Elsa (Nữ Hoàng Băng Giá) – Wikipedia Tiếng Việt

Elsa
Nhân vật trong Nữ hoàng băng giá
Xuất hiện lần đầuNữ hoàng băng giá (2013)
Xuất hiện lần cuốiNữ hoàng băng giá 2 (2019)
Sáng tạo bởiChris BuckJennifer Lee
Diễn xuất bởiGeorgina Haig (Once Upon a Time)Caissie Levy (Frozen: Musical)
Lồng tiếng bởiIdina MenzelEva Bella (8 tuổi - Nữ hoàng băng giá)Spencer Lacey Ganus (12 tuổi - Nữ hoàng băng giá)
Dựa trênnhân vật Nữ chúa tuyết trong truyên cổ tích cùng tên của Hans Christian
Thông tin
Danh hiệuNgười bảo vệ của Khu rừng thần tiên (sau khi nhường ngôi)Nữ vương của Arendelle (từ khi lên ngôi đến khi nhường ngôi)Vương nữ của Arendelle (từ khi sinh)
Gia đìnhQuốc vương Runeard (ông nội)

Quốc vương Agnarr (cha) Vương hậu Iduna (mẹ)

Anna (em gái)
Quốc tịchVương quốc Arendelle

Elsa, còn được biết đến với tên gọi Nữ hoàng băng giá, là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong bộ phim hoạt hình chiếu rạp thứ 53 của Walt Disney Animation Studios, Nữ hoàng băng giá (2013) và phần hậu truyện Nữ hoàng băng giá 2. Nhân vật được lồng tiếng chủ yếu bởi nữ diễn viên và ca sĩ Broadway Idina Menzel. Ở đầu phim, Eva Bella lồng tiếng vai Elsa hồi nhỏ và Spencer Lacey Ganus lồng tiếng vai Elsa khi đến tuổi thiếu niên. Tại Việt Nam, Dương Hoàng Yến đảm nhiệm việc lồng tiếng trong phần đầu tiên, còn phần thứ hai do Tiêu Châu Như Quỳnh thể hiện.

Lấy cảm hứng từ nhân vật chính trong truyện cổ tích Đan Mạch Bà chúa Tuyết của nhà văn Hans Christian Andersen, Elsa được sáng tạo bởi hai đạo diễn Chris Buck và Jennifer Lee. Trong phiên bản điện ảnh chuyển thể của Disney, cô là công chúa của vương quốc Arendelle, một vương quốc hư cấu nằm ở vùng bán đảo Scandinavia, là người thừa kế ngai vàng sau khi cha mẹ cô mất trong một vụ đắm tàu và có một em gái là Công chúa Anna (Kristen Bell). Elsa có khả năng kỳ diệu có thể tạo ra và điều khiển băng giá. Cô vô tình khiến vương quốc Arendelle chìm trong mùa đông vĩnh cửu vào ngày đăng cơ trở thành nữ hoàng của mình. Trong suốt bộ phim, Elsa phải đấu tranh với việc kiểm soát và che giấu sức mạnh kỳ diệu, đồng thời giải phóng bản thân khỏi nỗi sợ hãi rằng mình có thể sẽ làm hại mọi người xung quanh, đặc biệt là cô em gái.

Bà chúa Tuyết trong truyện cổ tích là một nhân vật trung lập nhưng có trái tim lạnh lùng và thường đóng vai trò phản diện trong các phiên bản chuyển thể trước đó. Việc đưa nhân vật lên phim gặp nhiều khó khăn do Andersen chỉ mô tả Bà chúa Tuyết một cách mờ nhạt, thiếu cụ thể. Một số nhà làm phim, trong đó có chính Walt Disney, đã tìm cách xây dựng nhân vật này, tuy nhiên nhiều kế hoạch chuyển thể đã bị gác lại vì không thể khắc phục được vấn đề một cách thỏa đáng. Buck và Lee cuối cùng đã giải quyết được bài toán này bằng cách biến Elsa và Anna trở thành hai chị em. Anna gặp trở ngại tới từ bên ngoài, trong khi Elsa đối mặt với khó khăn từ bên trong. Elsa sau đó được viết lại để trở thành một nhân vật bị hiểu lầm và dễ cảm thông.

Elsa nhận được phần lớn phản hồi tích cực từ giới phê bình, những người đánh giá cao tính cách phức tạp và dễ bị tổn thương của nhân vật. Nữ diễn viên Menzel cũng nhận được rất nhiều sự ca ngợi cho phần lồng tiếng của mình, đặc biệt là màn thể hiện ca khúc "Let It Go" khiến nhiều nhà phê bình gọi cô là một "giọng ca tràn đầy sức mạnh".[1]

Quá trình phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc và ý tưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Một bức vẽ minh hoạ nữ chúa tuyết, nhân vật mà Elsa dựa theo.

Những nỗ lực đầu tiên trong việc chuyển thể truyện cổ tích Bà chúa Tuyết của Hans Christian Andersen thành phim bắt đầu từ năm 1937 do Walt Disney tiến hành. Câu chuyện tập trung vào hai đứa trẻ, Gerda (khuôn mẫu cho Công chúa Anna sau này) và Kai, người bị nguyền rủa có thái độ đầy tiêu cực sau khi một mảnh vỡ từ chiếc gương thần găm vào mắt cậu. Sau này Kai bị Bà chúa Tuyết bắt cóc.[2][3] Tuy nhiên, Disney gặp khó khăn khi cố gắng tạo ra một phiên bản chuyển thể chân thực, đa chiều cho nhân vật tiêu đề của truyện,[4] lúc bấy giờ được dự định sẽ đóng vai trò phản diện.[5] Trong truyện, cô được miêu tả là "một người phụ nữ, mặc bộ trang phục trong suốt trông như hàng triệu bông tuyết lấp lánh kết nối lại với nhau. Cô ấy tỏa sáng và tuyệt đẹp, nhưng giống như được tạo ra từ băng đá — lấp lánh và rực rỡ. Dù vậy, cô vẫn đầy sống động với cặp mắt sáng như sao, nhưng trong ánh nhìn ấy người ta không thể tìm thấy bình yên hay thanh thản."[4] Disney không thể tìm ra cách khiến cho nhân vật Nữ chúa Tuyết "chân thực" hơn được và cuối cùng đã từ bỏ dự án phim.[4]

Một vài nhà làm phim khác đã thử tìm cách khởi động lại dự án này, trong đó có Paul và Gaëtan Brizzi, Dick Zondag, Glen Keane, và Dave Goetz. Năm 2011, đạo diễn Chris Buck bắt đầu thực hiện một phiên bản chuyển thể khác và một lần nữa gặp thách thức với nhân vật Nữ chúa Tuyết. Nhà sản xuất Peter Del Vecho giải thích rằng nguyên nhân chính là do cô ấy khó liên hệ với đời thực và quá cô độc, không có mối quan hệ cá nhân nào. Do vậy, họ không thể giải thích được động cơ cho những hành động của cô. Sau khi một vài thay đổi được đề xuất, ai đó trong nhóm biên kịch đã gợi ý rằng nên biến Nữ chúa Tuyết thành chị gái của Anna. "Một khi chúng tôi nhân ra rằng các nhân vật này có thể là chị em trong gia đình và có quan hệ với nhau, mọi thứ đã thay đổi," Del Vecho nhận định.[4]

Nữ chúa Tuyết, giờ đây mang tên Elsa, tiếp tục được coi là một nhân vật phản diện,[6] và Disney phát hành một đoạn tóm tắt phim Nữ hoàng băng giá" vào tháng 5 năm 2013 như sau:

Khi Anna bị dính lời nguyền của người chị đầy ghẻ lạnh của mình, Nữ chúa Tuyết mang trái tim băng giá, hy vọng duy nhất để đảo ngược lời nguyền ấy là phải sống sót vượt qua một cuộc hành trình khó khăn nhưng đầy ly kỳ trong băng tuyết và hiểm nguy. Cùng đi với một anh chàng thô lỗ ưa mạo hiểm, chú tuần lộc tri kỷ của anh ta và một người tuyết tình cờ gặp trên đường, Anna phải chạy đua với thời gian, chiến thắng trở ngại và chiến đấu với một đội quân người tuyết nếu cô muốn làm tan trái tim băng giá của mình.[2]

Những kịch bản ban đầu có chứa những chi tiết, hành động thể hiện rõ hơn tính phản diện của Elsa, ví dụ như cố tình khiến Arendelle chìm trong mùa đông vĩnh cửu. Ngoài ra, cô còn tạo ra một đội quân người tuyết giống như đội quân bông tuyết của nhân vật Bà chúa Tuyết trong truyện gốc; nhân vật hài Olaf lúc bấy giờ là một người tuyết bé hơn bị Elsa đuổi đi vì có vè ngoài không đủ đáng sợ.[2][7] Tuy nhiên, trong vòng hai tháng, kịch bản được thay đổi và nhấn mạnh vào chi tiết Elsa không thể kiểm soát sức mạnh của mình.[8] Olaf trở thành người tuyết duy nhất mà Elsa tạo ra, và có vai trò tượng trưng cho tình cảm thời thơ ấu của hai chị em.[9] Trong bản phim cuối cùng, Elsa tạo ra một nhân vật người tuyết khổng lồ mà Olaf đặt cho biệt danh "Marshmallow" (kẹo dẻo), có nhiệm vụ đứng gác lâu đài băng sau khi Elsa bị mọi người gán mác quái vật vì sức mạnh đặc biệt của mình.[8] Theo Jennifer Lee, nhân vật Elsa cuối cùng trở thành sự kết hợp của cả Kai và Bà chúa Tuyết, nhằm gây dựng sự đồng cảm của khán giả.[3] Del Vecho nói thêm, "Có những lúc Elsa làm những điều sai trái nhưng khi bạn hiểu được ngọn nguồn sự việc, đó là mong muốn tự vệ cho chính mình, bạn sẽ có thể liên hệ bản thân với cô ấy."[10]

Lồng tiếng

[sửa | sửa mã nguồn]
Idina Menzel lồng tiếng cả phần giọng nói và phần hát cho nhân vật Elsa.

Eva Bella và Spencer Lacey Ganus lần lượt được chọn vào vai Elsa lúc còn nhỏ và lúc thiếu niên.[11][12] Nữ diễn viên kiêm ca sĩ Megan Mullally là người đầu tiên được chọn vào vai Elsa lúc lớn.[13] nhưng sau đó bị thay thế bởi Idina Menzel, một nữ diễn viên Broadway nổi tiếng với vai diễn Elphaba trong vở nhạc kịch Wicked.[1] Menzel có quen biết Kristen Bell,[14] người lồng tiếng cho nhân vật Anna, và trước đây cũng từng tham gia thử giọng cho vai chính trong bộ phim hoạt hình ra mắt năm 2010 của Walt Disney, Công chúa tóc mây.[15] Cô không được chọn vào vai này, nhưng đạo diễn tuyển vai lúc bấy giờ đã ghi lại giọng hát của cô và sau đó chuyển cho các giám đốc sản xuất của Nữ hoàng băng giá.[15] Menzel rất bất ngờ khi được đề nghị thử giọng,[15] và đã nhận được vai diễn sau khi đọc thử một đoạn kịch bản.[14] Trong các bài phỏng vấn, cô thừa nhận những điểm tương đồng giữa nhân vật Elsa và Elphaba.[16] Cụ thể hơn, cô nói, họ đều là những người rất mạnh mẽ nhưng luôn bị hiểu lầm,[17] và bản thân cô cũng giống họ, phải che giấu khả năng ca hát của mình trước mặt bạn bè ở trường. "Tôi không muốn khiến ai cảm thấy bị cô độc," cô giải thích. "Nếu tất cả mọi người trong một chuyến xe hát theo một ca khúc của madonna, tôi sẽ không tham gia bởi hồi còn bé chúng tôi rất sợ sự khác biệt hay khoe khoang, trong khi đó đáng lẽ chúng tôi phải giữ gìn những gì thuộc về bản sắc của mình."[1]

Đạo diễn Chris Buck tin rằng giọng của Menzel góp phần đặc tả nhân vật và nói rằng, "Idina có cảm giác dễ bị tổn thương trong giọng nói của cô ấy. Cô ấy vào vai một người rất mạnh mẽ, nhưng lại sống trong sợ hãi—nên chúng tôi cần một diễn viên có thể thể hiện cả hai mặt của nhân vật, và Idina thật hoàn hảo."[18] Menzel không quen với quá trình sản xuất phim hoạt hình và việc được yêu cầu phải diễn tả cảm xúc của nhân vật chỉ qua giọng nói, tuy nhiên cô không hề cảm thấy bị thử thách.[17] Khi thu âm, cô có thể "chơi đùa" với giọng nói của mình, thử các tông giọng khác nhau để thể hiện các quãng cảm xúc của Elsa. Ví dụ, Menzel muốn có sự khác biệt trong giọng của mình khi cô đang tỏ ra cứng rắn so với khi cô đang tức giận.[14] Cô cũng hạn chế di chuyển tay của mình khi thu âm những cảnh đầu của bộ phim để có thể hiểu được cảm xúc của nhân vật khi "quá lo sợ rằng việc cử động hay cảm nhận sức mạnh có thể làm tổn thương người khác".[19]

Trong quá trình phát triển, Menzel và Jonathan Groff, người lồng tiếng cho nhân vật Kristoff, đã tới xưởng phim để giải thích cho các họa sỹ cách họ tiếp cận nhân vật của mình.[20] Các họa sỹ đặt các câu hỏi về cách Menzel hát, quan sát cách cô thở khi hát, quay video quá trình thu âm lồng tiếng để từ đó mô phỏng việc thở của Elsa cho khớp với thực tế.[19][21] Giọng hát của cô cũng tạo cảm hứng cho ca khúc nổi bật nhất của Elsa, "Let It Go". Theo nhạc sỹ Robert Lopez, quãng giọng của Menzel có thể truyền tải một cách rõ ràng khía cạnh "bị kìm nén, mong manh, dễ tổn thương" của Elsa cũng như sức mạnh và hành trình tự khám phá bản thân của nhân vật.[22] Menzel coi việc được thể hiện ca khúc này là "một vinh dự" và cô cảm thấy hài lòng trong quá trình thu âm. "Đó là sự va chạm đồng thời của nhiều yếu tố theo một cách đúng đắn." cô giải thích. "Là nhân vật, là những gì cô ấy hát và cảm nhận; là lời ca đẹp, giai điệu đẹp và một chút từ bản thân tôi."[19] Buck và Lee cũng ngạc nhiên với sự hòa hợp trong giọng hát của Menzel và Kristen Bell. Vào một thời điểm trong quá trình đọc kịch bản, họ cùng hát một bản ballad (sau này được tiết lộ là "Wind Beneath My Wings,"[15] tung hứng qua lại đầy tình cảm và đã khiến mọi người có mặt lúc bấy giờ bật khóc.[23] Sau đó, Lee muốn Menzel và Bell thu âm cùng nhau trong các phân cảnh nhiều cảm xúc của phim.[24]

Phiên bản quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi phim mới ra mắt vào năm 2013, 43 ngôn ngữ có phiên bản lồng tiếng và 3 ngôn ngữ khác được thêm vào sau đó.[25] Bên cạnh 46 phiên bản chính thức này, một số đài truyền hình địa phương và studio độc lập tự thực hiện các phiên bản lồng tiếng không chính thức của riêng mình trong các ngôn ngữ: tiếng Abkhaz, tiếng Albanian, tiếng Ả Rập(bản truyền hình), tiếng Kabardian, tiếng Karachay-Balkar, tiếng Ba Tư (ba studio thực hiện ba phiên bản khác nhau) và tiếng Tagalog.[25]

Một trong những thách thức chính là tìm được giọng nữ cao tiếng địa phương có tông giọng và quãng giọng tương đương với Menzel.[26][27] Rick Dempsey, quản lý cấp cao tại Disney Character Voices International gọi quá trình dịch và lồng tiếng là một "thách thức đặc biệt", giải thích rằng, "Đó là một công việc cực kỳ khó khăn khi phải giữ được ý nghĩa của lời bài hát, khớp phần lời với giai điệu, sau đó điều chỉnh phần giọng cho khớp với cử động của môi của nhân vật. Công việc này đòi hỏi sự kiên nhẫn và chính xác cao."[28] Cũng như Idina Menzel, bốn người lồng tiếng cho Elsa cũng từng vào vai Elphaba trong vở nhạc kịch Wicked, đó là: Maria Lucia Rosenberg (tiếng Đan Mạch),[29] Willemijn Verkaik (tiếng Hà Lan và tiếng Đức),[30][31] Mona Mor (tiếng Hebrew) và Hyena Park [ko] (tiếng Hàn Quốc).[25][32][33]

Ca sỹ, diễn viên người Hà Lan Willemijn Verkaik lồng tiếng cho Elsa trong tiếng Hà Lan (cả phần nói và hát) và tiếng Đức (chỉ phần hát), ca sỹ người Tây Ban Nha Gisela hát cho cả hai phiên bản tiếng Tây Ban Nha và tiếng Catalan và phần hát của ca sỹ người Pháp Anaïs Delva được dùng cho phiên bản Tiếng Pháp Canada. Hai diễn viên Anaïs Delva (tiếng Pháp) và Jelena Gavrilović (tiếng Serbia) ban đầu ứng tuyển vai Anna nhưng sau đó được giao vai Elsa.

Serena Autieri, cùng với phiên bản tiếng Ý được trao giải phiên bản lồng tiếng quốc tế hay nhất.[34]

Mặc dù phần phim đầu tiên không có phiên bản lồng tiếng chính thức cho tiếng Bắc Sami, tiếng Tamil và tiếng Telugu, các ngôn ngữ này được bổ sung trong phần tiếp Nữ hoàng băng giá 2.[25] Đáng chú ý, phiên bản tiếng Bắc Sami là phiên bản đặc biệt được thực hiện do phần phim thứ hai đã lấy cảm hứng từ văn hóa Sami.[35][36]

Tại Việt Nam, Dương Hoàng Yến lồng tiếng cho phần đầu tiên, Tiêu Châu Như Quỳnh đảm nhiệm phần phim thứ hai.

Diễn viên lồng tiếng cho Elsa trên thế giới[25]
Ngôn ngữ Nữ hoàng băng giá Nữ hoàng băng giá 2
Tiếng Ả Rập نسمة محجوب (Nesma Mahgoub) TBA
Tiếng Bulgaria Надежда Панайотова (Nadezhda Panayotova)
Tiếng Quảng Châu 黃紫嫻 ("Wong Ji-Haan"; Kitty Wong) (giọng nói)
白珍寶 ("Jan-bo Baak"; Jobelle Ubalde) (giọng hát) 王嘉儀 (Sophy Wong)
tiếng Catalan Mar Nicolás (giọng nói)
Gisela (giọng hát)
Tiếng Croatia Kristina Krepela (giọng nói)
Nataša Mirković (giọng hát)
Tiếng Séc Andrea Elsnerová (giọng nói)
Monika Absolonová (giọng hát)
Tiếng Đan Mạch Maria Lucia Rosenberg[37]
Tiếng Hà Lan Willemijn Verkaik
Tiếng Anh Idina Menzel
Tiếng Estonia Hanna-Liina Võsa TBA
Tiếng Phần Lan Katja Sirkiä
Tiếng Flemish Elke Buyle[38]
Tiếng Pháp (Canada) Aurélie Morgane (giọng nói)
Anaïs Delva (giọng hát) Charlotte Hervieux (giọng hát)
Tiếng Pháp (Châu Âu) Anaïs Delva Charlotte Hervieux
Tiếng Đức Dina Kürten (giọng nói)
Willemijn Verkaik (giọng hát)
Tiếng Hy Lạp Σία Κοσκινά (Sía Koskiná)
Tiếng Hebrew מונה מור (Mona Mor)
Tiếng Hindi सुनिधि चौहान (Sunidhi Chauhan) प्रियंका चोपड़ा (Priyanka Chopra) (giọng nói)
सुनिधि चौहान (Sunidhi Chauhan) (giọng hát)
Tiếng Hungary Réka Farkasházi (giọng nói)
Nikolett Füredi (giọng hát) TBA
Tiếng Iceland Ágústa Eva Erlendsdóttir
Tiếng Indonesia Lis Kurniasih (giọng nói) Không lồng tiếng
Mikha Sherly Marpaung (giọng hát) Không lồng tiếng
Tiếng Ý Serena Autieri
Tiếng Nhật 松たか子 (Takako Matsu)[39]
Tiếng Kazakh Айнұр Бермұхамбетова (Aynur Bermuxambetova) Begimnur Halıla (giọng nói)
Gúlsim Myrzabekova (giọng hát)
Tiếng Hàn Quốc 안소연 (Ahn So-Yeon) (giọng nói)
박혜나 (Park Hyena) (giọng hát)
Tiếng Latvia Jolanta Strikaite TBA
Tiếng Litva Girmantė Vaitkutė TBA
Tiếng Malaysia Marsha Milan Londoh TBA
Tiếng Trung Quốc (Trung Quốc) 周帅 (Zhōu Shuài) (giọng nói) TBA
胡维纳 ("Hú Wéi-Nà"; Jalane Hu) (giọng hát)
Tiếng Trung Quốc (Đài Loan) 刘小芸 (Liú Xiǎo-Yún) (giọng nói)
林芯儀 ("Lin Hsin Yi"; Shennio Lin) (giọng hát) 蔡永淳 (Cài Yǒng-Chún) (giọng hát)[40]
Tiếng Na Uy Lisa Stokke
Tiếng Ba Lan Lidia Sadowa (giọng nói)
Katarzyna Łaska (giọng hát)
Tiếng Bồ Đào Nha (Brasil) Taryn Szpilman
Tiếng Bồ Đào Nha (Châu Âu) Maria Camões (giọng nói)
Ana Margarida Encarnação (giọng hát)
Tiếng România Adina Lucaciu (giọng nói) TBA
Dalma Kovác] (giọng hát)
Tiếng Nga Анна Бутурлина (Anna Buturlina)[41]
Tiếng Bắc Sami Không lồng tiếng Marianne Pentha[42]
Tiếng Serbia Јелена Гавриловић (Jelena Gavrilović)
Tiếng Slovak Andrea Somorovská
Tiếng Slovenia Alenka Kozolc Gregurić (giọng nói)
Nuška Drašček Rojko (giọng hát)
Tiếng Tây Ban Nha(Châu Âu) Ana Esther Alborg (giọng nói)
Gisela (giọng hát)
Tiếng Tây Ban Nha(Mỹ Latin) Carmen Sarahí
Tiếng Thụy Điển Annika Herlitz[43]
Tiếng Tamil Không lồng tiếng சுருதி ஹாசன் (Shruti Haasan)
Tiếng Telugu Không lồng tiếng నిత్య మేనన్‌ (Nithya Menen) (giọng nói)
Không lồng tiếng రమ్య బెహరా (Ramya Behara (giọng hát)
Tiếng Thái วิชญาณี เปียกลิ่น (Wichayanee Pearklin)
Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Begüm Günceler
tiếng Ukraina Аліна Проценко (Alina Procenko) (giọng nói) TBA
Шаніс (Shanis) (giọng hát)
Tiếng Việt Đoàn Khánh Ái (giọng nói) Tiêu Châu Như Quỳnh
Dương Hoàng Yến (giọng hát)

Thiết kế và tính cách

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi lựa chọn Idina Menzel, tính cách của Elsa trải qua nhiều lần thay đổi. Theo Menzel, Elsa ban đầu được xây dựng như một nhân vật phản diện một chiều, nhưng dần dần trở nên dễ tổn thương và đa chiều hơn.[44] Menzel mô tả nhân vật của cô là "đặc biệt phức tạp và bị hiểu lầm".[18] Đạo diễn Jennifer Lee cho rằng Elsa bị thúc đẩy chủ yếu bởi nỗi sợ hãi xuyên suốt bộ phim,[45] trong khi Menzel bổ sung rằng nhân vật gặp khó khăn với tiềm năng của bản thân để trở thành "một người phụ nữ mạnh mẽ, quyền lực và phi thường".[14] Giám đốc sản xuất John Lasseter trở nên rất bảo vệ Elsa và kiên quyết với việc xây dựng cô theo hướng dễ được cảm thông và thấu hiểu hơn.[46] Writer and director Jennifer Lee stated on Twitter that Elsa's body language and mannerisms were "intentional to show anxiety and depression".[47] Vào tháng 7 năm 2013, Disney cho ra mắt hình ảnh của các nhân vật chính kèm theo lời tóm tắt vai trò của họ trong phim. Elsa được mô tả như sau:

Nhìn từ bên ngoài, Elsa có phong thái bình tĩnh, kín đáo và vương giả, nhưng thực tế, cô sống trong sợ hãi vì phải vật lộn với một bí mật khủng khiếp - cô được sinh ra với sức mạnh tạo ra băng và tuyết. Đó là một khả năng tuyệt vời, nhưng cũng vô cùng nguy hiểm. Bị đeo bám bởi khoảnh khắc khi phép thuật của cô suýt chút nữa đã giết chết người em gái Anna, Elsa cô lập bản thân và dành toàn bộ thời gian cố gắng kiềm chế sức mạnh đang lớn dần lên của mình. Cảm xúc bị đè nén của cô kích hoạt phép thuật, vô tình gây ra một mùa đông vĩnh cửu mà cô không thể dừng lại được. Cô lo sợ bản thân sẽ trở thành một con quái vật mà không một ai, kể cả người em gái, có thể ngăn cản. Her mounting emotions trigger the magic, accidentally setting off an eternal winter that she can't stop. She fears she's becoming a monster and that no one, not even her sister, can help her.[48]

Wayne Unten là họa sỹ giám sát nhân vật cho Elsa. Ông đề nghị đảm nhận công việc này vì bị thu hút bởi sự phức tạp của nhân vật.[49] Unten rất cẩn thận trong việc xây dựng biểu cảm khuôn mặt của Elsa để có thể làm nổi bật cảm giác sợ hãi của cô, đối lập với sự gan dạ của Anna.[49] Unten và ba họa sỹ hoạt hình khác của Disney sau đó được trao giải "Nhân vật hoạt hình xuất sắc nhất trong phim hoạt hình dài" tại giải thưởng Visual Effects Society Awards năm 2013: Joy Johnson, giám sát kĩ thuật hoạt hình; Alexander Alvarado, nghệ sỹ thiết kế ngoại hình; và Chad Stubblefield, giám sát mô phỏng 3D.[50] Giám sát kỹ xảo điện ảnh Yoo Jae-hyun phát triển các hiệu ứng băng tuyết đặc biệt của Elsa, bao gồm các hiệu ứng liên quan đến trang phục của cô trong vòng một năm rưỡi.[51][52]

Các nhà làm phim nhận định trường đoạn Elsa hát "Let It Go" là khoảnh khắc then chốt đối với sự phát triển của nhân vật. Phân cảnh thể hiện việc cô quyết định trút bỏ đi nỗi sợ hãi đối với sức mạnh của bản thân. Giám sát thiết kế nhân vật Bill Schwab nói: "Trước 'Let It Go', Elsa ăn mặc kín đáo, tóc búi cao — mọi thứ đều hoàn hảo. Trong bài hát, cô cho phép bản thân được là chính mình và mọi thứ thay đổi - tóc thả tự do hơn, trang phục tạo ra từ phép thuật. Cô ấy cuối cùng cũng được tự do, dù cô độc."[18] Các họa sỹ đã thiết kế sao cho ngoại hình của Elsa phản ánh sự thay đổi của nhân vật. Ban đầu, cô xuất hiện chủ yếu trong trang phục kín đáo và gò bó.[53] Theo Menzel, sau khi chấp nhận khả năng của mình, ngoại hình của Elsa trở nên "rất gợi cảm". "Cô ấy khá gợi cảm đối với tiêu chuẩn của Disney. Tôi phải nói rằng, họ đã vượt quá giới hạn một chút! Nhưng kèm theo đó là vẻ thỏa mãn của cô ấy cùng dáng đi siêu mẫu, đối với tôi mà nói, việc này rất vui vẻ vì được rời xa hiện thực."[1] Trong cuộc phỏng vấn với John August và Aline Brosh McKenna vào tháng 1 năm 2014, Lee tiết lộ rằng Lasseter trực tiếp hỗ trợ việc lên ý tưởng đối với quá trình biến đổi ngoại hình của Elsa: "Điều tôi thích nhất đó là... John Lasseter làm mẫu trực tiếp cho phân cảnh.... anh ấy đóng góp rất lớn trong quá trình thảo luận chi tiết về việc làm thế nào chúng tôi có thể diễn tả được cuộc hành trình cảm xúc này... với hoạt hình... Anh ấy đứng dậy rồi,.... 'tóc của cô ấy thế này, rồi cô ấy biến đổi, và cô ấy bước đi đầy kiêu ngạo,'. Anh ấy đã tự thể hiện nó."[54]

"Chúng tôi phải tưởng tượng cảm giác sẽ ra sao khi bị xua đuổi khỏi vương quốc của mình, khi phải từ bỏ mọi thứ mà bạn biết và những người mà bạn yêu quý. Nhưng đồng thời là sức mạnh to lớn được phóng thích khi cuối cùng bạn cũng có thể rũ bỏ những gì mà bản thân đã níu giữ trong suốt cuộc đời."
—Kristen Anderson-Lopez nói về ca khúc "Let It Go" và lựa chọn xây dựng Elsa thành nhân vật chính thay vì phản diện.[55]

Phân cảnh này cũng là bước ngoặt trong quá trình xây dựng nhân vật Elsa, và ban đầu được dùng để thể hiện quá trình nhân vật trở nên xấu xa. Nhạc sỹ Robert Lopez, người sáng tác ca khúc với vợ của mình, giải thích: "Elsa biến đổi từ một nàng công chúa hoàn hảo cố gắng kiềm chế bản thân cả cuộc đời trở thành 'Mặc kệ tất cả. Ta là chính ta.'"[55] Họ muốn sử dụng ca khúc này như một cách để mang lại cái nhìn rõ ràng hơn về nhân vật, cô ấy sẽ ra sao khi không còn phải sống trong sợ hãi, từ đó khiến cô trở nên phức tạp hơn.[23] Lời bài hát chính thức cùng giọng hát chứa đựng sự mỏng manh và đầy tổn thương nhưng cũng tràn đầy sức mạnh của Menzel đã thay đổi hoàn toàn cốt truyện, giúp Elsa được nhìn nhận lại như một nhân vật chính diện.[55] Cô ban đầu cố gắng kiềm chế sức mạnh để tránh làm hại người khác, đặc biệt là Anna, và khi không còn kiểm soát được nữa, cô xa lánh bản thân khỏi vương quốc nhằm bảo vệ những người xung quanh.[18][56] Trưởng nhóm thiết kế phân cảnh Paul Briggs nói sự ủng hộ của Anna là những gì Elsa cần nhất khi bí mật của cô bị bại lộ. "Sức mạnh của tình cảm gia đình là điều khiến câu chuyện trở nên ý nghĩa", ông giải thích, "người em gái sẵn sàng chấp nhận sức mạnh của cô và bảo vệ cô trước cả thế giới bằng mọi giá."[18]

Ngoại hình của Elsa cũng được thiết kế lại sau khi cô trở thành nhân vật chính diện. Ban đầu cô được vẽ với phong cách tương tự các nhân vật phản diện khác của Disney, với làn da màu xanh lam và tóc đen hình gai nhọn.[46] Vài tháng sau khi bộ phim ra mắt, Claire Keane (con gái của họa sỹ hoạt hình nổi tiếng Glen Keane) phát hành những bản nháp ý tưởng thiết kế ban đầu cho Elsa dựa trên ca sỹ Amy Winehouse.[57] Vào thời điểm đó, cô có mái tóc uốn cong màu xanh cùng một giọng nói trầm, đầy cảm xúc và tính tình thay đổi đột ngột.[57] Lasseter được coi là đã tác động tới thiết kế ôn hòa hơn của nhân vật sau này, đặc biệt là đối với mái tóc dày màu bạch kim của cô, chi tiết mà các họa sỹ hoạt hình cho rằng rất khó để thể hiện. Đạo diễn nghệ thuật Michael Giaimo nói rằng mặc dù nhiều phương án cho mái tóc của Elsa đã được đề xuất, Lasseter vẫn thúc dục đội ngũ họa sỹ tiếp tục cải tiến: "Nó vẫn chưa đủ khát vọng. Chúng ta muốn khán giả phải cảm thấy rằng mái tóc này là một tuyên bố đẹp đẽ."[58] Trong một chuyến đi thực địa, các nhà làm phim phát hiện ra nhiều phụ nữ ở Na Uy để tóc tết bím. Họ đã thuê một nhà tạo mẫu từ New York tên là "Danilo" để tái hiện lại trong khi vẫn có "một chút khác biệt".[59][60][61] Một phần mềm mới tên là Tonic được tạo ra để hỗ trợ công việc. Sau cùng, mái tóc của Elsa bao gồm 420.000 sợi khác nhau.[53][62] Để so sánh, Anna có 140.000 sợi,[59][63] trong khi mái tóc Rapunzel từ phim Nàng công chúa tóc mây chỉ cần có 27.000 sợi.[62]

Do Elsa còn là một đứa trẻ ở phần mở đầu của phim, các họa sỹ hoạt hình muốn ấn tượng đầu tiên với phép thuật của cô phản ánh sự ngây thơ và mơ mộng của nhân vật vào thời điểm đó. Điều này bao gồm việc tạo ra một thiết kế đơn giản cho bông tuyết đầu tiên của cô. Hình dạng của băng và tuyết trở nên chi tiết và phức tạp hơn khi Elsa lớn lên. Giám sát hiệu ứng đặc biệt Marlon West cho biết, "Khi Elsa cuối cùng cũng rũ bỏ mọi thứ và thật sự làm chủ khả năng của mình, chúng tôi muốn băng và tuyết mà cô ấy tạo ra cũng mang lại cảm giác rằng Elsa đã trưởng thành và trở thành một người phụ nữ trẻ xinh đẹp, tao nhã, tự tin và đầy quyền lực."[64]

Lâu đài băng được tạo ra khi Elsa hát "Let It Go" được thiết kế để minh họa cho sự trưởng thành trong sức mạnh của cô cũng như thể hiện cảm súc của cô đối với thế giới bên ngoài.[64][65] Ban đầu, lâu đài hiền hòa, tráng lệ. Nhưng sau khi Elsa ý thức được hậu quả của những gì mà cô vô tình gây ra, đồng thời bị truy đuổi bởi người khác, nó trở tên tối tăm và méo mó hơn, với những cột băng đâm ra từ các bức tường. Do không chắc chắn về hình dáng của lâu đài, đội ngũ thiết kế của phim đã vẽ rất nhiều mẫu lâu đài băng khác nhau. Lasseter sau đó đã gợi ý nên dựa trên cấu trúc và mô hình của các bông tuyết. Chẳng hạn, một bông tuyết khổng lồ sẽ đóng vai trò là nên móng và lâu đài sẽ có cấu trúc lục giác. Lasseter cũng muốn hình dạng các bông tuyết chi phối cách mà Elsa tạo ra lâu đài. Giám sát hiệu ứng đặc biệt Dale Mayeda chia sẻ: Bông tuyết là những tinh thể băng li ti được tạo ra giữa không trung. Khi nhiệt độ và độ ẩm thay đổi, chúng sẽ phân nhánh và thay đổi hình dạng bề mặt theo một hình mẫu nào đó. John Lasseter cho rằng sẽ thật tuyệt vời nếu khi Elsa tạo ra lâu đài, nó sẽ xuất hiện một cách đột ngột,kịch tích, đồng thời biến đổi và lớn dần lên theo mỗi bước chân của cô.[64]

Năm mươi họa sỹ hoạt hình đã tham gia vào phân cảnh lâu đài băng, mỗi khung hình cần tới 30 giờ để kết xuất.[64] Họ sau đó đã sử dụng kỹ thuật tương tự cho trang phục của Elsa. Trong khi các trang phục ở phần đầu phim của cô được lấy cảm hứng từ các họa tiết trang trí truyền thống của Na Uy, chiếc váy băng chịu ảnh hưởng lớn từ băng tuyết, tương tự như lâu đài băng. Chiếc áo choàng đi kèm là một bông tuyết rất lớn.[24]

Đầu năm 2018, những thảo luận nội bộ của Disney Studios được công bố xoay quanh khả năng xây dựng Elsa trở thành một nhân vật đồng tính trong Nữ hoàng băng giá 2.[66][67][68]

Xuất hiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Nữ hoàng băng giá

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Nữ hoàng băng giá (phim 2013)

Elsa, công chúa và người thừa kế ngai vàng của vương quốc Arendelle, được sinh ra với khả năng tạo và điều khiển băng tuyết. Khi còn nhỏ, cô thường dùng khả năng này để chơi đùa với em gái, công chúa Anna. Một đêm, Elsa vô ý làm bị thương Anna với phép thuật của mình. Vua và hoàng hậu của Arendelle nhanh chóng đưa Anna tới bộ lạc Thạch Yêu để chữa trị. Tại đây, trưởng bộ lạc đã cảnh báo rằng năng lực của Elsa sẽ ngày một lớn mạnh, ẩn chứa bên trong vẻ đẹp cũng như sự nguy hiểm tiềm tàng. Vì vậy cô cần học cách kiểm soát sức mạng này. Ký ức của Anna về tai nạn và sức mạnh của chị gái sau đó bị xóa bỏ còn Elsa bị chấn động tâm lý nặng nề. Nhằm kiểm soát và che giấu sức mạnh của Elsa, đức vua và hoàng quyết định đóng kín cửa lâu đài, cách li Elsa với tất cả mọi người kể cả Anna, dạy cô cách kiềm chế cảm xúc cũng như để cô đeo găng tay với suy nghĩ có thể giúp ngăn chặn phép thuật. Tuy vậy, sức mạnh của Elsa vẫn tiếp tục lớn mạnh, khiến cho cô trở nên sợ hãi rằng mình có thể làm hại tới những người thân bên cạnh. Trong khi đó, Anna không còn vui vẻ như trước và cảm thấy bối rối với sự xa lánh của chị mình. Cô tìm cách hàn gắn nhưng thất bại. Khi hai chị em bước vào tuổi thiếu niên, đức vua và hoàng hậu tử nạn trong một vụ đắm tàu ngoài khơi, khiến họ càng trở nên cô độc và xa cách.

Ba năm sau, Elsa, nay đã bước sang tuổi trưởng thành, chính thức làm lễ đăng cơ trở thành nữ hoàng. Cho dù cô cảm thấy sợ hãi khi phải mở cửa lâu đài để chào đón đám đông tới tham gia, buổi lễ vẫn diễn ra thuận lợi. Tuy nhiên, tại bữa yến tiệc chào mừng, Anna xin phép Elsa chấp thuận cho lễ cưới của mình với Hoàng tử Hans của Quần đảo phương Nam, người mà Anna mới gặp vào ngày hôm đó. Elsa từ chối khiến cho mâu thuẫn nảy sinh giữa hai chị em. Do bị Anna dồn ép, Elsa vô tình làm lộ khả năng của mình. Trước sự hoảng sợ của mọi người xung quanh, cũng như bị công tước xứ Weselton gọi là một con quái vật, cô trốn chạy khỏi lâu đài. Sức mạnh của cô được giải phóng cùng lúc, khiến cho Arendelle bị chìm vào một mùa đông vĩnh cửu. Khi ở một mình trên núi tuyết, Elsa quyết định chấp nhận sức mạnh đặc biệt của bản thân và dựng lên một lâu đài băng giá khổng lồ, với suy nghĩ rằng cô có thể sống tự do ở đây mà không phải lo sợ sẽ làm hại đến người khác. Cô cũng tạo nên và trong vô thức mang lại sự sống cho Olaf, người tuyết cô cùng làm với Anna khi còn bé.

Trong hành trình quyết tâm tìm kiếm Elsa và đưa cô trở về, Anna gặp Olaf, Kristoff, một anh chàng sống trên núi cùng chú tuần lộc của anh ta, Sven. Khi đến lâu đài băng, Anna tìm cách thuyết phục chị mình trở về và hàn gắn mối quan hệ chị em nhưng Elsa từ chối do nhớ lại ký ức làm bị thương Anna khi còn nhỏ. Anna sau đó nói cho cô biết tình cảnh hiện tại của Arendelle. Kinh hoàng bởi những gì mình đã gây ra, Elsa mất kiểm soát và vô tình làm đóng băng trái tim của Anna. Elsa tạo ra một người tuyết khổng lồ (được Olaf gọi là Marshmallow) để xua đuổi Anna, Kristoff và Olaf khỏi lâu đài. Lâu đài của cô từ từ trở nên tối tăm và méo mó, phản ánh sự dằn vặt cũng như nỗi sợ hãi lại trỗi dậy. Trong khi đó, Anna yếu dần đi và được Kristoff đưa tới chỗ bộ lạc Thạch Yêu tìm cách cứu chữa. Tuy nhiên, chỉ có "một nghĩa cử của tình yêu đích thực" mới có thể làm tan băng giá trong trái tim và cứu sống Anna.

Nghĩ rằng Anna đang gặp nguy hiểm, Hans cùng một nhóm binh sỹ tấn công vào lâu đài băng. Hai vệ sỹ của công tước xứ Weselton tìm cách ám sát Elsa nhưng bị cô vô hiệu hóa. Hans thuyết phục được Elsa tha mạng cho họ. Tuy nhiên, hỗn loạn xảy ra khiến cô bị bất tỉnh và bị đưa về giam trong ngục tối ở Arendelle. Hans tới cầu xin Elsa hóa giải phép thuật nhưng cô nói mình không có khả năng làm việc đó. Sau khi Hans dời đi, Elsa trốn khỏi phòng giam, đồng thời gây nên một trận bão tuyết lớn do quá sợ hãi. Anna trở về vương quốc, tin rằng một nụ hôn lãng mạn với Hans chính là "một nghĩa cử của tình yêu đích thực" sẽ cứu sống cô. Thay vào đó, anh ta tiết lộ rằng việc cầu hôn Anna là bước đầu trong kế hoạch chiếm lấy ngai vàng. Hans bỏ mặc Anna đang dần đông cứng trong căn phòng khóa trái. Cô may mắn được Olaf tìm thấy. Lúc này, Olaf nói với Anna rằng Kristoff yêu cô và họ cố gắng tìm tới Kristoff. Hans đối mặt Elsa và nói rằng cô đã giết chết Anna. Suy sụp hoàn toàn, Elsa khụy ngã và cơn bão tuyết đột ngột dừng lại. Hans tiến tới, chuẩn bị dùng kiếm để giết chết cô bị Anna chen vào giữa ngăn cản. Đúng lúc này, Anna hóa đá hoàn toàn, khiến thanh kiếm gẫy vụn và đánh bật Hans về phía sau.

Khoảnh khắc sau đó, Anna từ từ tan chảy, do hành động xả thân cứu chị gái của cô chính là "một nghĩa cử của tình yêu đích thực". Elsa nhận ra rằng tình yêu chính là chìa khóa để kiểm soát sức mạnh và nhờ đó chấm dứt mùa đông vĩnh cửu ở vương quốc. Mùa hè trở lại với Arendelle. Elsa lấy lại ngai vàng và học được cách sử dụng phép thuật một cách an toàn. Hơn hết, tình cảm chị em được hàn gắn hoàn toàn. Hans bị trục xuất về Quần đảo phương Nam, nơi hắn ta phải đối mặt với hình phạt của gia đình. Arendelle cũng chấm dứt việc giao thương với Weselton do những hành động sai trái của ngài công tước với Elsa.

Frozen Fever

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Frozen Fever

Một năm sau các sự kiện diễn ra ở phần phim đầu tiên, nhằm bù đắp khoảng thời gian xa cách, Elsa cố gắng tổ chức một bữa tiệc hoàn hảo cho sinh nhật lần thứ 19 của Anna cùng với Kristoff, Sven và Olaf. Mặc dù vậy, trong lúc đang cùng Anna tham gia vào một cuộc truy tìm những món quà được chuẩn bị sẵn quanh vương quốc, Elsa bắt đầu bị cảm lạnh. Cô vô tình tạo ra một nhóm người tuyết tý hon "snowgies" sau mỗi lần hắt hơi mà không hay biết. Những người tuyết này tấn công bữa tiệc và mang đến nhiều rắc rối cho Kristoff và Sven. Anna nhận ra sức khỏe của Elsa xấu dần đi và cố gắng khuyên bảo chị mình về lâu đài nghỉ ngơi. Không may, cơn sốt khiến cho Elsa có những biểu hiện mất kiểm soát, suýt chút nữa đã ngã khỏi tháp đồng hồ nếu Anna không giữ kịp thời. Lúc này Elsa mới thừa nhận mình bị ốm và xin lỗi vì đã làm hỏng mọi thứ. Hai người trở về lâu đài, nơi Anna bị gây bất ngờ bởi sự chào đón mà Kristoff,Sven, Olaf và Snowgies dành cho mình. Elsa hắt hơi lần nữa và nhận ra mình đã tạo ra đám người tuyết tý hon. Dù bị Anna ngăn cản, Elsa quyết tâm đánh dấu bữa tiệc bằng cách thổi kèn đồng chúc mừng. Tuy nhiên, cô hắt hơi đúng lúc, và vô ý tạo ra một khối tuyết khổng lồ, bay về quốc đảo phương nam, rơi trúng vào Hans đang dọn chuồng ngựa. Elsa cuối cùng cũng chịu nghỉ ngơi và được chăm sóc bởi Anna. Anna nói đây là món quà sinh nhật tuyệt vời nhất, khi cô có thể chăm sóc cho chị gái.

Frozen: Chuyến phiêu lưu của Olaf

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Frozen: Chuyến phiêu lưu của Olaf

Elsa cùng với Anna, Kristoff, Sven, và Olaf xuất hiện trong đoạn phim ngắn dài 21 phút được chiếu giới hạn[69] cùng với Coco của Pixar vào ngày 22 tháng 11 năm 2017.[70] Phim được chiếu trên kênh truyền hình ABC vào ngày 14 tháng 12 năm 2017.[71]

Elsa và Anna tổ chức bữa tiệc giáng sinh đầu tiên tại Arendelle từ khi Elsa cho mở cửa lâu đài. Tuy nhiên sau khi hồi chuông đánh dấu lễ hội được rung lên, người dân bất ngờ rời khỏi lâu đài để trở về đón giáng sinh theo phong tục riêng của mỗi gia đình. Hai chị em nhận ra gia đình họ không có truyền thống đón lễ cùng nhau. Elsa trách bản thân đã sống cô lập trong quá khứ khiến cô và Anna không thể dành thời gian ở bên nhau. Để cứu vãn tình hình, Olaf quyết định đi tìm kiếm một truyền thống gia đình đặc biệt dành cho hai người với sự giúp đỡ của Sven.

Olaf gõ cửa các gia đình khắp vương quốc và được chứng kiến nhiều phong tục đặc biệt liên quan đến Giáng sinh và lễ hội mùa đông. Sau khi tới gặp Oaken, Olaf và Sven cùng trở về lâu đài với đầy những món đồ đặc biệt đã thu thập được. Không may, Olaf vô tình khiến chiếc xe trượt tuyết bốc cháy, trượt xuống một con dốc và bị chia cách khỏi Sven. Chỉ còn trong tay một chiếc bánh hoa quả, Olaf cố gắng băng qua rừng và chốn chạy khỏi những con sói để trở về nhà.

Trong lúc này, Anna và Elsa tìm thấy những đồ đạc cũ của họ bị bỏ quên trên gác mái. Sven trở về báo cho Kristoff, Anna và Elsa rằng Olaf đang gặp nguy hiểm. Họ cố gắng tìm kiếm Olaf cùng với người dân của Arendelle. Olaf chạy thoát khỏi lũ sói nhưng lại bị một con chim ưng lấy mất chiếc bánh khi chỉ còn cách vương quốc không xa. Anna và Elsa tìm thấy Olaf và tiết lộ rằng họ cũng có một truyền thống riêng: Sau khi bị Elsa xa lánh, Anna bắt đầu làm thiệp và hình nộm Olaf tặng Elsa mỗi năm. Olaf chính là món quà đặc biệt của hai chị em.

Wreck-It Ralph 2: Phá đảo thế giới ảo

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Wreck-It Ralph 2: Phá đảo thế giới ảo

Elsa và Anna xuất hiện trong bộ phim cùng các công chúa Disney. Vanellope Von Schweetz bất ngờ lạc vào căn phòng nơi các công chúa đang tụ họp. Sau chút bỡ ngỡ ban đầu, các công chúa chào đón Vanellope và hỏi lý do tại sao cô xuất hiện ở đây. Khi kiểm tra xem Vanellope có phải công chúa hay không, Elsa đã hỏi liệu cô có một bàn tay ma thuật đồng thời biểu diễn phép thuật.[72] Tại cao trào của phim, Elsa và các công chúa trông thấy Ralph đang rơi tự do xuống từ trên cao. Họ kết hợp cùng nhau để cứu Ralph. Moana triệu hồi biển cả để Ariel tạo ra một xoáy nước khổng lồ. Jasmine và Elsa dùng thảm thần để bay tới chỗ Ariel. Elsa sau đó tạo ra một cầu trượt băng để đón lấy Ralph. Sau khi Ralph được cứu sống, các công chúa giới thiệu họ là bạn của Vanellope, với Elsa nói thêm rằng ai là bạn của Vanellope thì cũng là bạn của họ.

Nữ hoàng băng giá 2

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Nữ hoàng băng giá 2

Ba năm sau khi lên ngôi, nữ hoàng Elsa tổ chức lễ hội mùa thu cùng với công chúa Anna, người tuyết Olaf, Kristoff và Sven. Elsa nghe thấy một âm thanh bí ẩn cố gắng lôi kéo cô. Một đêm, cô đi theo sự chỉ dẫn của âm thanh này và vô tình đánh thức bốn linh hồn nguyên tố: đất, nước, lửa và gió. Các linh hồn ép người dân phải di dời khỏi vương quốc. Nhận biết được tình hình, tộc Thạch Yêu tìm đến Arendelle và ông Pabbie cảnh báo rằng họ cần phải sửa chữa một lỗi lầm trong quá khứ để cứu lấy vương quốc.

Lần theo âm thanh bí ẩn, Elsa, Anna, Olaf, Kristoff và Sven đi lên phía bắc tới Khu rừng ma thuật. Linh hồn gió, trong hình dạng một cơn lốc, xuất hiện và cuốn mọi người vào bên trong vòng xoáy. Elsa sử dụng phép thuật để trấn áp và tạo ra các khối tượng băng. Thông qua những tượng băng này, Elsa và Anna khám phá ra mẹ của họ, hoàng hậu Iduna, là một người Northuldra, tộc người có liên hệ tới phép thuật sống tại Khu rừng ma thuật, và đã từng cứu cha của họ, Agnarr, trong quá khứ. Họ cũng gặp một nhóm người Northuldra và binh sỹ Arendelle giao tranh với nhau trong suốt ba mươi tư năm. Linh hồn lửa xuất hiện. Elsa khám phá ra đó là một con kỳ nhông ma thuật và thu phục nó. Elsa và Anna cũng giúp hai nhóm người đình chiến bằng cách giải thích rằng mẹ của họ là người Northuldra còn cha họ là người Arendelle. Elsa sau đó biết được sự tồn tại của linh hồn nguyên tố thứ năm.

Elsa tiếp tục tiến lên phía bắc cùng Anna và Olaf. Họ tìm thấy con tàu đắm của vua và hoàng hậu quá cố từ sáu năm trước cùng một tấm bản đồ dẫn tới Ahtohallan, một dòng sông lưu giữ quá khứ trong truyền thuyết theo lời kể của Iduna. Cảm thấy tội lỗi khi cha mẹ bị thiệt mạng trong lúc cố gắng tìm kiếm lời giải cho nguồn gốc phép thuật của mình, Elsa quyết định tiếp tục cuộc hành trình một mình và đẩy Anna và Olaf đi tới chỗ an toàn. Elsa gặp và thu phục Nokk, linh hồn nước canh giữ đại dương dẫn tới Ahtohallan. Đến được Ahtohallan, Elsa khám phá ra âm thanh bí ẩn chính là lời gọi của Iduna và sức mạnh của cô là món quà mà thiên nhiên trao tặng cho hành động đầy vị tha của Iduna khi cứu mạng Agnarr, đồng thời biến cô trở thành linh hồn nguyên tố thứ năm - cầu nối giữa con người và phép thuật. Elsa cũng biết được rằng con đập chặn nước, món quà mà Arendelle xây tặng cho Northuldra trong quá khứ, thực chất là để làm suy yếu đi sức mạnh của Khu rừng ma thuật. Vua Runeard, vị vua đầu tiên của Arendelle, cha của Agnarr sợ hãi và ghét bỏ phép thuật. Chính Runeard là người đã giết chết tộc trưởng của tộc Northuldra và châm ngòi cho xung đột giữa hai bên. Elsa truyền tin về cho Anna trước khi bị đóng băng, cái giá phải trả để biết được sự thật. Olaf cũng biến mất khi phép thuật của Elsa không còn.

Anna nhận được thông tin từ Elsa và quyết định rằng con đập cần bị phá hủy để sửa chữa lỗi lầm trong quá khứ. Anna đánh thức người đá khổng lồ - linh hồn đất và dụ chúng đến phá vỡ con đập. Elsa được giải thoát, trở về Arendelle và kịp thời ngăn dòng nước lũ phá hủy vương quốc. Cô sau đó đoàn tụ với Anna và hồi sinh Olaf. Kristoff cầu hôn và nhận được lời chấp thuận từ Anna. Elsa giải thích rằng giờ đây cô và Anna chính là hai đầu của chiếc cầu nối liền con người với phép thuật của thiên nhiên. Elsa nhường ngôi nữ hoàng Arendelle cho Anna và trở thành người bảo vệ cho Khu rừng ma thuật.

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày xửa ngày xưa

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Ngày xửa ngày xưa (phim truyền hình))

Elsa xuất hiện ở cuối mùa ba của bộ phim truyền hình Ngày xửa ngày xưa. Cô được giải thoát khỏi một chiếc bình ma thuật và đi tới Storybrooke để tìm kiếm Anna. Vào mùa bốn, cô dựng một bức tường băng bao phủ toàn thị trấn và khám phá ra người dì chưa từng được nhắc tới tên là Ingrid cũng có sức mạnh tương tự. Vai diễn được thể hiện bởi nữ diễn viên Georgina Haig.

Sân khấu Broadway

[sửa | sửa mã nguồn]

Caissie Levy vào vai Elsa trong vở nhạc kịch Broadway Nữ hoàng băng giá chuyển thể từ phần phim đầu tiên, công diễn vào tháng 3 năm 2018.[73][74] Bên cạnh những ca khúc cũ, phiên bản nhạc có thêm những bài hát mới cho Elsa như "Dangerous to Dream" và "Monster."

Sản phẩm nhượng quyền

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ tháng 12 năm 2013, Disney giới thiệu dòng sản phẩm búp bê Elsa và Anna có khả năng phát các bài hát nổi tiếng trong phim.[75] Nhiều mẫu búp bê Elsa khác cũng được bán như tuyển tập búp bê thời trang, phiên bản tý hon, phiên bản Elsa lúc bé hay dòng sản phẩm búp bê cao cấp.[76] Trang phục hóa trang dành cho trẻ em mô phỏng theo chiếc váy băng cùng găng tay mà Elsa đeo trong phim được ra mắt.[76] Cùng với Anna, Elsa cũng hiện diện trong các dòng dụng cụ ăn uống ăn theo Nữ hoàng băng giá như cốc và đĩa.[76] Các mặt hàng khác lấy cảm hứng từ Elsa bao gồm hành lý, váy ngủ và đồ trang trí nhà.[77] Câu chuyện trong phim được viết thành sách cho trẻ em, bao gồm một phiên bản sách nói và một phiên bản truyện tranh có tên A Sister More Like Me được Brittney Lee minh họa.[78] Elsa và Anna là nhân vật điều khiển được trong trò chơi điện tử Disney Infinity 3.0.[79]

Đầu năm 2014, phần lớn các sản phẩm ăn theo Nữ hoàng bằng giá như búp bê và váy đều cháy hàng ở mọi nơi, bao gồm cả các cửa hàng chính hãng của Disney hay tại các công viên giải trí.[80] Đầu tháng 11 năm 2014, Disney cho biết hơn ba triệu trang phục Nữ hoàng băng giá đã được bán ra riêng tại Bắc Mỹ, trong đó Elsa sở hữu trang phục bán chạy nhất trong lịch sử của hãng, theo sau bởi Anna ở vị trí số 2.[81] Hãng Hallmark cho ra mắt sản phẩm đồ trang trí cây Giáng Sinh phiên bản Nữ hoàng Elsa do yêu cầu của người dùng tăng cao sau khi phiên bản Olaf được sản xuất vào năm 2014.

Công viên giải trí

[sửa | sửa mã nguồn]
Elsa trong chương trình gặp gỡ tại Disneyland ở California năm 2013.

Vào tháng 11, trước khi Nữ hoàng băng giá ra mắt, Anna và Elsa bắt đầu xuất hiện tại công viên nghỉ dưỡng Walt Disney ở Florida và California trong chương trình gặp gỡ các nhân vật hoạt hình. Các địa điểm tham quan cũng được mở cửa ở Na Uy để ghi nhận những ảnh hưởng của nền văn hóa vùng Scandinavia tới thiết kế trong phim.[82] Tại Disneyland, một căn nhà gỗ theo phong cách mùa đông được dựng lên ở khu vực Fantasyland, với mô hình người máy Olaf được đặt trên mái.[83] Tháng 2 năm 2014, chương trình gặp gỡ với nhân vật được kéo dài vô thời hạn, với thời gian xếp hàng chờ đợi thường xuyên vượt quá 2 giờ, lâu nhất trong các nhân vật của Disney.[84][85] Xe rước mang chủ để Nữ hoàng băng giá cùng Elsa, Anna và Olaf xuất hiện tại lễ diễu hành ở Disneyland Paris.[86] Ngày 9 tháng 3 năm 2014, màn trình diễn tương tự cũng diễn ra tại công viên giải trí Magic Kingdom.[87] Ngày 20 tháng 4 năm 2014, Anna và Elsa chuyển từ công viên Epcot ở Florida tới khu vực Princess Fairytale Hall tại Magic Kingdom, nơi thời gian chờ đợi bị kéo dài lên tới ba giờ đồng hồ, trong khi để gặp công chúa Lọ Lem và Rapunzel chỉ cần 15 phút.[88][89]

Phần biểu diễn "Let It Go" của Elsa trở thành tiết mục chủ đạo trong Winter Dreams, phiên bản đặc mùa đông đặc biệt của chương trình biểu diễn World of Color[90] tại công viên Disney California Adventure.[91] "Let It Go" cũng được thêm vào chương trình Disney Dreams!' của Disneyland Paris'[92]Celebrate the Magic của công viên Magic Kingdom tại Florida.[93]

Ngày 16 tháng 5 năm 2014, Disneyland giới thiệu phần biểu diễn trước lễ diễu hành mang chủ đề Nữ hoàng băng giá với sự góp mặt của Elsa, Anna và Olaf. Tiết mục được ra mắt vào ngày 13 tháng 6 năm 2014, trước chương trình diễu hành Mickey's Soundsational Parade.[94] Từ ngày 5 tháng 7 đến ngày 1 tháng 9 năm 2014, như một phần trong chương trình 'Frozen' Summer Fun tại Disney's Hollywood Studios, Anna và Elsa xuất hiện trên một chiếc xe trượt tuyết do ngựa kéo đi dọc đại lộ Hollywood, bên cạnh Kristoff và các vũ công trong phân đoạn Anna and Elsa's Royal Welcome. Cả hai tham gia tiết mục kể chuyện lịch sử của Arendelle trong For the First Time in Forever: A Frozen Sing-Along Celebration và cùng với Kristoff và Olaf biểu diễn trong "Frozen" Fireworks Spectacular, màn trình diễn pháo hoa trên nền nhạc Nữ hoàng băng giá.[95][96] Để đáp ứng nhu cầu lớn từ khán giả, các công viên giải trí của Disney sau đó đã thông báo chương trình Frozen Summer Fun sẽ được kéo dài tới ngày 28 tháng 9.[97]

Ngày 19 tháng 8 năm 2014, cửa hàng Elsa & Anna's Boutique (thay thế cho Studio Disney 365) được thông báo sẽ mở cửa vào giữa tháng 9 tại trung tâm mua sắm Downtown Disney ở khu nghỉ dưỡng Disneyland Resort, California. Ngày khai trương sau đó được lùi lại vào ngày 6 tháng 10 năm 2014 và tên cửa hàng cũng được thay đổi thành "Anna & Elsa's Boutique". Các mặt hàng ở đây được lấy cảm hứng từ Anna, Elsa và Olaf.[98][99][100][101]

Cho dù Disney chưa từng công bố lễ đăng quang dành cho Anna và Elsa, một bữa ăn đặc biệt với các nhân vật đã được lên kế hoạch bởi một nhóm đại lý dịch vụ du lịch vào sáng ngày 24 tháng 9 năm 2014. Dù không được tổ chức chính thức bởi Disney, sự kiện với tên gọi My Royal Coronation(Lễ đăng quang hoàng gia của tôi) vẫn có sự góp mặt của Anna và Elsa cùng nhân viên tư vấn hỗ trợ từ hãng.[102] Ngày 12 tháng 9 năm 2014, Walt Disney World thông báo điểm tham quan Frozen Ever After sẽ được mở cửa vào đầu năm 2016 tại khu vực văn hóa Na Uy tại công viên Epcot's World Showcase, thay thế cho Hành trình Maelstrom. Điểm tham quan bao gồm vương quốc Arendelle cùng âm nhạc và các phân đoạn quen thuộc từ phim, cũng như phần gặp gỡ giao lưu với Anna và Elsa.[103][104] Anna, Elsa, Kristoff, và Olaf tham gia vào lễ diễu hành Mickey's Once Upon a Christmastime Parade cũng như buổi lễ Mickey's Very Merry Christmas Party tại Magic Kingdom vào tháng 11 và 12 năm 2014[103] (from November 7 to December 31).[104] Bắt đầu từ tháng 11, hàng đêm Elsa sẽ sử dụng sức mạnh của mình để biến lâu đài của Lọ Lem thành cung điện băng giá.[103]

Vào ngày 13 tháng 11 năm 2014, trước sự kiện "A Sparkling Christmas", Anna và Elsa bắt đầu chương trình giao lưu và gặp gỡ tại Disneyland Hong Kong.[105]

Từ ngày 20 tháng 12 năm 2014, chương trình giao lưu với Anna và Elsa tại khu nghỉ dưỡng Disneyland Resort được chuyển từ công viên Disneyland California đến địa điểm mới có tên "Anna and Elsa's Royal Welcome" tại công viên Disney California Adventure. Bên cạnh đó, khu vực tham quan Storybook Land Canal Boats tại Disneyland California cũng được bổ sung thêm Arendelle, với mô hình lâu đài của vương quốc và cung điện băng giá của Elsa. Chính thức từ ngày 7 tháng 1 năm 2015, Elsa cùng Anna và Kristoff sẽ tham gia vào chương trình "For the First Time in Forever: A Frozen Sing-Along Celebration" tại Disney California Adventure như một phần của sự kiện "Frozen Fun". Cũng từ ngày này, Anna và Elsa xuất hiện trong vở kịch Nữ hoàng băng giá tại nhà hát Royal Theatre ở Disneyland California.[106][107]

Bắt đầu từ ngày 22 tháng 5 năm 2015, Disneyland California ra mắt chương trình diễu hành buổi tối "Paint the Night", với xe diễu hành đến từ Nữ hoàng băng giá cùng Anna, Elsa và Olaf, như một phần trong lễ kỷ niệm 60 năm thành lập.[108]

Cosplay

[sửa | sửa mã nguồn]

Elsa rất phổ biến trong cộng đồng Cosplay. Anna Fait trở nên nổi tiếng với việc hóa trang thành Elsa trong các hoạt động từ thiện, gặp gỡ người hâm mộ cũng như các sự kiện khác.[109][110]

Phản hồi

[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
"Không hoàn toàn thỏa mãn với việc biến đổi câu chuyện về tình yêu đích thực thành một lời cảnh tỉnh, [các nhà biên kịch] tạo thêm điểm nhấn và khiến Elsa trở thành một nhân vật đầy thiếu sót do ảnh hưởng bởi cách giáo dục và mong muốn chân thành nhưng tai hại của phụ huynh trong việc đảm bảo an toàn cho con cái...Elsa rất xa cách. Đầy sợ hãi. Lo lắng thái quá. Thiếu cảm giác an toàn. Luôn mặc cảm tội lỗi. Bởi vì con người—kể cả các nhân vật hoạt hình—là tổ hợp của tính cách và trải nghiệm. Đó là điều mà ngay cả các bộ phim do người đóng cũng quên mất trong ít nhất 63% thời gian."
—Donna Dickens, biên tập viên giải trí.[111]

Nhân vật Elsa nhận được sự tán dương rộng rãi từ giới phê bình cho tính cách đa chiều cũng như những thay đổi diễn ra trong bộ phim. Matt Goldberg tại Collider.com nhận xét cô là "một nhân vật đặc biệt dễ đồng cảm",[112] trong khi Deepanjana Pal của Firstpost khen ngợi quyết định biến Elsa thành nhân vật chính và nói: "Elsa không độc ác, lạnh lùng như nhân vật Nữ hoàng băng giá trong chuyện gốc. Cô là một cô gái trẻ lâm vào hoàn cảnh khó khăn, sợ hãi, cố gắng hiểu rõ về khả năng của mình và bị trói buộc bởi kỳ vọng và chuẩn mực. Thật là dễ dàng để đồng cảm với cô, cũng như ngạc nhiên và thán phục trước khả năng của cô khi dựng lên lâu đài băng tráng lệ trên đỉnh núi. Đặt bên cạnh Elsa, Anna chỉ như một đứa trẻ cần trưởng thành và cô đã thực hiện được điều này trong bộ phim."[113] James Croot của Stuff.co.nz so sánh sự xấu hổ và xa lánh khỏi vương quốc của Elsa với những gì mà nhân vật Simba trải qua trong Vua sư tử.[114] Katherine Webb, một nhà phê bình cho Wall St. Cheat Sheet, cho rằng những phân cảnh Elsa có được sự tự tin và tự chủ mang tới "một thông điệp đầy thú vị cho các bé gái đang tìm kiếm một hình tượng công chúa mới để noi theo".[115] Gary Wright của Rotoscopers nói: "Tâm lý dằn vặt và sức mạnh không kiểm soát được của cô định nghĩa hình ảnh nữ quyền hiện đại. Elsa tượng trưng cho tinh thần nữ giới không bị giới hạn - mạnh mẽ và duyên dáng, với sức mạnh có thể thay đổi thế giới."[116]

Travis Bean của Cedar Falls Times nói rằng sức mạnh băng giá của Elsa, sự khác biệt khiến cô luôn thận trọng, cũng như lòng vị tha khi cô tự cô lập bản thân để tránh làm tổn thương người khác đã giúp cho trẻ em kết nối tốt hơn với cốt truyện của Nữ hoàng băng giá.[117] Laurie Levy từ Chicago Now viết rằng những đứa cháu của bà "ngưỡng mộ Elsa vì sự thông minh, mạnh mẽ, sở hữu phép thuật, quyền lực" và không quan tâm đến việc thiếu đi những tình tiết liên quan đến tình yêu.[118] Magdalena Lachowicz, một nhà phê bình phim cho báo The Heights cho rằng tình cảm chị em giữa Elsa và Anna là điều quan trọng nhất của bộ phim,[119] và Stephen Holden của The New York Times cũng thích mối quan hệ này, khi mà tình cảm gia đình mới là thứ giúp "làm tan đi trái tim băng giá đầy sợ hãi của Elsa", thay vì tình yêu như công thức làm phim truyền thống của Disney.[120] Tony Hicks của San Jose Mercury News viết, "sự hoang mang của Anna và nỗi đau khổ của Elsa khi cô tự xa lánh bản thân khỏi thế giới—cũng như em gái- được xây dựng xuất sắc."[121] Emma Koonse của Christian Post cho rằng cùng với nhau, hai chị em là "những nhân vật lôi cuốn và được yêu thích nhất của Disney từ trước tới nay",[56] và Debbie Lynn Elias của Culver City Observer nhận xét rằng Elsa và Anna giống như hai mặt của một đồng xu, đều toát lên sự mạnh mẽ cho dù có cách thể hiện khác nhau, một người thông qua sức mạnh và sự tự tin, một người thông qua mong muốn gắn bó đầy vụng về và tình yêu.[122]

Nhiều ý kiến cho rằng Elsa thú vị hơn Anna, nhân vật chính trung tâm của Nữ hoàng băng giá. Cây bút của báo ABS-CBN, Fred Hawson mô tả Elsa là "một nhân vật đầy phi thường có hoàn cảnh thú vị và độc nhất do sức mạnh mà cô sở hữu" và nếu ra ý kiến rằng Nữ hoàng băng giá nên tập trung vào cô thay vì Anna.[123] Samra Muslim của The Express Tribune viết rằng sự hiện diện của cô chính là thứ đã thu hút khán giả trong suốt bộ phim: "Nhân vật của cô phức tạp, dễ cảm thông và xứng đáng được khai thác sâu hơn. Thay vào đó, câu chuyện chủ yếu xoay quanh mối quan hệ chị em và Anna, một nhân vật nữ gan dạ, xinh đẹp điển hình của Disney cũng như câu chuyện tình yêu hơn là nhân vật Elsa đầy lôi cuốn."[124]

Nhân vật cũng nhận được những lời chỉ trích. Charlotte O'Sullivan từ London Evening Standard đưa ra những nhận xét tiêu cực về Elsa, nói rằng cô "giống những cố vấn mảnh mai của The X Factor. Phấn mắt tím, vòng eo con kiến, giày cao gót".[125] Anna Smith của The Guardian không thích việc cả Elsa và Anna được thiết kế với thân hình mảnh mai, mắt to giống những hình mẫu công chúa điển hình của Disney.[126] Dana Stevens từ tạp chí Slate viết rằng "việc không cảm thấy phấn khích trước phép thuật ngày một tăng tiến của Elsa là bất khả thi" nhưng chỉ trích quyết định thể hiện nhân vật gia tăng sự tự tin vào bản thân bằng cách thay đổi ngoại hình của cô. Stevens cũng bày tỏ sự lo ngại rằng sự chuyển đổi từ trang phục kín đáo cho ngày đăng quang sang một chiếc váy xẻ tà quá đùi với họa tiết bông tuyết trong suốt, đi kèm đôi giày cao gót màu bạc cùng kiểu tóc mang tới cảm giác mời gọi có thể quá khêu gợi.[127] Christy Lemire so sánh Elsa với Carrie White, một nhân vật nữ nổi tiếng có khả năng giải phóng sức mạnh phép thuật khi bị kích động.[128]

"Let It Go"

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Let It Go (bài hát của Disney)

Idina Menzel cũng nhận được nhiều lời khen ngợi cho giọng hát của mình, với Amon Warmann của Cine Vue cho rằng giọng hát của cô "bay cao trong những bản nhạc ballad này".[129] Các nhà chuyên môn thường tập trung vào phần trình diễn "Let It Go", như Marc Snetiker từ Entertainment Weekly mô tả là "một bài thánh ca phi thường của tự do" với Elsa quyết định vượt qua nỗi sợ hãi đối với sức mạnh của mình.[130] Nhiều nhà phê bình nhận xét giọng hát của Menzel đã thực sự bùng nổ trong phân đoạn này.[1] Linda Barnard của The Star nói rằng Menzel "có thể khiến cho băng giá vỡ vụ nhờ giọng hát đây nội lực của cô".[131]

Matt DeTruck từ The Rochester City Newspaper cho rằng Menzel nên được ghi nhận vì đã mang đến cho ca khúc sức mạnh và sự say mê giống như với vai diễn nổi tiếng nhất của cô trong Wicked.[132] Donald Clark của Irish Times nói rằng bài hát hoàn toàn đủ sức để đứng ngang hàng với những bản thánh ca tự lực khác như I Am What I Am hay Don't Rain on My Parade. "Phần điệp khúc mở đầu và kết thúc của Let It Go được chốt lại với sự kháng cự dứt khoát: 'The cold never bothered me anyway!'(Đằng nào thì sự lạnh giá cũng chẳng khiến tôi phiền lòng!) Cố lên, cô gái."[133] Nasim Asl của The Oxford Student nhận xét: "Menzel giành lấy toàn bộ sự chú ý với màn thể hiện Let It Go. Phần ngân giọng mang hơi hướng Wicked của cô kết hợp hoàn hảo với một trường đoạn đầy kinh ngạc—cảnh lâu đài băng giá được tạo ra đã phô diễn kỹ năng của xưởng hoạt hình Disney, và kết quả là một trong những màn trình diễn ngoạn mục nhất từng được thực hiện bởi một nhân vật hoạt hình."[134]

Biểu hiện tâm lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Nữ hoàng băng giá được sử dụng trong các chiến dịch tuyên truyền nâng cao nhận thức về bệnh tâm thần cho trẻ em.[135][136][137] Cụ thể hơn là câu chuyện của Elsa mang đến cho khán giả một cái nhìn cơ bản về việc đấu tranh với tổn thương tâm lý, đồng thời truyền đạt một thông điệp mạnh mẽ về sự thừa nhận đối với bản thân, sự tự chủ và hi vọng.[138] Jay Boll mô tả Nữ hoàng băng giá là "một câu chuyện về sự rối loạn cảm xúc", với Elsa phép ẩn dụ hoàn hảo cho các chứng bệnh tâm thần. "Lần đầu tiên trong một phim hoạt hình của Disney, nhân vật phản diện lại chính là kẻ thù bên trong bản thân mỗi người. Nữ hoàng băng giá có một nhân vật xấu chỉ được tiết lộ cho đến gần cuối bộ phim nhưng kẻ phản diện trung tâm lại chính là Elsa, khi cô phải chiến đấu với những con quỷ nội tâm."[139][140] Bệnh tâm thần là chứng bệnh phổ biến nhất trên thế giới. Dựa theo kiến nghị của Tổ chức Carter Center, cứ bốn người Mỹ thì có một người sẽ được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần vào một thời điểm nào đó.

Ashley Getz và Sheridan Carter chẩn đoán Elsa có những triệu chứng của bệnh sợ khoảng trống, rối loạn nhân cách ranh giới và trầm cảm.[141] Nhà tâm lý học Nadia Ali viết trên The Washington Post rằng những biểu hiện của Elsa rất giống với bệnh nhân của cô, cố gắng kiểm soát và che giấu bằng chứng về những chướng ngại trong tâm lý – sự cô đơn mà họ cảm thấy khi tỏ ra như vậy. "Cô ấy [Elsa] ngồi dựa vào cửa phòng trong tuyệt vọng... Ở phân cảnh này, Elsa và căn phòng của cô bị bao phủ bởi một màu xám. Cô ngồi đó một mình với con quỷ của bản thân sau khi thất bại trong việc kiểm soát và che giấu sức mạnh của mình, điều đã khiến chính cô bị cô lập và gia đình bị chia cắt."[142]

"Tự cô lập, bị níu giữ bởi sức nặng của những kỳ vọng cá nhân và gần như không thể cảm nhận được sự vui vẻ, Elsa là nữ anh hùng của sự lo âu.", Jenny Singer của tạp chí Glamour nhận xét. Singer viết rằng cho dù Lọ Lem bị coi như một nô lệ, Moana được giao nhiệm vụ giải cứu bộ lạc của cô khỏi nạn đói và Belle bị bắt cóc nhưng họ vẫn duy trì được suy nghĩ tích cực. Đó là cách một số người đối mặt với cuộc sống và thật tốt cho họ. Nhưng Elsa là người cảm nhận được nỗi sợ hãi nhưng không đầu hàng trước bóng tối. Cô không chinh phục nỗi sợ hãi của mình. Cô không khiến cho nó biến mất. Cô sống chung với nó.[143]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 12 năm 2013, Elsa và Anna nhận được đề cử cho Nhân vật hoạt hình nữ xuất sắc nhất từ Alliance of Women Film Journalists, với giải thưởng được trao cho Anna.[144] Elsa giành chiến thắng ở cả ba hạng mục được đề cử tại Visual Effects Society Awards năm 2013, bao gồm Nhân vật hoạt hình xuất sắc nhất trong phim hoạt hình dài, Thiết kế môi trường xuất sắc nhất trong phim hoạt hình dài cho lâu đài băng và Hiệu ứng kỹ xảo và mô phỏng hoạt hình xuất sắc nhất trong phim hoạt hình dài cho hiệu ứng bão tuyết.[50][145] Bài hát "Let It Go" chiến thắng giải Oscar cho ca khúc trong phim hay nhất tại lễ trao giải lần thứ 86,[146] một giải Grammy, các giải thưởng giới phê bình như Phoenix Film Critics Society Awards[147] và Critics' Choice Awards.[148] Ca khúc cũng nhận được đề cử Bài hát hay nhất từ giải Quả cầu vàng,[149], giải thưởng Satellite Awards,[150] Broadcast Film Critics Association Award,[151] và Houston Film Critics Society Award.[152]

Tạp chí Time bầu chọn Elsa là nhân vật hư cấu có sức ảnh hưởng lớn nhất năm 2014.[153]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e Das, Lina (ngày 30 tháng 11 năm 2013). “Idina Menzel: A snow queen to melt our hearts”. Daily Mail. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
  2. ^ a b c Ekberg, Aida (ngày 18 tháng 5 năm 2013). “Disney's 'Frozen:' How Different Will the Movie Be from the Original Real Fairy Tale?”. Yahoo! Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
  3. ^ a b “Disney brings The Snow Queen in from the cold”. South China Morning Post. ngày 19 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2013.
  4. ^ a b c d Hill, Jim (ngày 18 tháng 10 năm 2013). “Countdown to Disney "Frozen": How one simple suggestion broke the ice on the "Snow Queen"'s decades-long story problems”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
  5. ^ “The Frozen Directors' Character Guide”. Empire. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2014.
  6. ^ Ivan-Zadeh, Larushka (ngày 8 tháng 12 năm 2013). “Frozen creators: It's Disney—but a little different”. Metro. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2014.
  7. ^ Chavez, Richard; Murray, Rebecca. “'Frozen' Directors Chris Buck and Jennifer Lee Discuss the Animated Film”. About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2014.
  8. ^ a b Eisenberg, Eric (ngày 11 tháng 7 năm 2013). “Meet The Characters Of Disney's Frozen”. Cinema Blend. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
  9. ^ Lee, Michael (ngày 7 tháng 10 năm 2013). “50 Things You May Not Know About Disney's "Frozen" [UPDATED]”. Movie Viral. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2013.
  10. ^ Wright, Gary (ngày 27 tháng 11 năm 2013). “Frozen in Time: Disney's Adaptation of a Literary Classic”. Rotoscopers. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2013.
  11. ^ Covert, Colin (ngày 29 tháng 11 năm 2013). “MOVIE REVIEW: Disney's animated 'Frozen' is pretty chill”. The Gazette. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2014.
  12. ^ “Frozen(2013)—Cast & Crew”. Yahoo! Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2014.
  13. ^ Condon, Sean Francis (ngày 27 tháng 11 năm 2013). “Interview: Frozen's Josh Gad”. MSN. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2014.
  14. ^ a b c d Benardello, Karen (ngày 25 tháng 11 năm 2013). “Roundtable Interview With Idina Menzel On Frozen”. We Got This Covered. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2013.
  15. ^ a b c d “Tangled—Secret Phone Recording Helped Idina Menzel Land New Disney Role”. Contact Music. ngày 1 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2014.
  16. ^ Slotek, Jim (ngày 27 tháng 11 năm 2013). “'Frozen' star Idina Menzel dives into character”. Toronto Sun. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  17. ^ a b Lasser, Josh (ngày 28 tháng 11 năm 2013). “Idina Menzel on 'Frozens Elsa, 'Wickeds Elphaba, and the power of her voice”. Hitfix. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2013.
  18. ^ a b c d e “Idina Menzel is Elsa, the Snow Queen in "Frozen"”. SM Cinema. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2015.
  19. ^ a b c De Asis Lo, Raymond (ngày 1 tháng 12 năm 2013). “Idina Menzel is a diva in her own right”. The Philippine Star. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2013.
  20. ^ Pockross, Adam (8 tháng 10 năm 2013). “21 'Frozen' Facts That Make Us Ready for Winter”. Yahoo! Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  21. ^ Burbank, Kyle (24 tháng 2 năm 2014). “Oscar Week: Frozen's Art of Animation”. LaughingPlace.com. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2014.
  22. ^ Chai, Barbara (27 tháng 11 năm 2013). “Listen to Songs From Disney's 'Frozen' and Hear How They Were Written”. The Wall Street Journal. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2013.
  23. ^ a b Lowman, Rob (20 tháng 11 năm 2013). “Go behind the scenes of Disney's 'Frozen'”. The News Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2013.
  24. ^ a b Ibarra, Sabina (1 tháng 11 năm 2013). “Interview: The Creative Team Behind Disney's 'Frozen'”. Screen Crave. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2019.
  25. ^ a b c d e “Elsa”. Charguigou. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2016.
  26. ^ Keegan, Rebecca (24 tháng 1 năm 2014). “Finding a diva in 41 languages”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2014.
  27. ^ 'Let It Go': A Global Hit in Any Language”. NPR. 24 tháng 2 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2014.
  28. ^ Doty, Meriah (31 tháng 3 năm 2014). “How These Singers Around the Globe Pushed 'Frozen' Over the Top”. Yahoo Movies. Yahoo!. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2014.
  29. ^ Charmedbalthazar (2 tháng 4 năm 2011), Wicked Interview with Maria Lucia and Annette Heick, truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2019
  30. ^ "Wicked - Die Hexen von Oz (Originalversion des Deutschen Musicals)" von Ensemble Palladium Theater Stuttgart (bằng tiếng Đức), truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2019
  31. ^ Gans, Andrew (12 tháng 2 năm 2013). “Willemijn Verkaik Flies Into Broadway's Wicked Feb. 12”. Playbill (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2019.
  32. ^ “박혜나:: 네이버 인물검색”. people.search.naver.com. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2019.[liên kết hỏng]
  33. ^ “박혜나 - 나무위키”. namu.wiki. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2019.
  34. ^ Pasqualini, Mario (3 tháng 4 năm 2019). “Lorena Brancucci e gli adattamenti musicali Disney”. Dimensione Fumetto (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019.
  35. ^ Milligan, Mercedes (19 tháng 7 năm 2019). “'Frozen 2' Will Get Sámi Language Version”. Animation Magazine (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2019.
  36. ^ Verstad, Anders Boine (19 tháng 7 năm 2019). “Frost 2 kommer på samisk”. NRK (bằng tiếng Na Uy (Bokmål)). Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2019.
  37. ^ “Her er de danske stemmer til "Frost 2" – ny "Frozen"-skuespiller er Tina Dickow”. Filmz (bằng tiếng Đan Mạch). 6 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2019.
  38. ^ “Vlaamse stemmen van Anna en Elsa: ""Frozen 2" staat bol van het feminisme"”. VRT NWS (bằng tiếng Hà Lan). 20 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2019.
  39. ^ 「アナと雪の女王2」松たか子さん「イントゥ・ジ・アンノウン~心のままに」MV 60秒 (bằng tiếng Anh), truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2019
  40. ^ “冰雪奇緣2 (2019)”. Charguigou. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2019.
  41. ^ AURORA, Anna Buturlina - Vnov za gorizont (iz "Kholodnoe serdce 2"/Audio Only) (bằng tiếng Anh), truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2019
  42. ^ Fra Keiino til «Disney»-stjerne: – Jeg måtte overvinne frykten (bằng tiếng Na Uy), truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2019
  43. ^ “Nu släpps biobiljetterna till "Frost 2"”. MovieZine. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2019.
  44. ^ Weintraub, Steve (27 tháng 11 năm 2013). “Idina Menzel Talks FROZEN, Recording the Song Let it Go, Returning to Broadway in IF/THEN, and More”. Collider. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2013.
  45. ^ Tabora, Brylle (2 tháng 12 năm 2013). “Disney adapts Hans Christian Andersen's 'Snow Queen' into 'Frozen'”. Daily Inquirer. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2013.
  46. ^ a b Giardina, Carolyn (27 tháng 11 năm 2013). “Oscars: With 'Frozen,' Disney Invents a New Princess (and Secret Software)”. The Hollywood Reporter. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2013.
  47. ^ Lee, Jennifer (11 tháng 1 năm 2014). “Twitter / alittlejelee”. Twitter. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2014.
  48. ^ Skinner, Craig (11 tháng 7 năm 2013). “New Frozen Images And Descriptions Introduce Us To The Characters”. Bleeding Cool. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2013.
  49. ^ a b Marcos, Angie (26 tháng 3 năm 2014). “Animators bask in glow of 'Frozen's' box-office and Oscar success”. The Orange County Register. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2014.
  50. ^ a b The Deadline Team (12 tháng 2 năm 2014). “VES Awards: 'Gravity' Wins 6 Including Top Prize; 'Frozen' Goes 4-For-4; 3 Nods For 'Game Of Thrones'”. Deadline Hollywood. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2014.
  51. ^ Lee, Kyung-min (25 tháng 6 năm 2014). “Disney artist Yoo Jae-hyun shares keys to success”. The Korea Times. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  52. ^ Lee, Sun-Young (21 tháng 5 năm 2014). “Korean artist behind icy magic of 'Frozen'”. The Korea Herald. Herald Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
  53. ^ a b Coyle, Emily (3 tháng 12 năm 2013). “6 Facts You Didn't Know About Disney's 'Frozen'”. Wall St. Cheat Sheet. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2013.
  54. ^ August, John; Aline Brosh McKenna (1 tháng 2 năm 2014). “Episode 128: Frozen with Jennifer Lee—Transcript”. Scriptnotes. johnaugust.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2014.
  55. ^ a b c Moskowitz, Shaina (29 tháng 11 năm 2013). “Exclusive interview with the talented duo behind the music of Disney's 'Frozen'”. Examiner.com.
  56. ^ a b Koonse, Emma (26 tháng 11 năm 2013). “Kristen Bell, Idina Menzel On Redefining Disney Princesses In 'Frozen,' Film Coming Soon”. Christian Post. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2019.
  57. ^ a b Roberts, Katie (7 tháng 2 năm 2014). “Early 'Frozen' Concept Art Reveals Elsa Inspired by Amy Winehouse & Bette Midler (PHOTO)”. Moviefone. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2019.
  58. ^ Gallo, Carmine (5 tháng 12 năm 2013). “The Single Greatest Piece Of Advice Steve Jobs Gave 'Frozen' Executive Producer John Lasseter”. Forbes. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2013.
  59. ^ a b “Evil Elsa, shy Kristoff? 10 'Frozen' facts you probably didn't know”. Rappler.com. 7 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2014.
  60. ^ “Frozen: Disney's magical new adventure”. Orange. 2 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2014.
  61. ^ Nguyen, Hanh (28 tháng 8 năm 2014). “Story of Frozen Reveals Movie Secrets—Which Beloved Song Was Almost Cut?”. TVGuide.com. CBS Interactive Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2014.
  62. ^ a b “The Making of Disney's Animated Oscar Contender 'Frozen'”. The Hollywood Reporter. 27 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2013.
  63. ^ Emanuel Levy, "Frozen: Setting and Visual Look" Lưu trữ tháng 2 24, 2014 tại Wayback Machine, Emanuel Levy Cinema 24/7, December 26, 2013.
  64. ^ a b c d Hill, Jim (9 tháng 10 năm 2013). “Countdown to Disney "Frozen": The flaky design idea behind the look of Elsa's ice palace”. Jim Hill Media. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  65. ^ Connelly, Brendon (25 tháng 9 năm 2013). “Inside The Research, Design, And Animation Of Walt Disney's Frozen With Producer Peter Del Vecho”. Bleeding Cool. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  66. ^ 'Frozen' Director Gives Glimmer Of Hope Elsa Could Get A Girlfriend”. Huffpost. 26 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2018.
  67. ^ “Elsa Coming Out as a Lesbian? Disney's 'Frozen 2' Could Showcase an LGBTQ Couple”. CBNNews.com. 1 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2018.
  68. ^ “Elsa from Frozen could be a lesbian? Cue the outrage”. The Guardian. 4 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2018.
  69. ^ Booth, Kaitlyn (13 tháng 6 năm 2017). “Olaf's Frozen Adventure Trailer For The 21-Minute Featurette In Front Of Coco”. Bleeding Cool. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2017.
  70. ^ Snetiker, Marc (13 tháng 6 năm 2017). “John Lasseter talks Olaf's Frozen Adventure, debuts first look”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2017.
  71. ^ “OLAF'S FROZEN ADVENTURE Makes Broadcast Television Debut on ABC, 12/14”. broadwayworld.com. 8 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2017.
  72. ^ “Trailer”. YouTube. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2018.
  73. ^ “Frozen Musical Announces Full Broadway Lead Casting”. broadway.com. 17 tháng 4 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2017.
  74. ^ Hoffman, Barbara (14 tháng 3 năm 2018). “Bow down to the 'Frozen' stars ruling Broadway”. New York Post. New York Post. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2018.
  75. ^ “Disney Frozen Musical Magic Elsa and Anna Dolls”. The Celebrity Cafe. 13 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  76. ^ a b c Hill, Jim (6 tháng 11 năm 2013). “Winter comes early to NYC as the Times Square Disney Store gets "Frozen" over”. Jim Hill Media. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2014.
  77. ^ Disney Consumer Products (6 tháng 11 năm 2013). “Press release: Disney Celebrates Family Bonds and Epic Storytelling in New Frozen Product Collection Available at Retail Now”. Disney Consumer Products. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2019.
  78. ^ Stradling, Morgan (29 tháng 7 năm 2013). “New Disney 'Frozen' Storybook Images Reveal Juicy Plot Details”. Rotoscopers. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  79. ^ Brigante, Ricky (21 tháng 11 năm 2013). “Disney Infinity finally features more female characters in new Toy Box fun with Frozen, Rapunzel, Vanellope von Schweetz”. Inside the Magic. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  80. ^ Schuster, Dana (14 tháng 4 năm 2014). “'Frozen' merch is making parents do crazy things”. New York Post. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2014.
  81. ^ Byron, Ellen; Paul Ziobro (4 tháng 11 năm 2014). “Elsa Dominates Anna in 'Frozen' Merchandise Sales”. Wall Street Journal. Dow Jones & Company, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  82. ^ Brigante, Ricky (7 tháng 10 năm 2013). “Anna and Elsa to begin "Frozen" character meet-and-greets at Walt Disney World and Disneyland in November”. Inside the Magic. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  83. ^ Brigante, Ricky (15 tháng 11 năm 2013). “Anna and Elsa joined by animated Olaf for 'Frozen' character meet-and-greet in Royal Reception at Disneyland”. Inside the Magic. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  84. ^ Tully, Sarah (20 tháng 2 năm 2014). “'Frozen' characters draw unprecedented lines at Disneyland”. Orange County Register. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2014.
  85. ^ “Disney's 'Frozen' meet-and-greet at Epcot to continue indefinitely”. Doctor Disney. 10 tháng 2 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2014.
  86. ^ Lee, Banks (7 tháng 12 năm 2013). “Day two of filming for the 2013 Disney Parks Christmas Day Parade—Photos/Video”. Orlando Attractions Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  87. ^ Brigante, Ricky (9 tháng 3 năm 2014). “Festival of Fantasy parade debuts high-energy entertainment at Walt Disney World with 'Frozen,' 'Tangled', among fun floats”. Inside the Magic. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2014.
  88. ^ Brigante, Ricky (20 tháng 4 năm 2014). “"Frozen" characters find new home at Walt Disney World as FastPass+ cuts wait to meet Anna and Elsa—when it works”. Inside the Magic. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2014.
  89. ^ Fickley-Baker, Jennifer (20 tháng 4 năm 2014). “'Frozen' Anna & Elsa Arrive at Princess Fairytale Hall Today”. Disney Parks Blog. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2014.
  90. ^ Brigante, Ricky (15 tháng 11 năm 2013). “World of Color—Winter Dreams all-new nighttime Disneyland show debuts featuring Frozen, Toy Story, holiday songs”. Inside the Magic. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  91. ^ Barnes, Brooke (1 tháng 12 năm 2013). “Boys Don't Run Away From These Princesses”. New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  92. ^ Monti, Andrea (23 tháng 11 năm 2013). “Disneyland Paris: Intervista a Katy Harris”. Parks Mania. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  93. ^ 'Frozen' Segment Added to 'Celebrate the Magic'”. Laughing Place. 21 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  94. ^ Slater, Shawn (16 tháng 5 năm 2014). “More 'Frozen' Fun at Disneyland Park This Summer”. Disney Parks Blog. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2014.
  95. ^ Slater, Shawn (26 tháng 6 năm 2014). “Get Ready to Experience 'Frozen' Summer Fun—Live at Disney's Hollywood Studios”. Disney Parks Blog. The Walt Disney Company. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2014.
  96. ^ Brigante, Ricky (26 tháng 6 năm 2014). “Frozen Summer Fun LIVE! coming to Walt Disney World with royal welcome, stage show, fireworks, and park wide party”. Inside the Magic. Distant Creations Group, LLC. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2014.
  97. ^ Wynne, Sharon Kennedy (7 tháng 8 năm 2014). “'Frozen' still hot at Disney theme park, celebration extended”. Tampa Bay Times. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2014.
  98. ^ Harker, Michelle (19 tháng 8 năm 2014). “Elsa & Anna's Boutique and More Thrilling Transformations Coming to the Disneyland Resort”. Disney Parks Blog. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2014.
  99. ^ “Studio Disney 365 to Transform into Elsa and Anna's Boutique”. LaughingPlace.com. 19 tháng 8 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2014.
  100. ^ Harker, Michelle (16 tháng 9 năm 2014). “Update: Anna & Elsa's Boutique in the Downtown Disney District at the Disneyland Resort”. Disney Parks Blog. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2014.
  101. ^ “Anna & Elsa's Boutique to Open October 6”. LaughingPlace.com. 16 tháng 9 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2014.
  102. ^ “Anna and Elsa to appear in "My Royal Coronation" event at Walt Disney World as travel agents bring "Frozen" character meal to Epcot”. Inside the Magic. 26 tháng 8 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2014.
  103. ^ a b c Staggs, Tom (12 tháng 9 năm 2014). “'Frozen' Attraction Coming to Epcot”. Disney Parks Blog. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2014.
  104. ^ a b Brigante, Ricky (12 tháng 9 năm 2014). “"Frozen" ride announced for Walt Disney World in 2016 to replace Maelstrom at Epcot, "Frozen" Christmas also revealed”. Inside the Magic. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2014.
  105. ^ Sim, Darren (15 tháng 8 năm 2014). “Hong Kong Disneyland launches "Disney Paint the Night" Parade from October 2014”. darrensim.com. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2014.
  106. ^ Slater, Shawn (5 tháng 12 năm 2014). “New 'Frozen Fun' Opens at Disneyland Resort January 7”. Disney Parks Blog. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2014.
  107. ^ Graser, Marc (5 tháng 12 năm 2014). “Disney Adds 'Frozen' Experiences to Disneyland, California Adventure Theme Parks”. Variety. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2014.
  108. ^ “Prepare to be Wowed by Disneyland's Three New Nighttime Spectaculars”. Disney Insider. 14 tháng 4 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2015.
  109. ^ Arnowitz, Leora (18 tháng 6 năm 2014). “I want to be a role model for children”. FoxNews.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2016.
  110. ^ Rothman, Michael (13 tháng 6 năm 2014). “Meet Anna Faith Carlson, the Actress Who Looks Just Like Elsa From 'Frozen'”. ABC News. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2016.
  111. ^ Dickens, Donna (3 tháng 12 năm 2013). “Disney's Frozen: Awful Expectations Vs. Enchanting Reality”. Hitfix. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2013.
  112. ^ Goldberg, Matt (28 tháng 11 năm 2013). “FROZEN Review”. Collider.com. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2013.
  113. ^ Pal, Deepanjana (29 tháng 11 năm 2013). “Frozen review: This modern Snow Queen will melt your heart”. Firstpost. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2013.
  114. ^ Croot, James (12 tháng 12 năm 2013). “Frozen is Disney at its best”. Stuff.co.nz. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
  115. ^ Webb, Katherine (5 tháng 12 năm 2013). “4 Ways 'Frozen' Flips the Traditional Disney Script”. Wall St. Cheat Sheet. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
  116. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2015.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  117. ^ Bean, Travis (23 tháng 12 năm 2013). “Frozen features fantasy, focuses on family values”. Cedar Falls Times. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2013.
  118. ^ Levy, Laurie (11 tháng 12 năm 2013). “Frozen—A Multi-Generational Review”. Chicago Now. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2013.
  119. ^ Lachowicz, Magdalena (9 tháng 12 năm 2013). “Animated Film 'Frozen' Breaks Disney Princess Conventions”. The Heights. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2019.
  120. ^ Holden, Stephen (26 tháng 11 năm 2013). “From the Heat of Royal Passion, Poof! It's Permafrost”. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2013.
  121. ^ Hicks, Tony (26 tháng 11 năm 2013). “Review: 'Frozen' is Disney at its best”. San Jose Mercury News. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2013.
  122. ^ Elias, Debbie Lynn (12 tháng 12 năm 2013). “Movie Review—Frozen”. Culver City Observer. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  123. ^ Hawson, Fred (10 tháng 12 năm 2013). “Review: Icy sentimentality in 'Frozen'”. ABS-CBN. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2013.
  124. ^ Muslim, Samra (26 tháng 1 năm 2014). “Movie review: Frozen—winter is coming”. The Express Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2014.
  125. ^ O'Sullivan, Charlotte (7 tháng 12 năm 2013). “Frozen 3D—film review”. London Evening Standard. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2013.
  126. ^ Smith, Anna (28 tháng 11 năm 2013). “Frozen in time: when will Disney's heroines reflect real body shapes?”. The Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2013.
  127. ^ Stevens, Dana (14 tháng 2 năm 2014). “I Can't 'Let It Go'”. Slate. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2014.
  128. ^ Christy Lemire (November 27, 2013). "Frozen" Lưu trữ tháng 3 28, 2014 tại Wayback Machine. RogerEbert.com. Ebert Digital LLC. Retrieved December 26, 2013.
  129. ^ Warmann, Amon (5 tháng 12 năm 2013). “Film Review: 'Frozen'”. Cine Vue. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2013.
  130. ^ Sneitker, Marc (30 tháng 11 năm 2013). “Disney's 'Frozen' soundtrack: Ranking all nine original songs”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2013.
  131. ^ Barnard, Linda (27 tháng 11 năm 2013). “Frozen will warm your heart: review”. The Star. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  132. ^ DeTruck, Matt (27 tháng 11 năm 2013). “CD Review: Disney's "Frozen" Soundtrack”. City Newspaper. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2013.
  133. ^ Clark, Donald (6 tháng 12 năm 2013). “Film review: Frozen”. Irish Times. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  134. ^ Asl, Nasim (13 tháng 12 năm 2013). “Frozen Melts Viewers' Hearts”. The Oxford Student. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2013.
  135. ^ “Disney's Frozen Promote Mental Health Awareness for children”. www.depression-guide.com. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2022.
  136. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2019.
  137. ^ Cabe, Isaac (20 tháng 3 năm 2016). “6 Ways 'Frozen' Teaches You What Depression Is Like”. Cracked.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2022.
  138. ^ “The Frozen Movies' Powerful Hidden Message About Mental Health”. Goalcast (bằng tiếng Anh). 7 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2022.
  139. ^ “9 Reasons Elsa's Storyline in 'Frozen' Is the Perfect Metaphor for Mental Illness”. The Mighty (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2022.
  140. ^ “Borderline Personality Disorder in Disney's Frozen” (bằng tiếng Anh). 12 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2022.
  141. ^ “Elsa's Psychological Diagnosis”. prezi.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2022.
  142. ^ Ali, Nadia (13 tháng 5 năm 2014). “What Disney's 'Frozen' can teach us about mental illness”. Washingtonpost.
  143. ^ Nast, Condé (22 tháng 11 năm 2019). “Elsa in 'Frozen' Is a Disney Queen for Anxious Girls”. Glamour (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2022.
  144. ^ “2013 EDA Award Nominess”. Alliance of Women Film Journalists. 11 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  145. ^ S. Cohen, David (12 tháng 2 năm 2014). “Visual Effects Society Awards: 'Gravity' Soars, 'Frozen' Sparkles”. Variety. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2014.
  146. ^ Staff (24 tháng 1 năm 2014). “2013 Academy Awards Nominations and Winners by Category”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2014.
  147. ^ “Phoenix Film Critics Society 2013 Award Nominations”. Phoenix Film Critics Society. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  148. ^ Peter Gicas (16 tháng 12 năm 2013). “Critics' Choice Awards 2014: Complete List of Nominations”. E! Online. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  149. ^ “Golden Globe Awards Nominations: '12 Years A Slave' & 'American Hustle' Lead Pack”. Deadline. 12 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  150. ^ International Press Academy (2 tháng 12 năm 2013). “The International Press Academy Announces Nominations For The 18th Annual Satellite Awards™”. PR Newswire. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  151. ^ “American Hustle, 12 Years A Slave Lead BFCA's Critics Choice Movie Awards Nominations”. Deadline Hollywood. 17 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2013.
  152. ^ “12 Years a Slave wins Pic, Cuaron Director for Houston Film Critics”. Awards Daily. 15 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2013.
  153. ^ D'Addario, Daniel (3 tháng 12 năm 2014). “The 15 Most Influential Fictional Characters of 2014”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Lee, Jennifer (2013). “Frozen's Final Shooting Draft” (PDF). Walt Disney Animation Studios. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2014.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Elsa (Nữ hoàng băng giá).
  • Official character page
  • Disney's Frozen "Let It Go" Sequence Performed by Idina Menzel trên YouTube
  • iconCổng thông tin Disney
  • iconCổng thông tin Hoạt hình
  • Cổng thông tin Điện ảnh
  • flagCổng thông tin Hoa Kỳ
  • x
  • t
  • s
Phim Nữ hoàng băng giá của Disney
Phim
  • Nữ hoàng băng giá (2013)
    • Nhạc phim
  • Nữ hoàng băng giá II (2019)
Phim ngắn
  • Frozen Fever (2015)
  • Frozen: Chuyến phiêu lưu của Olaf (2017)
  • Frozen: Chuyện chàng Người Tuyết (2020)
Nhân vật
  • Anna
  • Elsa
  • Kristoff
  • Olaf
  • Sven
  • Hans
Âm nhạc
  • "Frozen Heart"
  • "Do You Want to Build a Snowman?"
  • "For the First Time in Forever"
  • "Love Is an Open Door"
  • "Let It Go"
  • "Reindeer(s) Are Better Than People"
  • "In Summer"
  • "Fixer Upper"
  • "Making Today a Perfect Day"
Truyền hình
  • Ngày xửa ngày xưa ("There's No Place Like Home"
  • mùa 4) (2014)
  • The Story of Frozen: Making a Disney Animated Classic (2014)
Trò chơi điện tử
  • Frozen: Olaf's Quest (2013)
  • Frozen Free Fall (2013)
  • Disney Infinity (2013)
  • Club Penguin (2013, 2015)
  • Disney Infinity: Marvel Super Heroes (2014)
  • Fantasia: Music Evolved (2014)
  • Little Big Planet 3 (2014)
Liên quan
  • Danh sách giải thưởng của Nữ hoàng băng giá
  • Bà chúa Tuyết (1845)
  • Disney on Ice
  • Get a Horse! (phim ngắn 2013)
  • Thể loại Thể loại
  • Cổng thông tin Chủ đề
  • x
  • t
  • s
Những nàng công chúa Disney
  • Bạch Tuyết
  • Lọ Lem
  • Aurora
  • Ariel
  • Belle
  • Jasmine
  • Pocahontas
  • Mộc Lan
  • Tiana
  • Rapunzel
  • Merida
  • Moana
Phim
Điện ảnh
  • Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn
  • Cô bé Lọ Lem
  • Người đẹp ngủ trong rừng
  • Nàng tiên cá
  • Người đẹp và quái vật
  • Aladdin
  • Pocahontas
  • Hoa Mộc Lan
  • Công chúa và chàng Ếch
  • Người đẹp tóc mây
  • Công chúa tóc xù
  • Hành trình của Moana
  • Raya và rồng thần cuối cùng
  • Hành trình của Moana 2
Hậu truyện
  • Sự trở lại của Jafar
  • Aladdin và vua trộm
  • Người đẹp và quái vật: Kỳ Giáng Sinh bị ếm bùa
  • Pocahontas 2: Hành trình đến một thế giới mới
  • Nàng tiên cá 2: Trở về biển cả
  • Cô bé Lọ Lem II: Những giấc mơ trở thành hiện thực
  • Cô bé Lọ Lem III: Quay ngược thời gian
  • Hoa Mộc Lan 2
Tiền truyện
  • Belle's Magical World
  • The Little Mermaid: Ariel's Beginning
Phim ngắn
  • Người đẹp tóc mây
  • The Legend of Mor'du
  • Disney Princess Enchanted Tales: Follow Your Dreams
Phim người đóng
  • Tiên hắc ám (2014)
  • Lọ Lem (2015)
  • Người đẹp và quái vật (2017)
  • Aladdin (2019)
  • Tiên hắc ám 2 (2019)
  • Hoa Mộc Lan (2020)
  • Nàng tiên cá (2023)
  • Bạch Tuyết (2025)
Truyền hình
  • Nàng tiên cá
  • Aladdin
  • Sing Me a Story with Belle
  • Tangled: The Series
Album
  • Disney's Princess Favorites
  • Disney Princess: The Ultimate Song Collection
  • Disney Princess Tea Party
  • Ultimate Disney Princess
Phim ăn theo
Loạt phim Descendants
  • Descendants
  • Descendants 2
  • Descendants 3
  • The Rise of Red
Khác
  • Sofia the First
  • The 7D
  • Elena of Avalor
  • Elena and the Secret of Avalor
Liên quan
Hoàng tử
  • Quái thú (Người đẹp và quái vật)
  • Aladdin
  • Flynn Rider
Truyền thông
  • If You Can Dream
  • Mickey's Pirate and Princess Party
  • Disney Princess: Enchanted Journey
  • Kingdom Hearts
  • Disney Princess: My Fairytale Adventure
  • Wreck-It Ralph 2: Phá đảo thế giới ảo
  • Thể loại Thể loại:Những nàng công chúa Disney
  • Cổng thông tin Cổng thông tin:Disney

Từ khóa » Công Chúa Băng Giá Elsa