). Gần đây, người ta lại tìm thấy thêm hai dị bản, một của Phú Yên, một của Bình Ðịnh. Về nội dung, cả ba đều là ca dao nói về tình yêu, xây dựng lời tỏ tình của chàng trai trên nền kết cấu “áo rách - nhờ khâu (vá) - trả công”. Nhưng ở chúng vẫn có những điểm khác nhau. Thứ nhất, về một số từ ngữ, lễ vật hỏi cưới trong hai bài ca dao sau mang tính đặc trưng riêng của địa phương. Chẳng hạn, bản của Phú Yên không nói “lợn” mà nói “heo”, không nói “khâu” mà nói “vá”, không “giúp đôi chăn” mà “giúp đôi áo”, không “đèo buồng cau” mà “đèo bông tai”... Tiếp nữa là hai bài ca dao sau không chỉ đề cập tới nội dung “giúp của” phục vụ cho hôn lễ mà còn “giúp của” dùng trong sinh hoạt hằng ngày. Ðiều này ở bài Tát nước đầu đình (SGK lớp 10 chỉnh lý) không có.
- Như vậy các văn bản sưu tầm không có các nội dung chính và không có cùng chủ đề với nhóm văn bản trên, sẽ thuộc về một tác phẩm khác, mặc dù nó vẫn còn nhiều chỗ giống với nhóm văn bản trên. Ví dụ, ca dao người Việt có các bài giống nhau:
1- Cô kia cắt cỏ bên sông Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây. Sang đây anh nắm cổ tay Anh hỏi câu này: cô lấy anh chăng ?
2- Cô kia cắt cỏ bên sông Muốn ăn sung chín thì lồng sang đây. Sang đây anh bấm cổ tay Anh hỏi câu này: có lấy anh chăng ?
3- Cô kia cắt cỏ một mình Cho anh cắt với chung tình làm đôi Cô còn cắt nữa hay thôi ?Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng. Trong ba bài ca dao trên, chúng ta thấy ngay bài thứ nhất và thứ hai có cùng chủ đề (chàng trai tỏ tình một cách vui nhộn) và các nội dung chính (mời gọi cô gái sang, hỏi một cách sấn sổ). Hai bài này chỉ khác nhau một vài từ (nhãn sung chín, nắm- bấm, cô- có). Chắc chắn đây là các dị bản của cùng một bài ca dao, có thể lấy tiêu đề là bài “Cô kia cắt cỏ bên sông”.
- Bài ca dao thứ ba giống hai bài trên ở hình ảnh cô gái cắt cỏ, chàng trai chủ động tỏ tình nhưng chủ đề đã khác, không còn là sự tỏ tình vui nhộn nữa mà là tỏ tình một cách nghiêm trang. Nội dung chính của bài thứ ba cũng khác với hai bài trên, không có sự mời gọi, không có hành vi sấn sổ. Bài ca này là một tác phẩm khác, không phải là dị bản của bài “Cô kia cắt cỏ bên sông”. Nó có thể được đặt tên là bài “Cô kia cắt cỏ một mình”.
- Hiện tượng dị bản khá phổ biến trong văn học dân gian và hiển nhiên nó là biểu hiện của tính mở. Tuy vậy, dị bản không phải là sự biểu hiện đầy đủ tính mở của tác phẩm văn học dân gian sau khi được ghi lại dưới hình thức văn bản. Về phương diện lý luận, có thể khái quát các hình thức biểu hiện của tính mở như sau:
+ Thay đổi từ hoặc cụm từ giữa các dị bản Trường hợp các bài ca dao thứ nhất và thứ hai là sự thay đổi từ hoặc cụm từ. Sự thay đổi này không đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành chủ đề tác phẩm. Nó không mang tính quy luật mà chỉ là sự ngẫu hứng. Tuy nhiên, sự thay đổi đó cũng tạo nên những giá trị thẩm mỹ nhất định.
+ Đọc bài ca số 1 trong ví dụ nêu trên, chúng ta thấy câu “Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây” rõ ràng có hiện tượng chơi chữ. Từ “nhãn lồng”(một loại nhãn ngon nổi tiếng ở Hưng Yên) được tách làm hai bởi chữ “thì”. Còn ở bài ca dao số 2, “sung chín” đã thay thế “nhãn lồng”. Tín hiệu thẩm mỹ này lại tạo ra một ý nghĩa khác: “sung” là trái sung nhưng cũng tượng trưng cho sự sung túc, sung sướng về vật chất. Cả hai trường hợp đều mang ý nghĩa mời gọi nhưng lại khác nhau về nội dung cụ thể. Sự ngẫu hứng này đã được các nhà sưu tầm hết sức trân trọng bới vì những tín hiệu thẩm mỹ, sau khi được tập hợp lại, sẽ cho những kết luận khoa học có giá trị về sự biến đổi của một tác phẩm văn học dân gian trong quá trình lưu truyền.
- Thêm từ hoặc cụm từ vào các dị bản. Hình thức này mang tính lôgic nội tại nhiều hơn là sự ngẫu hứng ở trên. Nó là kết quả của yêu cầu từ phía nội dung thể hiện. Ở đây, chúng tôi chú ý đến hiện tượng lục bát biến thể trong ca dao:
+ Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo. Ngũ lục sông cũng lội, thập cửu đèo cũng qua.
+ Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo. Ngũ lục sông cũng lội, thất bát thập cửu đèocũng qua.
+ Đèo nào cao cho bằng đèo Cây Cốc Dốc nào cao cho bằng dốc Xuân Đài Anh thương em thương huỷ thương hoài. Dù em có chốc, có sài, anh vẫn thương
+ Đèo nào cao……Thương huỷ thương hoài. Dù em có ghẻ, có lở, có chốc, có sài, anh vẫn thương. Qua bốn ví dụ nêu trên, chúng ta thấy dường như hình thức của bài ca dao 1 và 3 không chứa được hết nội dung cần chuyển tải. Tình cảm trong lòng chàng trai, cô gái dâng trào đến mức không thể chịu nổi cái khung thông thường của một dòng thơ lục bát hay song thất lục bát. Nó cần phải được nhấn mạnh hơn nữa, và việc bổ sung từ hoặc cụm từ vào văn bản đã diễn ra như là một sự tất yếu. Đó chính là quy luật tương tác giữa nội dung và hình thức thể hiện trong tác phảm nghệ thuật ngôn từ.
- Trong thơ ca dân gian, mặc dù tính cố định của ngôn ngữ tương đối rõ song hình thức biểu hiện 1 và 2 của tính mở đã xuất hiện không ít. Trên đây chỉ là một vài ví dụ. Còn trong các thể loại truyện kể dân gian, sự thay đổi từ ngữ, thêm bớt từ ngữ ở các dị bản của cùng một tác phẩm là hết sức phổ biến.
- Tuy vậy, đối với các dị bản của truyện kể dân gian, không phải bất cứ sự thay đổi hoặc bổ sung từ ngữ nào cũng trở thành những tín hiệu thẩm mỹ có giá trị. Chỉ có sự thay đổi, bổ sung từ ngữ liên quan đến hành động của nhân vật mới đáng được chú ý vì trong truyện kể dân gian,hệ thống hành động của nhân vật liên quan trực tiếp tới việc thể hiện chủ đề tác phẩm.
- Mở rộng nội dung và hình thức tác phẩm Kết quả sưu tầm, ghi chép các dị bản cho chúng ta thấy một hình thức tồn tại tự do hơn của tác phẩm văn học dân gian: nó được mở rộng về nội dung và hình thức. Chúng ta hãy khảo sát bài ca dao sau: Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh Ai lên xứ Lạng cùng anh Bõ công (tiếc công?) bác mẹ sinh thành ra em. Tay cầm bầu rượu, nắm nem. Mảng vui quên hết lời em dặn dò. Bài ca dao này đã trọn vẹn về ý nghĩa, song vẫn có dị bản được ghi tiếp: Gánh vàng đi đổ sông Ngô Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Thương. Một dị bản khác lại tiếp: Vào chùa thắp một tuần hương. Miệng khấn tay vái bốn phương chùa này. Và lại tiếp nữa: Chùa này có một ông thầy. Có hòn đá tảng có cây ngô đồng. Cây ngô đồng không trồng mà mọc. Rễ ngô đồng rễ dọc rễ ngang.
Từ khóa » Thóc Bồ Thương Kẻ ăn đong Có Chồng Thương Kẻ Nằm Không Một Mình
-
Dốc Bồ Thương Kẻ ăn đong - Thư Viện Hoa Sen
-
Dốc Bồ Thương Kẻ ăn đong Là Gì? - Từ điển Thành Ngữ Tiếng Việt
-
Bài Ca Dao: Dốc Bồ Thương Kẻ ăn đong
-
Dốc Bồ Thương Kẻ ăn đong - Từ điển Thành Ngữ Việt Nam
-
Từ điển Thành Ngữ, Tục Ngữ Việt Nam - Từ Dốc Bồ Thương Kẻ ăn ...
-
Tuần 11 ôn Tập Văn Học Dân Gian Việt Nam - Tài Liệu Text - 123doc
-
Dốc Bồ Thương Kẻ ăn đong, Vắng Chồng Thương Kẻ Nằm Không Một ...
-
Dốc Bồ Thương Kẻ ăn đong (Khuyết Danh Việt Nam) - Thi Viện
-
Dốc Bồ Thương Kẻ ăn đong - Dân Gian
-
Tính Dị Bản - điều Thú Vị Trong Tục Ngữ, Ca Dao - Báo Cà Mau
-
Ca Dao, Tục Ngữ Nói Về Tình Nghĩa Vợ Chồng Và Tình Yêu Của Phụ Nữ ...
-
Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam - CA DAO 1. Mẹ Em Tham Thúng Xôi Rền ...
-
Từ Thóc Là Gì - Tra Cứu Từ điển Tiếng Việt
-
Tính Dị Bản Của Văn Học Dân Gian